Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Qua cơ sở lý luận về lạm phát.phân tích tình trạng lạm phát và các biện pháp ở Việt Nam trong năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.15 KB, 23 trang )

KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
---    ---
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài:
Qua cơ sở lý luận về lạm phát.phân tích tình
trạng lạm phát và các biện pháp ở Việt Nam
trong năm 2008
GVHD : Đặng Công Triết
Thực hiện: Nhóm 5
Lớp : 110810103
Thành phố Hồ Chí Minh, thứ 6 ngày 18 tháng 03 năm 2011
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH
aôb

DANH SÁCH NHÓM
1. Nguyễn Minh Tiến MSSV: 10118521
2. Nguyễn Thị Tuyết Mai MSSV: 10081361
3. Trần Thanh Thảo MSSV: 10083551
4. Lê Thụy Thùy Trang MSSV: 10075001
5. Đặng Thị Mùi MSSV: 10080071
6. Phùng Thiên Vũ MSSV:
7. Nguyễn Thị Cẩm Yến MSSV: 10089191
8. Phan Ngọc Vân Lam MSSV: 10157451
9. Nguyễn Thị Thu Thúy MSSV: 10147311
10. Lê Đình Hùng MSSV: 10082791
TÓM TẮT
Việt Nam sau 12 năm kiểm soát được lạm phát (1995-2007),từ tháng 12
năm 2007,lạm phát quay trở lại với chỉ số CPI 2 con số.Giá cả mặt hàng tiêu dùng
thiết yếu tăng vọt các tháng đầu năm 2008,Chính phủ đã thực hiện chiến lược kiềm


chế lạm phát “cả gói” với 8 giải pháp.Nhớ những biện pháp kịp thời và linh hoạt
của Chính phủ,tình hình lạm phát cuối tháng năm 2008 đã được kiềm chế,tuy vậy
giá cả vẫn ở mức cao và vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp.Lạm phát là một hiện
tượng mà cả thế giới đều quan tâm,nghiên cứu về lạm phát để từ đó rút ra những
bài học vế lý lụân và thực tiễn là nhiệm vụ của các học giả,các nhà nghiên cứu,đặc
biệt là các diễn đàn nghiên cứu khoa học của chuyên ngành kinh tế trong các
trường đại học.Đề tài đã hệ thống hoá lý luận cơ bản về lạm phát và phân tích các
diễn biến thực tế của lạm phát ở Việt Nam qua chỉ số CPI và lãi suất ngân hàng, tỉ
giá hối đoái,tốc độ giảm GDP… trong nước,chỉ số giá vàng,USD trên thế giới…
trong giai đoạn tứ tháng 12/2007 đến 11/2008 và dự báo rủi ro,thach thức đế xuất
hệ giải pháp trong thời gian tới với kì vọng tham gia hoạch định chính sach vĩ
mô.bổ sung kiến thức về lý luận và thực tiễn,nâng cao chất lượng giảng dạy,nghiên
cứu học tập cho sinh viên và các bạn đồng nghiệp.
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Không lúc nào như thời gian từ năm 2008 đến nay, vấn đề lạm phát và tăng
trưởng thu hút sự quan tâm của nhiều giới khác nhau:từ người dân thường mỗi ngày
khi ra chợ có cảm nhận như mình bị móc túi; các chủ doanh nghiệp phải vật lộn với
những toan tính từ chi phí vật tư, hàng hoá, dịch vụ, lương công nhân đến giá thành,
giá bán, thị trường cung cấp vật tư, hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm; các chủ nhà
băng tính toán lãi suất huy động và cho vay như thế nào vừa để thu hút tiền gửi của
người gửi tiền và người vay vốn có thể chấp nhận với lãi suất cao hơn; các nhà lập
pháp, hành pháp và hoạch định chính sách đau đầu về những đơn thuốc chữa trị cho
nền kinh tế khi lâm vào bão bệnh “lạm phát cường độ cao”, hậu quả là tăng trưởng
bị suy giảm, đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người có thu nhập thấp gặp
khó khăn; trong dài hạn, Chính phủ lại lo ngại khi tăng trưởng kinh tế bị suy giảm
gây hậu quả giảm phát, làm cho đời sống của các tầng lớp dân cư càng gặp khó
khăn hơn, sức mua giảm dẫn đến kinh tế bị suy thoái, những ảnh hưởng tiêu cực từ
khủng hoảng tài chính từ nước Mỹ và toàn cầu đang tác động xấu đến nền kinh tế
nước ta, thị trường xuất khẩu hàng hoá bị giảm sút, vốn đầu tư gián tiếp có nguy cơ

