Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đề tài: Qua cơ sở lý luận về lạm phát.phân tích tình trạng lạm phát và các biện pháp ở Việt Nam trong năm 2008 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.87 KB, 25 trang )

KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
  
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài:
Qua cơ sở lý luận về lạm phát.phân tích tình
trạng lạm phát và các biện pháp ở Việt Nam
trong năm 2008
GVHD : Đặng Công Triết
Thực hiện: Nhóm 5
Lớp : 110810103
Thành phố Hồ Chí Minh, thứ 6 ngày 18 tháng 03 năm 2011
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH
aôb

DANH SÁCH NHÓM
1. Nguyễn Minh Tiến MSSV: 10118521
2. Nguyễn Thị Tuyết Mai MSSV: 10081361
3. Trần Thanh Thảo MSSV: 10083551
4. Lê Thụy Thùy Trang MSSV: 10075001
5. Đặng Thị Mùi MSSV: 10080071
6. Phùng Thiên Vũ MSSV:
7. Nguyễn Thị Cẩm Yến MSSV: 10089191
8. Phan Ngọc Vân Lam MSSV: 10157451
9. Nguyễn Thị Thu Thúy MSSV: 10147311
10. Lê Đình Hùng MSSV: 10082791
MỤC LỤC
LỜI NHẬN XÉT 2
LỜI MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 5


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 5
1. Khái niệm và phân loại lạm phát 5
1.1 Khái niệm 5
1.2 Phân loại lạm phát 5
1.2.1 Lạm phát vừa phải 5
1.2.2 Lạm phát phi mã 6
1.2.3 Siêu lạm phát 6
2. Nguyên nhân lạm phát 9
2.1 Lạm phát theo thuyết tiền tệ 9
2.2 Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo) 10
2.3 Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy 10
2.4 Lạm phát dự kiến 11
2.5 Các nguyên nhân khác 11
3. Những tác động của lạm phát 12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ BIÊN PHÁP
KHẮC PHỤC 14
1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua 14
2. Đặc trưng lạm phát ở nước ta 16
3. Nguyên nhân thực sự gây ra lạm phát cao ở Việt Nam 17
4. Những yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát trong năm 2010 18
4.1 Điều chỉnh giá điện, xăng dầu và một số hàng hoá cơ bản khác 19
4.2 Ảnh hưởng của việc điều chỉnh giá 19
4.3 Hiệu ứng từ việc tăng lương tối thiểu 20
4.4 Lạm phát do yếu tố cầu kéo 20
4.5 Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ 20
5. Các giải pháp chống lạm pháp ở Việt Nam hiện nay 21
5.1 Các quan điểm và khắc phục lạm phát 21
5.2 Biện pháp chống lạm phát ở Việt Nam 22
5.2.1 Các biện pháp tiền tệ tài chính 22
5.2.2 Các biện pháp về ngân sách nhà nước 23

5.2.3 Các biện pháp điều hành cung cầu thị trường 24
5.2.4 Về chỉ đạo điều hành 26
KẾT LUẬN 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
TÓM TẮT
Việt Nam sau 12 năm kiểm soát được lạm phát (1995-2007),từ tháng 12
năm 2007,lạm phát quay trở lại với chỉ số CPI 2 con số.Giá cả mặt hàng tiêu dùng
thiết yếu tăng vọt các tháng đầu năm 2008,Chính phủ đã thực hiện chiến lược
kiềm chế lạm phát “cả gói” với 8 giải pháp.Nhớ những biện pháp kịp thời và linh
hoạt của Chính phủ,tình hình lạm phát cuối tháng năm 2008 đã được kiềm chế,tuy
vậy giá cả vẫn ở mức cao và vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp.Lạm phát là một
hiện tượng mà cả thế giới đều quan tâm,nghiên cứu về lạm phát để từ đó rút ra
những bài học vế lý lụân và thực tiễn là nhiệm vụ của các học giả,các nhà nghiên
cứu,đặc biệt là các diễn đàn nghiên cứu khoa học của chuyên ngành kinh tế trong
các trường đại học.Đề tài đã hệ thống hoá lý luận cơ bản về lạm phát và phân tích
các diễn biến thực tế của lạm phát ở Việt Nam qua chỉ số CPI và lãi suất ngân
hàng, tỉ giá hối đoái,tốc độ giảm GDP… trong nước,chỉ số giá vàng,USD trên thế
giới… trong giai đoạn tứ tháng 12/2007 đến 11/2008 và dự báo rủi ro,thach thức
đế xuất hệ giải pháp trong thời gian tới với kì vọng tham gia hoạch định chính
sach vĩ mô.bổ sung kiến thức về lý luận và thực tiễn,nâng cao chất lượng giảng
dạy,nghiên cứu học tập cho sinh viên và các bạn đồng nghiệp.
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Không lúc nào như thời gian từ năm 2008 đến nay, vấn đề lạm phát và tăng
trưởng thu hút sự quan tâm của nhiều giới khác nhau:từ người dân thường mỗi
ngày khi ra chợ có cảm nhận như mình bị móc túi; các chủ doanh nghiệp phải vật
lộn với những toan tính từ chi phí vật tư, hàng hoá, dịch vụ, lương công nhân đến
giá thành, giá bán, thị trường cung cấp vật tư, hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm; các
chủ nhà băng tính toán lãi suất huy động và cho vay như thế nào vừa để thu hút
tiền gửi của người gửi tiền và người vay vốn có thể chấp nhận với lãi suất cao

hơn; các nhà lập pháp, hành pháp và hoạch định chính sách đau đầu về những đơn
thuốc chữa trị cho nền kinh tế khi lâm vào bão bệnh “lạm phát cường độ cao”, hậu
quả là tăng trưởng bị suy giảm, đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người có
thu nhập thấp gặp khó khăn; trong dài hạn, Chính phủ lại lo ngại khi tăng trưởng
kinh tế bị suy giảm gây hậu quả giảm phát, làm cho đời sống của các tầng lớp dân
cư càng gặp khó khăn hơn, sức mua giảm dẫn đến kinh tế bị suy thoái, những ảnh
hưởng tiêu cực từ khủng hoảng tài chính từ nước Mỹ và toàn cầu đang tác động
xấu đến nền kinh tế nước ta, thị trường xuất khẩu hàng hoá bị giảm sút, vốn đầu tư
gián tiếp có nguy cơ bị rút khỏi thị trường chứng khoán, vốn đầu tư trực tiếp
không thực hiện được như cam kết. Để kích thích nền kinh tế, trong lúc tích luỹ
của nền kinh tế, dự trữ ngân sách, dự trữ ngoại hối của nước ta còn rất hạn hẹp,
Nhà nước ta không đủ nguồn lực để cung cấp các gói kích thích nền kinh tế như
các nước phát triển hoặc như Trung Quốc, Ấn Độ với hàng trăm tỷ đô la; Nhà
nước chỉ có những khoản kích thích bằng tăng vốn đầu tư trực tiếp cho sản xuất
nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, trợ cấp bằng tăng các khoản cho vay, giảm
thuế, giảm lãi suất cho vay, tăng lương hoặc giảm giờ làm việc, giảm giá hàng
hoá, dịch vụ hoặc tăng trợ cấp cho các đối tượng chính sách.
Để làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng, đã có nhiều công trình
nghiên cứu của các nhà kinh tế trong nước và thế giới, về lý thuyết và thực nghiệm
nhóm chúng tôi có một số ý kiến về tình hình lạm phát hiện nay, nếu có ý nào còn
sai sót mời thầy bổ sung thêm, nhóm em xin chân thành cảm ơn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về lạm phát.
- Phân tích và đánh giá thực trạng tình hình lạm phát trong năm 2008
- Dự báo mức lạm phát trong một vài tháng cuối năm 2008
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng kiềm chế và chống
lạm phát trong năm 2008
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu, chuyên đề đi sâu vào nhận định tình hình biến động
nội tại chuỗi gia tăng lạm phát, nhìn nhận lý do khách quan của sự biến động, từ

đó có cơ sở để đưa ra những kiến nghị và giải pháp trong công tác quản lý và kiềm
chế lạm phát, từ đó có làm tốt lên công tác ổn định kinh tế vĩ mô.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I:NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
I.TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.Nhìn nhận và đánh giá tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm
phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt
Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9%
của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính
phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống
của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.Mặc cho sự tồn tại của
nhiều cách đo lường khác nhau nhưng các định nghĩa về lạm phát cơ bản không phải là
tùy tiện. ở đâu cũng vậy, ý tưởng chính đằng sau khái niệm lạm phát cơ bản là việc loại
trừ những biến động nhất định về giá cả một số hàng hóa, làm méo mó việc đo lường xu
hướng lạm phát của một nước. Đặc biệt đối với một số loại giá được coi là có biến động
lớn, khá ngẫu nhiên, mang tính nhất thời và không theo bất cứ một xu hướng nào. Tất cả
những loại giá đó chỉ gây ra sự thay đổi tạm thời mặt bằng giá nói chung và sẽ lại biến
mất ngay sau đó. Những biến động bất thường này sẽ xảy ra, ví dụ trong trường hợp của
các loại lương thực thực phẩm tươi sống theo thời vụ và chủ yếu phụ thuộc vào sự biến
động của chất lượng mùa màng do tác động của thiên tai hay những sự cố bệnh dịch như
bệnh dịch bò điên hay dịch cúm gà… gây ra.
Sự biến động cho tới những cơn sốc của giá dầu thô trên thị trường thế giới từ trước đến
nay cũng thường xuyên chịu tác động của các nhân tố tạm thời như chiến tranh, bệnh
dịch, thời tiết… Trên thực tế, vấn đề khó khăn trong việc xác định xu hướng giá cả với sự
trợ giúp của phương pháp loại bỏ này là rất khó dự tính được liệu những biến động bất
thường đó về giá cả chỉ là tạm thời trong ngắn hạn hay sẽ còn kéo dài một khoảng thời
gian khá lâu nữa. Chẳng hạn như khi xác định giá cả dầu thô: sự tăng giá của dầu thô một
mặt, phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu trung hạn về dầu thô trên thị trường quốc tế và do
đó, lại phụ thuộc vào các nhân tố tăng trưởng kinh tế; mặt khác, còn phụ thuộc vào sản