bị rút khỏi thị trường chứng khoán, vốn đầu tư trực tiếp không thực hiện được như
cam kết. Để kích thích nền kinh tế, trong lúc tích luỹ của nền kinh tế, dự trữ ngân
sách, dự trữ ngoại hối của nước ta còn rất hạn hẹp, Nhà nước ta không đủ nguồn lực
để cung cấp các gói kích thích nền kinh tế như các nước phát triển hoặc như Trung
Quốc, Ấn Độ với hàng trăm tỷ đô la; Nhà nước chỉ có những khoản kích thích bằng
tăng vốn đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, trợ cấp
bằng tăng các khoản cho vay, giảm thuế, giảm lãi suất cho vay, tăng lương hoặc
giảm giờ làm việc, giảm giá hàng hoá, dịch vụ hoặc tăng trợ cấp cho các đối tượng
chính sách.
Để làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng, đã có nhiều công trình nghiên
cứu của các nhà kinh tế trong nước và thế giới, về lý thuyết và thực nghiệm nhóm
chúng tôi có một số ý kiến về tình hình lạm phát hiện nay, nếu có ý nào còn sai sót
mời thầy bổ sung thêm, nhóm em xin chân thành cảm ơn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về lạm phát.
- Phân tích và đánh giá thực trạng tình hình lạm phát trong năm 2008
- Dự báo mức lạm phát trong một vài tháng cuối năm 2008
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng kiềm chế và chống
lạm phát trong năm 2008
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu, chuyên đề đi sâu vào nhận định tình hình biến động
nội tại chuỗi gia tăng lạm phát, nhìn nhận lý do khách quan của sự biến động, từ đó
có cơ sở để đưa ra những kiến nghị và giải pháp trong công tác quản lý và kiềm chế
lạm phát, từ đó có làm tốt lên công tác ổn định kinh tế vĩ mô.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I:NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
I.TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.Nhìn nhận và đánh giá tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm
phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt

Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9%
của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ:
làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của
người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.Mặc cho sự tồn tại của nhiều
cách đo lường khác nhau nhưng các định nghĩa về lạm phát cơ bản không phải là tùy tiện.
ở đâu cũng vậy, ý tưởng chính đằng sau khái niệm lạm phát cơ bản là việc loại trừ những
biến động nhất định về giá cả một số hàng hóa, làm méo mó việc đo lường xu hướng lạm
phát của một nước. Đặc biệt đối với một số loại giá được coi là có biến động lớn, khá ngẫu
nhiên, mang tính nhất thời và không theo bất cứ một xu hướng nào. Tất cả những loại giá
đó chỉ gây ra sự thay đổi tạm thời mặt bằng giá nói chung và sẽ lại biến mất ngay sau đó.
Những biến động bất thường này sẽ xảy ra, ví dụ trong trường hợp của các loại lương thực
thực phẩm tươi sống theo thời vụ và chủ yếu phụ thuộc vào sự biến động của chất lượng
mùa màng do tác động của thiên tai hay những sự cố bệnh dịch như bệnh dịch bò điên hay
dịch cúm gà… gây ra.
Sự biến động cho tới những cơn sốc của giá dầu thô trên thị trường thế giới từ trước đến
nay cũng thường xuyên chịu tác động của các nhân tố tạm thời như chiến tranh, bệnh dịch,
thời tiết… Trên thực tế, vấn đề khó khăn trong việc xác định xu hướng giá cả với sự trợ
giúp của phương pháp loại bỏ này là rất khó dự tính được liệu những biến động bất thường
đó về giá cả chỉ là tạm thời trong ngắn hạn hay sẽ còn kéo dài một khoảng thời gian khá
lâu nữa. Chẳng hạn như khi xác định giá cả dầu thô: sự tăng giá của dầu thô một mặt, phụ
thuộc chủ yếu vào nhu cầu trung hạn về dầu thô trên thị trường quốc tế và do đó, lại phụ
thuộc vào các nhân tố tăng trưởng kinh tế; mặt khác, còn phụ thuộc vào sản lượng khai
thác và cung cấp dầu trên thị trường dưới tác động của một loạt các yếu tố như an ninh,
chính trị, quân sự, thời tiết… Theo quan điểm của các nước nhập khẩu dầu, những thay đổi
về các điều kiện thương mại cũng như tỷ giá của đồng bản tệ so với đồng USD cũng đóng
một vai trò quan trọng đối với sự biến động giá dầu nhập khẩu về.
Đối với các loại thực phẩm theo thời vụ lại còn có vấn đề là: trong khi có những biến động
lớn, giá cả các mặt hàng này vẫn biến động theo xu hướng giá cả chung. Do lạm phát cơ
bản được coi là phản ánh xu hướng của lạm phát nên khi tính toán tỷ lệ này phải chú ý cả
những biến động giá cả có liên quan đến xu hướng chung. Điều này đặc biệt quan trọng

trong trường hợp các loại giá cả thực phẩm thời vụ tách khỏi xu hướng chung và do đó, sẽ
làm thay đổi phần nào xu hướng lạm phát. Bởi phải loại bỏ hoàn toàn và thường xuyên các
cấu phần giá cả nhiên liệu và thực phẩm thời vụ nên xu hướng lạm phát nhìn chung sẽ
không bao giờ được phản ánh đầy đủ một cách tuyệt đối cả. Để khắc phục được một phần
nhược điểm này, nhiều NHTW các nước đang tăng cường sử dụng mô hình hóa lạm phát
cơ bản ở nước mình theo hai cách với sự hỗ trợ của các phương pháp thống kê nhất định.
Một là, xác định các thành phần giá cả dễ biến động và quy định một quyền số thấp trong
tính toán giá của rổ hàng hóa; như vậy, những thông tin về các loại giá cả này sẽ không
hoàn toàn bị mất đi. Hai là, chia tách sự biến động chỉ số giá tiêu dùng, hoặc các bộ phận
cấu thành riêng lẻ của nó thành những phần mang tính tạm thời và phần mang tính thường
xuyên và lâu dài; trong đó, phần có tính lâu dài sẽ biểu thị xu hướng lạm phát và lạm phát
khi đó sẽ được xác định tương ứng cho kỳ hạn dài hơn một năm. Cách xác định lạm phát
cơ bản cho thấy vào thời điểm hiện nay những thông tin về xu hướng giá rất quan trọng
vẫn đang còn bị bỏ qua. Do vậy, chỉ số lạm phát cơ bản phải thường xuyên được xem xét
và điều chỉnh lại cách tính toán cho phù hợp tình hình thực tế ở từng nước, từng khu vực.
Trong báo cáo tháng 1/2004, ECB đã rà soát lại tác động của thuế gián thu và chi phí hành
chính lên lạm phát ở khu vực Euro: kết quả phân tích cho thấy phần chi phí thuốc lá chiếm
tỷ trọng 2,3% trong cấu thành chỉ số giá tiêu dùng đã điều hòa (HICP), nên khi thuế thuốc
lá bắt đầu gia tăng đáng kể từ quý IV/2003 ở cả Pháp và Đức, là 2 nền kinh tế hàng đầu
khu vực, khiến cho giá thuốc lá ở Châu Âu dự tính sẽ gia tăng ít nhất 8% trong năm 2004
so với 2003, dẫn tới chỉ số lạm phát chung của cả khu vực sẽ gia tăng ít nhất 0,2% trong
cùng kỳ. Tương tự như vậy đối với phần chi phí quản lý hành chính công cộng: cuộc cải
cách y tế ở Đức cũng sẽ làm tăng thêm 0,2% lạm phát của toàn khu vực trong năm 2004.
Tổng hợp lại, cả thuế thuốc lá và chi phí hành chính đang chiếm tỷ trọng khoảng 8% HICP
sẽ làm gia tăng lạm phát ở khu vực Euro ít nhất thêm 0,5% trong năm 2004. Nếu loại bỏ
tác động của các yếu tố thuế và chi phí hành chính nói chung thì lạm phát bình quân khu
vực này sẽ chỉ còn ở mức thấp xấp xỉ 1% thay vì 2% trong cả 2 năm 2004 và 2005. Đây là
điều cần cân nhắc kỹ trong phân tích, đánh giá chính sách tiền tệ của ECB để có thể kiềm
chế hiệu quả lạm phát ở khu vực Euro ở mức xấp xỉ dưới 2% như mục tiêu đã đề ra trong
trung hạn.