lượng khai thác và cung cấp dầu trên thị trường dưới tác động của một loạt các yếu tố
như an ninh, chính trị, quân sự, thời tiết… Theo quan điểm của các nước nhập khẩu dầu,
những thay đổi về các điều kiện thương mại cũng như tỷ giá của đồng bản tệ so với đồng
USD cũng đóng một vai trò quan trọng đối với sự biến động giá dầu nhập khẩu về.
Đối với các loại thực phẩm theo thời vụ lại còn có vấn đề là: trong khi có những biến
động lớn, giá cả các mặt hàng này vẫn biến động theo xu hướng giá cả chung. Do lạm
phát cơ bản được coi là phản ánh xu hướng của lạm phát nên khi tính toán tỷ lệ này phải
chú ý cả những biến động giá cả có liên quan đến xu hướng chung. Điều này đặc biệt
quan trọng trong trường hợp các loại giá cả thực phẩm thời vụ tách khỏi xu hướng chung
và do đó, sẽ làm thay đổi phần nào xu hướng lạm phát. Bởi phải loại bỏ hoàn toàn và
thường xuyên các cấu phần giá cả nhiên liệu và thực phẩm thời vụ nên xu hướng lạm
phát nhìn chung sẽ không bao giờ được phản ánh đầy đủ một cách tuyệt đối cả. Để khắc
phục được một phần nhược điểm này, nhiều NHTW các nước đang tăng cường sử dụng
mô hình hóa lạm phát cơ bản ở nước mình theo hai cách với sự hỗ trợ của các phương
pháp thống kê nhất định. Một là, xác định các thành phần giá cả dễ biến động và quy định
một quyền số thấp trong tính toán giá của rổ hàng hóa; như vậy, những thông tin về các
loại giá cả này sẽ không hoàn toàn bị mất đi. Hai là, chia tách sự biến động chỉ số giá tiêu
dùng, hoặc các bộ phận cấu thành riêng lẻ của nó thành những phần mang tính tạm thời
và phần mang tính thường xuyên và lâu dài; trong đó, phần có tính lâu dài sẽ biểu thị xu
hướng lạm phát và lạm phát khi đó sẽ được xác định tương ứng cho kỳ hạn dài hơn một
năm. Cách xác định lạm phát cơ bản cho thấy vào thời điểm hiện nay những thông tin về
xu hướng giá rất quan trọng vẫn đang còn bị bỏ qua. Do vậy, chỉ số lạm phát cơ bản phải
thường xuyên được xem xét và điều chỉnh lại cách tính toán cho phù hợp tình hình thực
tế ở từng nước, từng khu vực. Trong báo cáo tháng 1/2004, ECB đã rà soát lại tác động
của thuế gián thu và chi phí hành chính lên lạm phát ở khu vực Euro: kết quả phân tích
cho thấy phần chi phí thuốc lá chiếm tỷ trọng 2,3% trong cấu thành chỉ số giá tiêu dùng
đã điều hòa (HICP), nên khi thuế thuốc lá bắt đầu gia tăng đáng kể từ quý IV/2003 ở cả
Pháp và Đức, là 2 nền kinh tế hàng đầu khu vực, khiến cho giá thuốc lá ở Châu Âu dự
tính sẽ gia tăng ít nhất 8% trong năm 2004 so với 2003, dẫn tới chỉ số lạm phát chung của
cả khu vực sẽ gia tăng ít nhất 0,2% trong cùng kỳ. Tương tự như vậy đối với phần chi phí

quản lý hành chính công cộng: cuộc cải cách y tế ở Đức cũng sẽ làm tăng thêm 0,2% lạm
phát của toàn khu vực trong năm 2004. Tổng hợp lại, cả thuế thuốc lá và chi phí hành
chính đang chiếm tỷ trọng khoảng 8% HICP sẽ làm gia tăng lạm phát ở khu vực Euro ít
nhất thêm 0,5% trong năm 2004. Nếu loại bỏ tác động của các yếu tố thuế và chi phí
hành chính nói chung thì lạm phát bình quân khu vực này sẽ chỉ còn ở mức thấp xấp xỉ
1% thay vì 2% trong cả 2 năm 2004 và 2005. Đây là điều cần cân nhắc kỹ trong phân
tích, đánh giá chính sách tiền tệ của ECB để có thể kiềm chế hiệu quả lạm phát ở khu vực
Euro ở mức xấp xỉ dưới 2% như mục tiêu đã đề ra trong trung hạn.
Như vậy, để đánh giá đầy đủ về tình hình lạm phát, các NHTW cần phải có một cách
nhìn nhận sáng suốt về vấn đề này, nhất là ở những nền kinh tế còn yếu kém và bất ổn
định của các nước đang phát triển. Ngay tại cuộc Hội thảo trong tháng 7/2000 về đề tài
“Lạm phát cơ bản và cách dự báo lạm phát” do Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu
của các NHTW Đông Nam á (SEACEN) tổ chức cho các quan chức NHTW tại các nước
Châu á (chủ yếu là các nước đang phát triển như Inđônêxia, Malaixia, Mông Cổ, Nê pan,
Philippin, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam và Xrilanca), các thành viên tham dự Hội
thảo đã nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của chỉ số lạm phát cơ bản, cách
xác định chỉ số này rất có ý nghĩa phục vụ cho các mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ
của các nước trên 3 phương diện: đề ra chính sách, trách nhiệm bảo đảm thực hiện chính
sách đã đề ra và xúc tiến công tác dự báo và ước tính theo mô hình kinh tế lượng. Cơ sở
quan trọng để tính toán lạm phát cơ bản chính là chất lượng chuẩn xác và tính kịp thời
của các số liệu thống kê giá cả và tiền tệ được tập hợp và xử lý trong tính toán. Đây là
vấn đề trọng tâm thu hút sự quan tâm chú ý của hầu hết NHTW các nước, các khu vực có
sử dụng chỉ số lạm phát cơ bản trong điều hành chính sách. Từ tháng 8/2000, ECB cũng
đã kêu gọi các nước thành viên trong khu vực Euro cần có sự cải cách về cách thức thu
thập và tính toán các chỉ số kinh tế trong khu vực vì số liệu mà ECB nhận được từ các
nước thành viên chưa đạt các chuẩn mực cần thiết. Trong đó, ECB nêu rõ số liệu về khu
vực dịch vụ là đặc biệt cần thiết phải quan tâm để có được đầy đủ và chính xác hơn. ECB
còn yêu cầu các thành viên phải cung cấp và công bố số liệu kịp thời hơn vì nếu so sánh
thì các nhà quản lý và hoạch định chính sách của ECB thường có thông tin, số liệu quan
trọng về GDP hay về thị trường lao động… chậm hơn nhiều so với các đồng nghiệp ở

Mỹ.
Lạm phát ở nước ta trong năm 2008 là sự tích hợp của nhiều yếu tố: Lạm phát cầu kéo,
lạm phát chi phí đẩy, lạm phát tiền tệ, lạm phát do yếu tố tâm lý Chúng ta đã bàn nhiều
đến nguyên nhân trong nước và quốc tế nhưng nguyên nhân cơ bản là do đã mở rộng tín
dụng và đầu tư một cách quá mức để hy vọng đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong
ngắn hạn. Chính vì vậy, bây giờ chúng ta phải trả giá bằng mất ổn định kinh tế vĩ mô, ít
nhất là trong trung hạn
Chuyên gia IMF cho rằng, với chính sách hiện nay, Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát
từ bên ngoài. Việt Nam cần có một cách tiếp cận mới, linh hoạt hơn, thích ứng với biến
động thị trường để cuối 2008 lạm phát có thể trở về một con số. Cách đây vài năm, năm
2004, Việt Nam cũng đặt trong chỉ số lạm phát của Việt Nam ở mức 9,4%. Tuy nhiên, so
với thời điểm đó, tình hình lạm phát năm nay có nhiều điểmkhác.
Một là, đồng USD bị mất giá trên toàn cầu, đòi hỏi có những tính toán, cân nhắc về việc
có nên tiếp tục cố định tỷ giá tiền đồng so với tiền USD không.
Mức tăng cung tiền của Việt Nam lớn hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Đối với một nước dân số đông và tăng nhanh như Việt Nam, số người nghèo có thể tăng
lên cùng với lạm phát. Ứng phó trước tình trạng này, chỉ một bộ phận người Việt có thể
đầu tư vào lĩnh vực tài chính, bảo vệ chính mình. Người nghèo không có được công cụ
bảo vệ đó. Họ phụ thuộc vào thu nhập hằng ngày. Họ có thể bị đói trong "cuộc đua" mua
hàng hóa trong cơn lạm phát.
Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát Nhìn ra khu vực, cùng chịu tác động của cú sốc cung,
của tăng giá hàng hóa nhưng tình trạng lạm phát của các nước rất thấp, ngay cả Trung
Quốc có tốc độ phát triển kinh tế nhanh hơn nhiều so với Việt Nam.
Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn
các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu
thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh
cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa
ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm.
Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình
của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ

lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời
điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả
cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
2.Chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam trong xu hướng giá cả trên thế giới gia tăng
Cho đến nay, Việt Nam mới chỉ tính toán và công bố chính thức chỉ số giá tiêu dùng CPI,
chưa tính toán lạm phát cơ bản. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hiện nay của Việt Nam được
tính trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Chỉ số giá của
từng tỉnh, thành phố được tính theo phương pháp bình quân số học gia quyền giữa chỉ số
giá tiêu dùng nhóm cấp III, cấp II rồi cấp I với quyền số cố định tương ứng trên cơ sở cơ
cấu chi tiêu hộ gia đình tổng hợp từ kết quả điều tra do Tổng cục Thống kê tiến hành năm
2000.
Danh mục thu thập giá gồm khoảng 396 mặt hàng, chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I, lại
được phân tiếp thành 34 nhóm cấp II, 86 nhóm cấp III và 75 nhóm cấp IV. Sự phân nhóm
được tiến hành theo hình tháp, càng xuống thấp số lượng nhóm càng lớn (trong mỗi
nhóm đều bao gồm hàng hóa và dịch vụ cho từng loại nhu cầu tiêu dùng). Ví dụ trong
nhóm tiêu dùng cấp I, lương thực – thực phẩm lại được phân tiếp thành 3 nhóm cấp II và
20 nhóm cấp III…
Phương pháp xác định chỉ số CPI của Việt Nam được diễn tả ở trên cho thấy: Nhìn
chung, các mức quyền số cố định có tác động chi phối đáng kể đến xu hướng và mức độ
biến động chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam. Tổng cộng có 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ
của rổ hàng hóa dịch vụ tham gia kết cấu quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng CPI; các mức
quyền số này đã được Tổng cục Thống kê tính toán xác định trên cơ sở cơ cấu chi tiêu
thực tế ở các hộ gia đình đã được điều tra khảo sát theo định kỳ khoảng 5 năm một lần
(gần đây là các năm 1995, 2000 được lấy làm năm gốc điều tra). Trong đó, quyền số cố
định của nhóm hàng cấp I lương thực – thực phẩm vẫn đứng ở vị trí cao nhất với mức
47,9% (đã giảm đáng kể so với mức 60,86% ở năm 1995); còn quyền số cố định của 9
nhóm cấp I còn lại thấp hơn rất nhiều. Như vậy, xu hướng biến động chỉ số giá tiêu dùng
ở Việt Nam từ trước đến nay, nhất là kể từ khi tính toán và công bố chính thức chỉ số
CPI, chủ yếu chịu ảnh hưởng của sự biến động giá lương thực thực phẩm là mức giá hay
thay đổi mạnh do phải chịu nhiều yếu tố tác động khác nhau ở trong và ngoài nước. Điều

này đã được minh chứng qua số liệu thống kê thực tiễn về chỉ số giá tiêu dùng trong một
số thời kỳ phát triển điển hình của nền kinh tế Việt Nam: ví dụ trong năm 1999, là năm
chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam đã liên tục giảm xuống mức âm trong 8 tháng liền với mức
bình quân – 0,55%/tháng chủ yếu là do chỉ số giá lương thực – thực phẩm giảm mạnh lần
lượt ở các mức bình quân – 1,85%/tháng và -0,58%/tháng trong khi chỉ số giá bình quân
của 9 nhóm hàng hóa dịch vụ còn lại trong thời kỳ này hầu như không đổi, thậm chí còn
tăng nhẹ (1 hoặc 2 trường hợp cũng có giảm nhưng chỉ giảm ở mức bình quân trên dưới
-0,1%/tháng). Hay như trường hợp gần đây, nhất là giai đoạn 7 tháng đầu năm 2004: so
với cuối năm năm 2003, chỉ số CPI của cả nước tăng 7,7%, trung bình mỗi tháng tăng
1,1%, chủ yếu do giá lương thực – thực phẩm tăng tới 13,7% (trong đó, giá lương thực
tăng 11,2% và giá thực phẩm tăng 15,4%), trong khi chỉ số giá bình quân của 9 nhóm
hàng tiêu dùng còn lại trong cùng kỳ hầu như chỉ tăng nhẹ ở mức 1 chữ số, không cao
quá mức 5% (riêng giá hàng hóa dịch vụ nhóm dược phẩm y tế tăng 7,7% do phải nhập
khẩu tới 60% nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh; trong khi chỉ số giá nhóm giáo dục
lại giảm nhẹ 2,7%). Nếu so với cùng kỳ năm 2003 thì chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt
Nam trong tháng 7/2004 đã tăng 9,1%/năm – mức tăng cao nhất trong hơn 5 năm qua
(lần cuối gần đây nhất CPI của Việt Nam cũng đã tăng 9,1%/năm là vào tháng 1/1999)
chủ yếu do giá lương thực – thực phẩm tăng mạnh với mức 15,5% trong cùng kỳ. Theo
dự báo của Bộ Tài chính Việt Nam, chỉ số lạm phát chung của Việt Nam trong cả năm
2004 sẽ là 9%. Giá tiêu dùng tăng cao có ảnh hưởng không tốt đến thu nhập và đời sống
của đại bộ phận dân cư. Đó là chưa kể đến giá các loại nguyên vật liệu thiết yếu cho sản
xuất công nghiệp và nông nghiệp ở Việt Nam đều đã tăng rất cao từ đầu năm 2004 đến
nay do phải phụ thuộc nặng nề vào nguồn nhập khẩu như xăng và các sản phẩm dầu phải
nhập khẩu 100%, phân đạm 90%, phôi thép 75% và thép thành phẩm 65%… Hệ quả là
khi giá các mặt hàng nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng cao thì giá nhập
khẩu chúng vào Việt Nam cũng phải tăng theo rất mạnh nếu ngân sách nhà nước không
đủ khả năng bù lỗ. Tính ra trong 6 tháng đầu năm 2004, giá cả của hầu hết nguyên nhiên
liệu thiết yếu cho sản xuất công – nông nghiệp như xăng dầu, sắt thép… đều tăng nhanh
đột biến lần lượt với các mức 23,6% và 48% so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do nhu
cầu tiêu thụ rất mạnh của 2 nền kinh tế khổng lồ trên thế giới là Mỹ và Trung Quốc, còn

giá phân bón thì tăng 5,7% so với cuối năm 2003. Giá cả trên thị trường thế giới tăng cao
đã gây tác động trở lại làm gia tăng đáng kể lạm phát ở ngày càng nhiều nước trên thế
giới từ các nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ (chỉ số giá tiêu dùng đã tăng từ 1,7%/năm
trong tháng 2/2004 lên tới 5,1%/năm trong tháng 5/2004), các nước khu vực Euro (chỉ số
CPI từ tháng 2-5/2004 đã tăng từ 1,6%/năm lên 2,5%/năm – cao vượt mức trần mục tiêu
2%/năm), rồi Nhật Bản (CPI đã tăng 1,1%/năm trong tháng 5/2004 – mức tăng CPI cao
nhất kể từ năm 1997) cho đến các nước đang phát triển như Trung Quốc (trong tháng
6/2004 chỉ số giá sản xuất tăng 6,4%/năm còn CPI đã tăng lên gần 5%/năm – mức tăng
cao nhất trong vòng 7 năm qua; CPI của cả năm 2003 chỉ vào khoảng 1%).
Mức độ tăng giá nguyên vật liệu sản xuất và giá hàng tiêu dùng trong 7 tháng đầu năm
2004 ở Việt Nam như vậy là khá cao và như Bộ Tài chính Việt Nam đã thừa nhận có gây
tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đời sống xã hội: “tác động xấu đến sản xuất kinh
doanh, đến chính sách kinh tế vĩ mô, giá đầu ra, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng
hóa, dịch vụ” (Báo cáo của Bộ Tài chính tại Hội nghị triển khai các giải pháp thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ tài chính – ngân sách 2004 và xây dựng dự toán ngân sách 2005 ngày
23/6/2004 tại Hà Nội). Cũng tại Hội nghị này, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã khẳng định
mặt bằng giá cả ở Việt Nam cũng phải tăng lên theo xu hướng tăng giá trên thị trường thế
giới trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa hiện nay: “Vấn đề giá cả theo tôi là vấn đề
nóng bỏng nhất hiện nay. Trong hoàn cảnh hiện tại, giá cả của nước ta phụ thuộc hầu như
hoàn toàn vào giá thế giới, nhất là một số mặt hàng thiết yếu như sắt thép, dầu xăng, xi
măng… nên theo tôi, không thể điều khiển hoàn toàn được giá cả. Nếu không nhận thức
phù hợp về vấn đề này sẽ không giải quyết được vấn đề giá cả chứ không phải cứ thắt
chặt giá cả là đúng… Chúng ta nên hướng dẫn người dân quen dần với tình hình mới, đó
cũng là đặc điểm của môi trường hội nhập”.
Trong thực tế, chúng ta chưa tính toán lạm phát cơ bản nên chưa thể xác định được rõ
ràng và đầy đủ xu hướng lạm phát ở Việt Nam. Hơn thế nữa, chỉ số giá tiêu dùng CPI
hiện nay đang được tính trên cơ sở rổ hàng hóa dịch vụ cùng với các quyền số tương ứng
cơ cấu chi tiêu tiêu dùng của các hộ gia đình Việt Nam đã được Tổng cục Thống kê khảo
sát điều tra từ trước năm 2000. Đã hơn 3 năm trôi qua, đời sống vật chất tinh thần của
nhân dân ta đã có nhiều đổi thay đáng kể và một điều tương đối chắc chắn là các mức