Như vậy, để đánh giá đầy đủ về tình hình lạm phát, các NHTW cần phải có một cách nhìn
nhận sáng suốt về vấn đề này, nhất là ở những nền kinh tế còn yếu kém và bất ổn định của
các nước đang phát triển. Ngay tại cuộc Hội thảo trong tháng 7/2000 về đề tài “Lạm phát
cơ bản và cách dự báo lạm phát” do Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu của các NHTW
Đông Nam á (SEACEN) tổ chức cho các quan chức NHTW tại các nước Châu á (chủ yếu
là các nước đang phát triển như Inđônêxia, Malaixia, Mông Cổ, Nê pan, Philippin, Thái
Lan, Trung Quốc, Việt Nam và Xrilanca), các thành viên tham dự Hội thảo đã nhận thức
được sự cần thiết và tầm quan trọng của chỉ số lạm phát cơ bản, cách xác định chỉ số này
rất có ý nghĩa phục vụ cho các mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của các nước trên 3
phương diện: đề ra chính sách, trách nhiệm bảo đảm thực hiện chính sách đã đề ra và xúc
tiến công tác dự báo và ước tính theo mô hình kinh tế lượng. Cơ sở quan trọng để tính toán
lạm phát cơ bản chính là chất lượng chuẩn xác và tính kịp thời của các số liệu thống kê giá
cả và tiền tệ được tập hợp và xử lý trong tính toán. Đây là vấn đề trọng tâm thu hút sự quan
tâm chú ý của hầu hết NHTW các nước, các khu vực có sử dụng chỉ số lạm phát cơ bản
trong điều hành chính sách. Từ tháng 8/2000, ECB cũng đã kêu gọi các nước thành viên
trong khu vực Euro cần có sự cải cách về cách thức thu thập và tính toán các chỉ số kinh tế
trong khu vực vì số liệu mà ECB nhận được từ các nước thành viên chưa đạt các chuẩn
mực cần thiết. Trong đó, ECB nêu rõ số liệu về khu vực dịch vụ là đặc biệt cần thiết phải
quan tâm để có được đầy đủ và chính xác hơn. ECB còn yêu cầu các thành viên phải cung
cấp và công bố số liệu kịp thời hơn vì nếu so sánh thì các nhà quản lý và hoạch định chính
sách của ECB thường có thông tin, số liệu quan trọng về GDP hay về thị trường lao
động… chậm hơn nhiều so với các đồng nghiệp ở Mỹ.
Lạm phát ở nước ta trong năm 2008 là sự tích hợp của nhiều yếu tố: Lạm phát cầu kéo, lạm
phát chi phí đẩy, lạm phát tiền tệ, lạm phát do yếu tố tâm lý.... Chúng ta đã bàn nhiều đến
nguyên nhân trong nước và quốc tế nhưng nguyên nhân cơ bản là do đã mở rộng tín dụng
và đầu tư một cách quá mức để hy vọng đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong ngắn hạn.
Chính vì vậy, bây giờ chúng ta phải trả giá bằng mất ổn định kinh tế vĩ mô, ít nhất là trong
trung hạn
Chuyên gia IMF cho rằng, với chính sách hiện nay, Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát từ
bên ngoài. Việt Nam cần có một cách tiếp cận mới, linh hoạt hơn, thích ứng với biến động