quyền số đó sẽ không thể còn duy trì được mãi ở mức đã cố định từ năm gốc 2000. Nếu
theo đúng định kỳ 5 năm thì rổ hàng hóa dịch vụ cùng các mức quyền số kết cấu nên chỉ
số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam sẽ phải được xác định lại trong năm 2005. Đồng thời,
trong xu hướng hội nhập vào thị trường tài chính – tiền tệ khu vực và quốc tế, cùng với
Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ sớm xác định, tính toán lạm phát
cơ bản bên cạnh lạm phát thông thường để đưa vào áp dụng trong công tác dự báo xu
hướng lạm phát và điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá cả và tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam. Phương pháp xác định lạm phát cơ bản ban đầu có thể dựa vào nguyên lý
tính xác suất thống kê theo mô hình kinh tế lượng trên cơ sở các dãy số lịch sử vì các
nguyên nhân sau:
- Cũng giống như nhiều nước đang phát triển, Việt Nam chỉ có thể dùng một số lượng
hạn chế các nguồn lực con người và vật chất vào việc điều tra, khảo sát để tạo dựng các
chỉ số giá cả chính thức, cho nên các quyền số và các mức giá cả đã được tính toán, xác
định kém chính xác hơn nhiều so với hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến.
- Cùng với tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, các mô hình chi tiêu tiêu dùng
cũng sẽ nhanh chóng thay đổi theo nhu cầu vật chất tinh thần của người dân cho nên các
quyền số dù có được xác định lại khá chính xác thì rồi cũng sẽ rất nhanh chóng bị lỗi thời
theo thời gian.
- Cũng như phần lớn các nước đang phát triển khác, chỉ số CPI của Việt Nam từ trước
đến nay chủ yếu phải chịu sự chi phối của mức giá lương thực – thực phẩm là mức giá
hay biến đổi mạnh đột biến, mang tính nhất thời trong ngắn hạn. Khi tính toán lạm phát
cơ bản ta có thể dùng phương pháp loại trừ có chọn lọc chỉ số một số loại giá lương thực
thực phẩm nhất định ở các nhóm cấp thấp (nhóm cấp II hoặc / và cấp III) để không gây
ảnh hưởng đáng kể tốc độ xác thực trong dự báo xu hướng lạm phát chung của nền kinh
tế.
- Cùng với sự gia tăng phí điều tiết giá cả cũng như tăng cường cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế tư nhân thì cả mặt bằng giá lẫn các hoạt động sản
xuất kinh doanh ở khu vực tư nhân và trong cả nền kinh tế sẽ nhanh chóng thay đổi trong
điều kiện cạnh tranh ngày càng bình đẳng và lành mạnh hơn.
III.LẠM PHÁT NĂM 2008 SẼ LÊN TỚI 22,3

. (Dân trí) - Theo dự báo của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TƯ, lạm phát năm nay, xét
đến kịch bản xấu nhất có thể lên tới 22,3%, trong khi kinh tế Việt Nam khó tiếp tục tăng
trưởng với tốc độ cao như năm 2007.Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2007 đạt
8,5%, theo đánh giá của bản báo cáo, “cũng khó có thể nói đó là một con số thật ấn
tượng”, dù đây là tốc độ tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1997.Bởi con số này không ghi
nhận sự đột phá so với các năm liền kề 2005 - 2006 và tỷ lệ đầu tư so với GPD năm 2007
quá cao, chiếm tới 44%.
Cuối năm 2007, thời điểm đánh dấu tròn một năm Việt Nam trở thành thành viên WTO.
Thời gian một năm là quá ngắn để có thể đánh giá và nhìn nhận đầy đủ tác động của việc
gia nhập WTO đối với tiến trình cải cách bên trong và nền kinh tế Việt Nam. Nhưng việc
gia nhập WTO đã phần nào làm “lộ rõ những yếu kém, bất cấp cố hữu của nền kinh tế
Việt Nam, nhất là đối với việc đảm bảo sự phát triển nhanh, vững bền” - báo cáo nhấn
mạnh.Theo TS.Võ Trí Thành, sự sôi động của thị trường tài chính, hoạt động ngân hàng
và thị trường bất động sản năm qua ít chuyển hóa sang nền kinh tế thực; khu vực tài
chính, ngân hàng và bảo hiểm vẫn chiếm chưa tới 2% GDP.
Điều này đang là lời cảnh báo về chất lượng tăng trưởng, chất lượng đầu vào của nền
kinh tế. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp lớn tăng 5,7% cũng là dấu hiệu bất thường, bởi
một phần vốn rất lớn của các doanh nghiệp này đã không dẫn vào các kênh sản xuất kinh
doanh tạo sản phẩm thật mà chủ yếu đổ vào các kênh đầu tư ảo: chứng khoán, bất động
sản… Ngược lại, tốc độ tăng tiêu dùng của người dân Việt Nam đang cao hơn rất nhiều
so với tốc độ tăng GDP. “Bình quân đầu người năm qua đạt khoảng 841 USD/người/năm,
trong khi tốc độ tiêu dùng của người dân lại đang cao hơn rất nhiều. Điều này dẫn tới tiết
kiệm nội địa năm 2007 bị chững lại.
CHƯƠNG II.MỐI LO NGẠI ĐẾN NẾN KINH TẾ HIỆN NAY
I.LẠM PHÁT – MỐI QUAN NGẠI CHỦ YẾU CỦAVIỆT NAM NĂM 2008
“Sức ép lạm phát sẽ là mối quan ngại chủ yếu của Việt Nam năm 2008”. Đây là thông
điệp được đưa ra trong báo cáo khảo sát kinh tế xã hội năm 2008 do UB Kinh tế xã hội
châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) của Liên Hợp Quốc công bố. Trong phần khảo sát
về Việt Nam, báo cáo của ESCAP bày tỏ tin tưởng Việt Nam sẽ tiếp tục dẫn đầu về tăng
trưởng kinh tế ở khu vực Đông Nam Á.

Tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức cao, tỷ lệ đầu tư lớn, tỷ giá ổn định giữa tình hình chung
bất ổn và dự trữ ngoại tệ ở mức cao là những tín hiệu phát triển tích cực chủ yếu của Việt
Nam.
Tuy nhiên, ESCAP bày tỏ mối quan ngại khi tỷ lệ lạm phát ở mức cao, thâm hụt cán cân
thương mại lớn. Theo báo cáo, Việt Nam nằm trong số các nước châu Á – TBD đang
phát triển chịu ảnh hưởng từ sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ cũng như các khu vực phát
triển khác và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế được dự báo có thể sẽ giảm tốc xuống dưới 8%
năm 2008.
Cơ quan của LHQ cho rằng, Đông Nam Á vẫn phụ thuộc xuất khẩu vào Mỹ nên tỷ lệ
tăng trưởng trung bình của khu vực sẽ giảm xuống 5,8% so với 6,2% của năm 2007.
ESCAP khuyên các chính phủ châu Á, trong đó có Việt Nam, nên giữ sự ổn định và đầu
tư vào nông nghiệp để vượt qua “cú sốc kinh tế” có nguồn gốc từ sự suy thoái của kinh tế
Mỹ. Shigeru Mochida, Phó Tổng thư ký ESCAP, cho rằng việc gia tăng sản xuất nông
nghiệp sẽ giúp đưa 280 triệu người thoát khỏi đói nghèo khi giá cả lương thực đang tăng
chóng mặt.
Cuộc khảo sát năm nay của ESCAP tập trung vào thất bại của các nước trong cuộc chiến
chống đói nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và cho rằng nguyên nhân chính là do
sự “thờ ơ” của các chính phủ đối với nông nghiệp trong hai thập kỷ qua.
Báo cáo cho biết, dù kinh tế tăng trưởng cao, nhưng tại khu vực châu Á – TBD vẫn còn
641 triệu người sống ở mức ít hơn 1 USD/ngày, chiếm 2/3 số người nghèo trên toàn thế
giới.
Tuy nhiên, theo ESCAP, Thái Lan và Việt Nam là những điểm sáng trong khu vực.
Thái Lan thực hiện chính sách tăng cường đầu tư sản xuất nông nghiệp, nên sẽ là một
trong số ít nền kinh tế có mức tăng trưởng kinh tế năm 2008 cao hơn năm 2007. Trong
khi đó, ESCAP đánh giá Việt Nam có tiềm năng lớn để tăng tốc phát triển trong lĩnh vực
nông nghiệp.
Theo báo cáo, nông nghiệp trở thành yếu tố quan trọng giúp giảm đói nghèo ở Việt Nam,
đặc biệt ở khu vực nông thôn. Cơ quan của LHQ dự báo việc gia tăng năng suất trong
lĩnh vực nông nghiệp sẽ giúp Việt Nam giảm nhanh hơn nữa tỷ lệ đói nghèo.
Tuy nhiên, ESCAP cũng bày tỏ lo ngại rằng việc áp dụng công nghệ chậm, ngành công

nghiệp chế biển sản phẩm nông nghiệp có ít tiến bộ, cùng với thiên tai dịch bệnh và
những tác động không mong muốn từ giá cả toàn cầu sẽ là những thách thức lớn của Việt
Nam trong năm 2008.
II.VAI TRÒ TRONG KINH TẾ
1.Các hiệu ứng tích cực
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang
giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả
tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà
sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất
đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
2.Các hiệu ứng tiêu cực
Đối với lạm phát dự kiến được
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền
kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:
Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất
danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta
giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để
rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất
phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn
so với không có lạm phát.
* Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ
mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
* Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát
doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp
khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh
nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh
tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng
kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
* Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của
người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong

trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng
do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập
danh nghĩa và thu nhập thực tế.
* Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong
tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá
nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát không dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá
nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất
danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay
bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay
chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác
động của nó rất lớn.
CHƯƠNG III:MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC QUẢN
LÝ,KIỂM SOÁT.KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
I NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG LẠM PHÁT
Tình hình giá cả và lạm phát ở Việt Nam thời gian qua, đặc biệt là những biến động bất
thường trong năm 2004 đẩy chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) lên 9,5% (trong khi chỉ số
này của năm 2003 là 3%), vượt xa con số 5% theo kế hoạch đề ra, đã buộc công luận phải
lên tiếng. Để giải tỏa những bức xúc của dân chúng và các nhà sản xuất kinh doanh, đã có
nhiều buổi tọa đàm, cuộc hội thảo được tổ chức và được các phương tiện thông tin đại
chúng loan tải. Qua đó đã toát ra nhiều vấn đề còn tranh cãi về quan điểm về lạm phát,
nguyên nhân của lạm phát, cách tính chỉ số lạm phát, các giải pháp nhằm khắc phục lạm
phát. Bài viết này đề cập về các nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam hiện nay và đề xuất
một số giải pháp cơ bản khắc phục.
Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có vị trí quan trọng hàng đầu trong điều hành
chính sách của mỗi một quốc gia. Đây cũng là một ttrong hai mục tiêu mà Ngân hàng
Trung ương các nước đều hướng tới. Khái niệm chung về lạm phát được khoa học kinh tế
đưa ra là sự tăng giá chung theo thời gian, khi đó mặt bằng chung về giá cả hàng tiêu
dùng trên thị trường tăng lên. Còn lạm phát tiền tệ hoặc lạm phát giá cả được gọi theo

cách nhìn nhận ở góc độ nguyên nhân của lạm phát. Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại,
lạm phát do ba nguyên nhân: cầu kéo, chi phí đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong
lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế, lạm phát gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí
dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư
Lạm phát tiền tệ được hiểu là mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá mức cần thiết,
biểu hiện là sự mất giá của đồng bản tệ.
Lạm phát giá cả được hiểu là giá cả hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng lên do cầu lớn
hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên (chi phí đẩy).
Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà thường hoặc là lạm
phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền tệ.
A.Chống lạm phát ở Việt Nam: Tìm đúng nguyên nhân mới có giải pháp tích cực
Kiềm chế lạm phát để ổn định kinh tế ở nước ta đang là vấn đề bức xúc. Lạm phát đang
diễn ra do nhiều nguyên nhân, trong đó, đặc biệt quan trọng là nguyên nhân tỷ giá, là yếu
tố phản ánh biến động kinh tế cả trong nước và quốc tế. Trên cơ sở nhấn mạnh định
lượng về lạm phát, tác giả đã kiến nghị một số giải pháp để góp phần kiềm chế lạm phát
ở nước ta.
1 - Chế độ tỷ giá hiện hành là nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam
Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng ấn tượng đạt 8,48%, cao hơn
mức trung bình 5 năm giai đoạn 2003 - 2007 (8%/năm), là một trong những nền kinh tế
có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Tuy nhiên, vào những tháng cuối năm
2007 và đầu năm 2008, cùng với đà suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD mất giá, giá dầu
thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu tăng đột biến cộng với tác động
của thiên tai, dịch bệnh đã làm cho nền kinh tế Việt Nam bộc lộ những nhược điểm cố
hữu của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.
Trong các báo cáo gần đây, Chính phủ đã chỉ ra được hầu hết những nguyên nhân gây ra
những yếu kém kinh tế trong thời kỳ này. Cụ thể là, "cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công
nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ
chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá
trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà
nước vẫn còn dàn trải, không bảo đảm tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả thấp kéo

dài, chậm được khắc phục. Quản lý tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu
chưa chặt chẽ. Công tác dự báo và dự kiến các biện pháp, kế hoạch ứng phó với những
tác động tiêu cực của kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập chưa được quan tâm đúng
mức; các cơ quan nghiên cứu, tham mưu của Đảng và Nhà nước phát hiện tình hình còn
chậm; khi tình huống xảy ra, do chưa có kinh nghiệm và chủ động trong việc ứng phó
nên chỉ đạo, xử lý của một số ngành chức năng có lúc còn lúng túng, chưa kịp thời, thiếu
phối hợp đồng bộ, thiếu linh hoạt. Có chính sách, giải pháp chưa tạo được sự đồng thuận
cao trong xã hội."
(1)
Chỉ ra được nguyên nhân, nhưng chúng ta vẫn lúng túng trong điều hành ổn định kinh tế
vĩ mô là do chưa có một đánh giá định lượng cụ thể để lượng hóa tác động của các nhân
tố ảnh hưởng tới các biến số kinh tế vĩ mô, từ đó sử dụng các công cụ chính sách phù hợp
để điều hành nền kinh tế.
Vậy vấn đề là lượng hóa các nhân tố cơ bản nhất ảnh hưởng tới tình hình lạm phát ở Việt
Nam hiện nay và đề xuất công cụ phù hợp để đối phó với lạm phát trong hoàn cảnh hiện
tại. Các phân tích dưới đây sẽ chỉ ra rằng những nhược điểm của một chế độ tỷ giá neo
với đồng USD và mất cân đối cơ cấu kinh tế gây ra tình trạng "thắt cổ chai" là nguyên
nhân cơ bản của lạm phát.
Lạm phát trong kinh tế học được hiểu là sự tăng giá chung. Lạm phát thường có nguyên
nhân từ tiền tệ do ngân hàng nhà nước cung ứng quá nhiều tiền trong lưu thông. Lạm phát
cũng có thể có nguyên nhân từ việc tăng giá do cầu tăng mạnh đột biến lớn hơn khả năng
sản xuất của nền kinh tế tạo ra lạm phát do cầu kéo. Chi phí sản xuất gia tăng cũng đẩy
giá hàng hóa lên cao tạo ra lạm phát do chi phí đẩy. Có thể nói lạm phát ở Việt Nam hiện
nay hội tụ đủ các nguyên nhân do cả cầu kéo lẫn chi phí đẩy và tiền tệ.
Nhóm nguyên nhân thứ nhất có nguồn gốc từ các yếu tố bên trong của nền kinh tế. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm qua và việc Việt Nam gia nhập WTO đầu
năm 2007 đã tạo thêm động lực phát triển cho nền kinh tế. Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu
cầu chi tiêu, đầu tư tư nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng
đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4

tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ
đồng, vượt khoảng 11,7% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ
đồng, bằng 4,95% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng
kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006
(2)
. Tổng cầu tăng nóng vượt
quá khả năng của một nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề "thắt cổ chai" liên quan tới hạ
tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát. Tuy nhiên, cần phải
nhìn nhận việc gia tăng đầu tư nước ngoài và đầu tư công vào kết cấu hạ tầng tạo cơ hội
nhiều hơn thách thức, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và giải quyết các vấn đề "thắt
cổ chai", tạo đà phát triển bền vững trong dài hạn.
Nhóm nguyên nhân thứ hai có nguồn gốc từ các yếu tố bên ngoài
Tác động của lạm phát do chi phí đẩy ở Việt Nam thường cao hơn gấp đôi các nước khác
trong khu vực là do Việt Nam thực thi chính sách neo giá đồng nội tệ với USD
(3)
. Các
nước trong khu vực như Ma-lai-xi-a và Thái Lan theo đuổi chính sách thả nổi có điều tiết
đồng nội tệ và đã điều chỉnh lên giá nội tệ theo giá trị danh nghĩa của đồng USD trong
thời gian qua. Kể cả Trung Quốc là nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam trong
việc thực thi chính sách tỷ giá cũng đã điều chỉnh lên giá danh nghĩa nội tệ trong thời
gian qua. Kết quả là, trong khoảng thời gian từ tháng 1-2004 đến nay, đồng Việt Nam có
xu hướng mất giá danh nghĩa, trong khi đồng tiền của các nước khác trong khu vực có xu
hướng lên giá danh nghĩa so với đồng USD.
Giá hàng hóa, nguyên liệu trên thế giới tăng mạnh trong thời gian gần đây là do tăng
trưởng cầu thế giới tăng nhanh hơn tốc độ tăng cung với bằng chứng là lượng hàng tồn
kho hàng hóa nguyên liệu giảm mạnh. Đồng USD mất giá danh nghĩa làm cho giá hàng
hóa tính theo đồng tiền khác như EUR, GBP giảm tương đối và càng khuyến khích cầu.
Bên cạnh đó, các quỹ đầu tư trên thế giới gia tăng mua hàng hóa đề phòng vệ rủi ro mất
giá USD. Kết quả là giá hàng hóa nguyên liệu tăng lên cao hơn mức bình thường, tăng do
tăng cầu và tăng do USD mất giá.

Các nước trong khu vực có điều chỉnh nâng giá nội tệ tương ứng với mức mất giá danh
nghĩa của Mỹ (đo bằng chỉ số tỷ giá hiệu lực danh nghĩa NEER) sẽ điều chỉnh giảm được
tác động tăng giá do mất giá đồng USD. Hình 3 minh họa mức biến động giá lương thực
theo nội tệ của các nước so với giá danh nghĩa của đồng USD và tỷ giá hiệu lực danh
nghĩa (NEER). Có thể nhận thấy, giá lương thực thế giới tính theo VNĐ cao hơn mức giá
tính theo USD do đồng Việt Nam mất giá so với USD. Giá lương thực theo bạt (Thái
Lan) và nhân dân tệ (Trung Quốc) còn có phần rẻ hơn mức tỷ giá hiệu lực danh nghĩa
(NEER) của Mỹ. Chính nhờ chính sách tỷ giá linh hoạt, Thái Lan và Trung Quốc giảm
được tác động sốc giá lương thực từ nước ngoài. Việt Nam thi hành chính sách neo tỷ giá
và vì vậy đã nhập khẩu lạm phát giá lương thực theo USD. Đây có thể là nguyên nhân
chính làm cho lạm phát ở Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực.
Nhóm nguyên nhân tiếp theo gây ra lạm phát ở Việt Nam là yếu tố tiền tệ với tốc độ tăng
trưởng tín dụng của Việt Nam tăng quá nhanh trong những năm vừa qua. Trong ba năm
từ 2005 đến 2007, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%. Tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của
năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31-12-
2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với năm 2006
(4)
.
Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là do tổng lượng ngoại tệ ròng
chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30%
GDP. Để duy trì tỷ giá USD, Ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỉ
USD (năm 2006) lên 21,6 tỉ USD (năm 2007) và đẩy một lượng lớn nội tệ ra thị trường
(5)
.
Mặc dù không thể phủ nhận yếu tố tiền tệ là một trong những nguyên nhân gây ra tình
trạng lạm phát hiện tại, nhưng cũng cần khẳng định rằng, nguyên nhân chủ yếu là do
thiên tai, dịch bệnh lây lan và giá nguyên liệu đầu vào tăng đột biến dẫn đến giá lương
thực tăng cao. Trong những năm 1999, 2000, mức cung ứng tiền tệ M2 đã có lúc lên tới
56,2% nhưng Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thiểu phát. Hơn nữa, độ trễ của chính

sách tiền tệ là từ 6-36 tháng, nên không phải cung tiền tăng lập tức dẫn tới lạm phát.
Trong tình hình hiện nay, tốc độ tăng trưởng cung ứng tiền tệ M2 chỉ đóng vai trò xúc tác
cho quá trình nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài. Trên thực tế, ở bảng 1 chúng ta có thể
thấy do lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng tới 42,7% trong chỉ số CPI, nên phần đóng
góp của giá lương thực thường chiếm tới 70% động thái của chỉ số giá tiêu dùng CPI
(được coi là tỷ lệ lạm phát). Trong quý III năm 2007, phần đóng góp của các yếu tố phi
lương thực vào lạm phát chỉ là 3,5%. Con số này là 4% cho quí IV năm 2007, và ngay cả
khi lạm phát lên tới 15,7% vào tháng 2-2008, thì lương thực thực phẩm góp tới 10,8%.
Tháng 3 và tháng 4, tỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ năm trước là 19,4% và 21,4%, phần
đóng góp của lạm phát giá lương thực, thực phẩm là 13,1% và 14,6%.
2 - Thử bàn thêm về giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
Theo thông tin từ Hiệp hội Thủy sản các tỉnh phía Nam, việc không vay được vốn đã bắt đầu
gây ra nhiều hậu quả mà cả doanh nghiệp và nông dân phải gánh chịu. Điều này khiến việc
mua cá nguyên liệu của người dân chậm lại, nông dân đang bị thiệt hại rất lớn. Chỉ tính riêng
từ tháng 3-2008 đến nay, người nuôi cá đã mất khoảng 300 tỉ đồng do việc không bán được
cá và giá cá xuống thấp. Nông dân không còn mặn mà nuôi cá, nguồn cá nguyên liệu sụt
giảm, công nghiệp chế biến lại gặp khó khăn. Vòng tròn luẩn quẩn là khi có thị trường thì
không có cá để xuất khẩu và ngược lại, khi có cá thì không có thị trường.
Lãnh đạo Tập đoàn dệt may Việt Nam cũng cho rằng, khi doanh nghiệp đang căng sức để
cạnh tranh và giữ lấy thị trường nước ngoài nhiều biến động thì câu chuyện vốn vay, lãi suất
và giá cả trong nước gần như đi ngược lại tất cả
(6)
.
Lạm phát tiền tệ có thể được giải quyết thông qua thắt chặt tín dụng, nhưng lạm phát do
cầu kéo hoặc chi phí đẩy chỉ có thể được giải quyết thông qua điều chỉnh cơ cấu và ổn
định hóa. Việc thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ trong những tháng đầu năm 2008
thông qua điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết
khấu và phát hành tín phiếu bắt buộc nhằm thu hút bớt tiền từ lưu thông về, giảm áp lực
đối với lạm phát, kiểm soát quy mô tăng trưởng tín dụng bộc lộ nhiều vấn đề có tính hệ
thống, cơ cấu, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính.


2006

2007

2007
(Quý III)

2007
(Quý IV)

02-2008
Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng (headline inflation)
Việt Nam
7,4 8,3 8,6 10,7 15,7
Đóng góp của tăng giá lương thực vào CPI
3,7 4,8 5,1 6,7 10,8
Trung Quốc 1,5 4,8 6,2 6,7 8,7
Thái Lan 4,6 2,2 1,6 2,9 5,4
Phi-lip-pin 6,2 2,8 2,5 3,3 5,4
Chỉ số lạm phát “cơ bản” (“core” inflation)
Trung Quốc 0,8 0,9 0,8 1 1,1
Thái Lan 2,3 1 0,7 1,1 1,5
Phi-lip-pin 5,6 0 2,8 2,4 4
Cần phải xác định xem lạm phát có nguyên nhân từ vấn đề tiền tệ hay không, nếu có thì ở
mức độ như thế nào, và quá trình can thiệp của Chính phủ phải diễn ra bao lâu. Việc thắt
chặt tín dụng đột ngột trong những tháng đầu năm đã gây sốc cho hệ thống tài chính, đặt
hệ thống tài chính trước nguy cơ khủng hoảng, và nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng
đình trệ, suy thoái. Nghiên cứu lạm phát ở Việt Nam cần chỉ ra khi nào có thể sử dụng
công cụ tiền tệ, khi nào cần phải giải quyết vấn đề cơ cấu.

`Bảng 1. Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng và chỉ số lạm phát "cơ bản"
Nguồn: East Asia & Pacific Update (4-2008)
Bảng 1 chỉ ra rằng, gia tăng lạm phát trong thời gian gần đây chủ yếu là do tăng giá
lương thực theo diễn biến chung trên thế giới. Nguyên nhân làm cho lạm phát ở Việt
Nam cao hơn nước ngoài là do chế độ tỷ giá bất lợi làm cho Việt Nam phải “nhập khẩu
lạm phát” giá lương thực tính theo USD, và làm khuếch đại mức tăng giá cả lương thực
tương đối so với các nước khác.
Trừng phạt hệ thống tài chính, ngân hàng bằng các công cụ hành chính sẽ không giải
quyết được vấn đề lạm phát phi tiền tệ. Hiện nay, các nước trên thế giới thường sử dụng
thêm chỉ số lạm phát cơ bản (core inflation), là chỉ số lạm phát loại bỏ các nhân tố biến
động lớn như giá lương thực và năng lượng, để giám sát các nhân tố lạm phát có nguồn
gốc tiền tệ. Khi chỉ số lạm phát cơ bản nằm trong giới hạn kỳ vọng, mà chỉ số giá tiêu
dùng vẫn tăng cao do các nhân tố phi tiền tệ thì cần phải có biện pháp điều chỉnh cơ cấu.
Việc chuyển dần từ điều hành chính sách tiền tệ theo lượng cung ứng tiền tệ sang khuôn
khổ chính sách tiền tệ đạt mục tiêu lạm phát sẽ giúp minh bạch hóa chính sách tiền tệ.
Chính sách tỷ giá cần phải linh hoạt có quản lý dựa trên một giỏ tiền tệ chứ không chỉ
gắn với duy nhất USD, đồng thời đa dạng hóa dự trữ ngoại hối để tránh rủi ro mất giá
đồng USD. Chính phủ cần nhanh chóng cải thiện hệ thống thông tin dự báo kinh tế vĩ mô
và công bố công khai, minh bạch. Cần có sự phối hợp nghiên cứu với các nhà khoa học
để tìm giải pháp và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong điều hành chính sách.
Xác định mục tiêu cụ thể có thứ tự ưu tiên, tránh tham vọng đạt được tất cả các mục tiêu
rồi cuối cùng không hoàn thành mục tiêu nào. Xây dựng cơ chế giám sát, điều hành chính
sách tiền tệ và thị trường tài chính.
Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô phải được xác định là mục tiêu ưu tiên hàng
đầu trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc kềm chế lạm phát cần được thực hiện có lộ
trình, minh bạch, để ngân hàng và các tổ chức tín dụng có cơ hội chuẩn bị, tránh gây sốc
cho hệ thống tài chính ngân hàng như trong thời gian vừa qua có thể đẩy nguy cơ khủng
hoảng toàn hệ thống lên cao./.
II. GIẢI PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT CỦA CHÍNH PHỦ
Đất nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008

trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp và rất khó lường.
Kinh tế Mỹ suy giảm nghiêm trọng: GDP quý 4 năm 2007 chỉ tăng 0,6%,
thấp hơn rất nhiều so với các quý trước đó. Theo nhiều dự báo, kinh tế Mỹ cả
năm 2008 chỉ tăng 1,5%. Thậm chí, có những nhận định cho rằng, kinh tế Mỹ
đã bước vào giai đoạn suy thoái.
Đồng Đô la Mỹ (USD) giảm giá so với nhiều đồng tiền khác, giá cả của hầu hết các mặt
hàng trên thị trường thế giới tăng cao (1), sự suy giảm của kinh tế Mỹ, nền kinh tế chiếm
khoảng 25% tổng GDP toàn cầu và trên 15% tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá thế giới, đã
tác động mạnh và kéo theo sự suy giảm của nhiều nền kinh tế. Giá tăng cao ở hầu hết các
nước, kể cả ở các nước có nền kinh tế mạnh và đã duy trì được mức giá thấp trong nhiều
năm (2). Nhiều quốc gia đã phải điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng từ 1 đến 2% (3).
Nếu kinh tế Mỹ rơi vào chu kỳ suy thoái, tình hình có thể còn phức tạp hơn.
Ưu tiên kiềm chế lạm phát
Đến nay, kinh tế nước ta đã hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, độ mở của nền
kinh tế là rất lớn với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu tương đương khoảng 160% GDP,
trong đó, nhập khẩu gần 90% GDP, thì những biến động bất lợi ngoài tầm dự đoán như
vừa qua của kinh tế toàn cầu và giá cả thị trường thế giới đã tác động tiêu cực đến tăng
trưởng và đến mặt bằng giá trong nước với mức độ mạnh hơn nhiều so với trước đây và
so với nhiều nước khác.
Trong nước, hai năm 2006 - 2007, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại rất nặng nề (thiệt hại
kinh tế khoảng 33.600 tỷ đồng) chưa được khắc phục thì đầu năm nay, đợt rét đậm, rét
hại lịch sử kéo dài ở miền Bắc và Bắc Trung bộ đã gây tổn thất lớn về vật chất cho nhân
dân và tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp (4).
Bối cảnh quốc tế, trong nước nêu trên đã làm cho những yếu kém của nền kinh tế và
trong cơ cấu kinh tế của nước ta bộc lộ sâu sắc hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế, tạo ra những thách thức gay gắt cho việc quản lý và điều hành phát triển kinh tế.
Trước tình hình này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp nước ta
đã nỗ lực phấn đấu, phát huy mọi tiềm năng lợi thế, đối phó và vượt qua những khó khăn
thách thức, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh,
tạo ra những cơ sở để tăng trưởng cao trong trung và dài hạn, đã duy trì được tốc độ tăng

trưởng GDP trong quý I đạt 7,4%. Đây là những cố gắng lớn của cả nước.
Tuy nhiên, do những tác động của kinh tế thế giới và những bất cập, yếu kém trong quản
lý, điều hành kết hợp với các nguyên nhân nội sinh từ nền kinh tế đã làm cho tình hình
kinh tế quý I năm 2008 có những diễn biến bất lợi như: Lạm phát cao, giá tiêu dùng tháng
3 đã tăng 9,19% so với tháng 12 năm 2007; nhập khẩu tăng mạnh, chênh lệch xuất - nhập
khẩu lên tới hơn 7 tỷ USD và bằng 56,5% kim ngạch xuất khẩu.
Tình hình đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển sản xuất và đời sống của các tầng lớp
nhân dân, nhất là những người làm công ăn lương và người nghèo, đe doạ đến ổn định vĩ
mô, tác động không thuận đến môi trường đầu tư, kinh doanh.
Trong phiên họp thường kỳ cuối tháng 3 năm 2008, qua thảo luận nghiêm túc và cân
nhắc thận trọng trên các mặt, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm trong
tình hình hiện nay là: phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên
hàng đầu. Bởi lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng đến
phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi
trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn.
Nói kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, có nghĩa là không chạy theo chỉ tiêu
tăng trưởng đã đặt ra từ cuối năm 2007 mà phải tập trung sức để kiềm chế bằng được lạm
phát, phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần. Theo tinh thần đó, Chính phủ dự kiến
sẽ trình Quốc hội xem xét giảm chỉ tiêu tăng trưởng và điều chỉnh lại chỉ tiêu lạm phát
cho phù họp với tình hình thực tế. Sự điều chỉnh này là cần thiết nhằm hướng các giải
pháp vào mục tiêu ưu tiên hàng đầu, bảo đảm tiền đề cho tăng trưởng cao và bền vững
những năm tiếp theo. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành để thực hiện các
nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu ưu tiên hàng đầu này.
Bảy giải pháp chủ yếu
Trước tình hình này, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của
đất nước ta là: kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu.
Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, một mặt phải tiếp tục đẩy mạnh thực

hiện Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ về điều
hành kinh tế - xã hội năm 2008, mặt khác cần tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt và
đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
1. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CHẶT CHẼ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính
sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và
tổng dư nợ tín dụng nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động
của các ngân hàng, tổ chức tín dụng.
Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo
hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt
chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định
về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm theo
đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia sớm ổn định tổ chức, kịp thời phối hợp với Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan tăng cường các công cụ
giám sát theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn
những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ.
2 KIỂM SOÁT CHẶT CHẼ, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHI TIÊU CÔNG
Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu
quả vốn đầu tư từ ngân sách; kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước,
nhất là đầu tư vào các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính của doanh
nghiệp; phấn đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
Thực hiện việc cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong kế hoạch năm
2008 từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng đầu tư nhà nước và
đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các công trình đầu tư kém hiệu quả,
các công trình chưa thực sự cần thiết. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng Bộ Tài chính
triển khai nội dung này ngay trong việc rà soát lại và cân đối nguồn vốn thuộc ngân sách
nhà nước. Các Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Chủ tịch Hội
đồng quản trị, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, theo chức
năng, nhiệm vụ được giao thực hiện việc rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư để cắt bỏ

các công trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành,
những công trình đầu tư cho sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế để đẩy
nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
Các Bộ liên quan, nhất là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính khẩn
trương hoàn chỉnh các văn bản về đầu tư xây dựng, kịp thời ban hành hướng dẫn xử lý
các vướng mắc phát sinh để đẩy nhanh tiến độ giải ngân các công trình sớm đưa vào khai
thác phát huy hiệu quả.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc nghiên cứu để chuyển một số công trình đầu tư từ
nguồn vốn ngân sách sang hình thức đầu tư BOT từ nguồn vốn trong và ngoài nước hoặc
bán, chuyển nhượng công trình có khả năng thu hồi vốn cho doanh nghiệp, tư nhân khai
thác hoặc đầu tư tiếp để nâng cao hiệu quả đầu tư.
Bộ Tài chính chủ trì rà soát, đề xuất các biện pháp chấn chỉnh hoạt động đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn. Sơ kết mô hình tập
đoàn kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
phối hợp với Bộ Tài chính chuẩn bị để thực hiện trong quý IV năm 2008.
Thực hiện chính sách tiết kiệm đồng bộ, chặt chẽ, nghiêm ngặt trong tất cả các cấp, các
ngành, trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đưa nội dung thực hành tiết kiệm trong chi tiêu
ngân sách, trong sản xuất và đời sống vào chương trình cuộc vận động: "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong năm 2008 và những năm tiếp theo. Năm
2008, ngoài việc tiết kiệm bình quân 10% chi phí hành chính (trừ tiền lương, phụ cấp
lương, các khoản chi cho con người theo chế độ quy định) của các cơ quan sử dụng ngân
sách nhà nước, thực hiện cắt giảm những khoản chi mua sắm chưa thật cần thiết, giảm tối
đa các hội nghị toàn quốc, giảm chi phí đi lại (nhất là đi lại bằng máy bay); cắt giảm các
khoản chi tiếp khách, các đoàn công tác nước ngoài bằng vốn ngân sách hoặc có nguồn
gốc ngân sách mà không thật thiết thực; tiết kiệm năng lượng, phương tiện triệt để hơn
nữa. Giảm các chi phí cho hoạt động lễ hội, lễ kỷ niệm, đón nhận huân chương, danh hiệu
thi đua, gây tốn kém, lãng phí. Bộ Tài chính chủ trì giao chỉ tiêu và hướng dẫn nội dung
và tổ chức triển khai để các đơn vị thực hiện.
Phấn đấu năm 2008 thu ngân sách thực hiện vượt dự toán đã được giao, tăng dự phòng để
chi cho khắc phục thiên tai, an sinh xã hội, giảm thêm tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với

mục tiêu mà Quốc hội đã giao cho năm 2008.
3 TẬP TRUNG SỨC PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP, NÔNG NGHIỆP
VÀ DỊCH VỤ, BẢO ĐẢM CÂN ĐỐI CUNG CẦU VỀ HÀNG HÓA
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì:
a)Phối hợp với các địa phương khắc phục nhanh hậu quả của thiên tai và dịch bệnh để
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tập trung chỉ đạo phát triển trồng rau màu, chăn nuôi,
tăng nguồn cung thực phẩm nhằm sớm ổn định giá cả lương thực, thực phẩm, chuẩn bị đủ
giống cho sản xuất vụ mùa, hè thu;
b) Phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp để phát hiện sớm, chủ
động thực hiện và hướng dẫn kịp thời các biện pháp phòng, chống, ngăn chặn và dập tắt
một cách tích cực, kiên quyết, có hiệu quả dịch cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long
móng ở trâu, bò và cúm A (H5N1) ở người;
c) Chỉ đạo triển khai việc tu bổ các công trình hồ chứa, đê điều, công trình thủy lợi nhằm
chủ động đối phó với thiên tai trong mùa bão, lũ sắp tới để đảm bảo an toàn cho sản xuất
và đời sống.
Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Tài nguyên và Môi trường, Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch
UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về
thủ tục hành chính để giải quyết nhanh việc tiếp cận, sử dụng vốn, đất đai, mở rộng thị
trường nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Đồng thời, chủ động thực hiện các biện pháp
phù hợp tháo gỡ khó khăn do biến động giá làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp, trước hết là giá dự toán các công trình đang triển khai có nguồn vốn từ
ngân sách nhà nước để sớm hoàn thành, đưa vào hoạt động.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc tiếp tục rà soát, xóa bỏ các quy định không phù hợp
gây cản trở cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh
tế phát triển.
Bộ Công Thương chủ trì làm việc với các Bộ liên quan, hiệp hội ngành hàng, các doanh
nghiệp kinh doanh về việc bảo đảm nguồn hàng; đồng thời, có trách nhiệm cùng Chính
phủ kiềm giữ giá cả các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thuốc chữa bệnh, xăng dầu,
sắt thép, xi măng, phân bón, Chủ động đề ra và áp dụng phương án khắc phục tình

trạng thiếu điện và bảo đảm điện cho sản xuất.
4 ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU, KIỂM SOÁT CHẶT CHẼ NHẬP KHẨU, GIẢM
NHẬP SIÊU
Bộ Công Thương chủ trì:
a) Đề xuất các giải pháp cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu
để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất
khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù
hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập
khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
b) Hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; đẩy mạnh hoạt động xúc
tiến tại các thị trường truyền thống và mở rộng thị trường mới để tăng xuất khẩu;
c) Tăng cường các giải pháp khuyến khích sản xuất trong nước để thay thế hàng nhập
khẩu, thúc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ và du lịch;
d) Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để đề xuất cơ chế, chính sách
bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm trên thị trường nội địa, bảo đảm an ninh
lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này. Điều hành và kiểm soát
để xuất khẩu gạo năm 2008 ở mức 3,5 đến 4 triệu tấn.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá phù hợp với
chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu. Có cơ chế và chỉ đạo các ngân hàng thương mại mua hết
ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, xử lý kịp thời các ách tắc về tín dụng, đáp ứng
nhu cầu vay vốn hợp lý cho xuất khẩu.
Bộ Tài chính chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng công cụ thuế để tăng thuế xuất khẩu
ở mức hợp lý đối với than, dầu thô. Điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt ở mức hợp lý đối với một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu như: ô tô nguyên
chiếc, linh kiện lắp ráp xe ô tô dưới 12 chỗ ngồi, một số mặt hàng điện tử, điện lạnh, xe
và linh kiện lắp ráp xe hai bánh gắn máy, rượu, bia để thực hiện mục tiêu giảm nhập siêu
nhưng vẫn bảo đảm phù hợp với cam kết hội nhập; kiến nghị điều chỉnh cơ chế, chính
sách về thuế, áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác cần thiết, phù hợp với
các cam kết quốc tế để hạn chế các mặt hàng thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu.
5. TRIỆT ĐỂ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM TRONG SẢN XUẤT VÀ TIÊU DÙNG

Tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng vẫn còn diễn ra khá phổ biến ở các
cơ quan, đơn vị, trong dân cư, tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn.
Trước hết, Chính phủ chỉ đạo việc triệt để thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử
dụng ngân sách nhà nước. Các đơn vị phải chủ động sử dụng dự toán đã được giao để
thực hiện các nhiệm vụ, kể cả trong trường hợp giá cả tăng. Không bổ sung chi ngân sách
ngoài dự toán.
Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông.
Tăng cường công tác giám sát tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các
tập đoàn kinh tế, các tổng công ty 90, 91 để chấn chỉnh ngay việc đầu tư kém hiệu quả,
đầu tư ra ngoài ngành sản xuất chính và cơ cấu đầu tư bất hợp lý trong thời gian qua của
các đơn vị này.
Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu,
năng lượng.
6.TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG CHỐNG ĐẦU CƠ BUÔN
LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI, KIỂM SOÁT VIỆC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
NHÀ NƯỚC VỀ GIÁ
Bộ Công Thương chủ trì triển khai các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa;
đồng thời, tăng cường chỉ đạo thực hiện quản lý thị trường, nhất thiết không để xảy ra
tình trạng lạm dụng các biến động về nguồn hàng, giá cả trên thị trường để đầu cơ, nâng
giá, nhất là đối với các loại vật tư quan trọng như: xăng, dầu, điện, xi măng, sắt, thép,
phân bón, thuốc trừ sâu và hàng tiêu dùng thiết yếu như: lương thực, thuốc chữa bệnh,
Phối hợp với chính quyền địa phương chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường các biện
pháp ngăn chặn tình trạng gian lận thương mại, trốn lậu thuế và buôn lậu qua biên giới,
đặc biệt là buôn lậu xăng, dầu, khoáng sản, lương thực
Bộ Tài chính tăng cường kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải triệt để chấp hành các quy định về
quản lý giá, thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ của doanh nghiệp
mình.
Các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và

chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của
doanh nghiệp.
Chính phủ yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và
giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
7. TĂNG CƯỜNG CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG VÀ SẢN XUẤT
CỦA NHÂN DÂN, MỞ RỘNG VIỆC THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH VỀ AN SINH
XÃ HỘI
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, các Bộ, địa phương và cơ quan liên quan tăng
cường các biện pháp hỗ trợ an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân thông qua việc đẩy
mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm, hỗ trợ bảo đảm đời sống nhân
dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp
Bộ tài chính chủ trì
a) Phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra việc triển khai thực hiện các chính
sách về điều chỉnh mức lương tối thiểu mà Chính phủ đã ban hành có hiệu lực từ ngày 01
tháng 01 năm 2008; kiểm tra việc xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ
đồng bào bị thiên tai, thiếu đói;
b) Tổ chức thực hiện đầy đủ và có hiệu quả chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số,
hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân theo Quyết định số
289/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ như: hỗ trợ dầu hỏa ở
nơi không có điện hoặc thiếu điện; nâng học bổng cho học sinh dân tộc các trường nội
trú; hỗ trợ thêm cho học sinh mẫu giáo, học sinh bán trú con hộ nghèo; nâng bảo hiểm y
tế cho người nghèo và cho trẻ em dưới 6 tuổi; hỗ trợ lãi suất để đầu tư thay máy tiết kiệm
nhiên liệu, bảo hiểm phương tiện và con người. Tiếp tục nghiên cứu trình Thủ tướng
Chính phủ chính sách bảo đảm an sinh xã hội;
c) Chủ trì rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân;
d) Chủ trì cùng Bộ Công Thương giám sát việc triển khai thực hiện từ nay cho đến hết
tháng 6 năm 2008, chưa tăng giá điện, than, xăng, dầu; giữ ổn định giá xi măng, phân
bón, nước sạch, thuốc chữa bệnh, vé máy bay, tàu hỏa, vé xe buýt; giữ ổn định mức thu
học phí, viện phí. Đồng thời nắm chắc diễn biến của lạm phát, đề xuất với Chính phủ các
giải pháp thích hợp tiếp theo.

Các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cùng Ủy ban
nhân dân các cấp tăng cường các nguồn vốn giá rẻ cho Ngân hàng Chính sách Xã hội để
tiếp tục thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo và các đối tượng
chính sách.
Các Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân các địa phương tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện
các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn,
vùng bị thiên tai. Đồng thời, theo dõi, nắm chắc diễn biến giá cả, đời sống nhân dân trên
địa bàn, xử lý kịp thời những vấn đề xã hội gây bức xúc; tăng cường kiểm tra, giám sát và
tổ chức thực hiện đúng, đủ các chính sách xã hội của Nhà nước cho các đối tượng thụ
hưởng, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát,
tham nhũng.
8.ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC THÔNG TIN VÀ TUYÊN TRUYỀN
Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức chỉ đạo công tác thông tin tuyên truyền nhằm tạo
sự đồng thuận cao trong tất cả các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và trong các
tầng lớp nhân dân để thực hiện các mục tiêu và giải pháp đã đề ra nhằm đưa nền kinh tế
vượt qua khó khăn, phát triển ổn định.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức rất gay gắt nhưng thời cơ, thuận lợi
và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta còn rất lớn và rất cơ bản. Chính phủ yêu
cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ chức năng,
nhiệm vụ được giao và mục tiêu, các giải pháp trên, có kế hoạch tổ chức thực hiện ngay
trong tháng 4 năm 2008.
Các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin chính xác, ủng hộ các chủ trương, chính sách
của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh những thông tin sai sự thật có tính kích
động, gây tâm lý bất an trong xã hội

×