thị trường để cuối 2008 lạm phát có thể trở về một con số. Cách đây vài năm, năm 2004,
Việt Nam cũng đặt trong chỉ số lạm phát của Việt Nam ở mức 9,4%. Tuy nhiên, so với thời
điểm đó, tình hình lạm phát năm nay có nhiều điểmkhác.
Một là, đồng USD bị mất giá trên toàn cầu, đòi hỏi có những tính toán, cân nhắc về việc có
nên tiếp tục cố định tỷ giá tiền đồng so với tiền USD không.
Mức tăng cung tiền của Việt Nam lớn hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Đối với một nước dân số đông và tăng nhanh như Việt Nam, số người nghèo có thể tăng
lên cùng với lạm phát. Ứng phó trước tình trạng này, chỉ một bộ phận người Việt có thể
đầu tư vào lĩnh vực tài chính, bảo vệ chính mình. Người nghèo không có được công cụ bảo
vệ đó. Họ phụ thuộc vào thu nhập hằng ngày. Họ có thể bị đói trong "cuộc đua" mua hàng
hóa trong cơn lạm phát.
Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát Nhìn ra khu vực, cùng chịu tác động của cú sốc cung,
của tăng giá hàng hóa nhưng tình trạng lạm phát của các nước rất thấp, ngay cả Trung
Quốc có tốc độ phát triển kinh tế nhanh hơn nhiều so với Việt Nam.
Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn
các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu
thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh
cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa
ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm.
Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình
của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ
lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời
điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả
cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
2. Chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam trong xu hướng giá cả trên thế giới gia tăng
Cho đến nay, Việt Nam mới chỉ tính toán và công bố chính thức chỉ số giá tiêu dùng CPI,
chưa tính toán lạm phát cơ bản. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hiện nay của Việt Nam được
tính trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Chỉ số giá của
từng tỉnh, thành phố được tính theo phương pháp bình quân số học gia quyền giữa chỉ số
giá tiêu dùng nhóm cấp III, cấp II rồi cấp I với quyền số cố định tương ứng trên cơ sở cơ

cấu chi tiêu hộ gia đình tổng hợp từ kết quả điều tra do Tổng cục Thống kê tiến hành năm
2000.
Danh mục thu thập giá gồm khoảng 396 mặt hàng, chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I, lại
được phân tiếp thành 34 nhóm cấp II, 86 nhóm cấp III và 75 nhóm cấp IV. Sự phân nhóm
được tiến hành theo hình tháp, càng xuống thấp số lượng nhóm càng lớn (trong mỗi nhóm
đều bao gồm hàng hóa và dịch vụ cho từng loại nhu cầu tiêu dùng). Ví dụ trong nhóm tiêu
dùng cấp I, lương thực – thực phẩm lại được phân tiếp thành 3 nhóm cấp II và 20 nhóm
cấp III…
Phương pháp xác định chỉ số CPI của Việt Nam được diễn tả ở trên cho thấy: Nhìn chung,
các mức quyền số cố định có tác động chi phối đáng kể đến xu hướng và mức độ biến
động chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam. Tổng cộng có 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ của rổ
hàng hóa dịch vụ tham gia kết cấu quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng CPI; các mức quyền
số này đã được Tổng cục Thống kê tính toán xác định trên cơ sở cơ cấu chi tiêu thực tế ở
các hộ gia đình đã được điều tra khảo sát theo định kỳ khoảng 5 năm một lần (gần đây là
các năm 1995, 2000 được lấy làm năm gốc điều tra). Trong đó, quyền số cố định của nhóm
hàng cấp I lương thực – thực phẩm vẫn đứng ở vị trí cao nhất với mức 47,9% (đã giảm
đáng kể so với mức 60,86% ở năm 1995); còn quyền số cố định của 9 nhóm cấp I còn lại
thấp hơn rất nhiều. Như vậy, xu hướng biến động chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ trước
đến nay, nhất là kể từ khi tính toán và công bố chính thức chỉ số CPI, chủ yếu chịu ảnh
hưởng của sự biến động giá lương thực thực phẩm là mức giá hay thay đổi mạnh do phải
chịu nhiều yếu tố tác động khác nhau ở trong và ngoài nước. Điều này đã được minh
chứng qua số liệu thống kê thực tiễn về chỉ số giá tiêu dùng trong một số thời kỳ phát triển
điển hình của nền kinh tế Việt Nam: ví dụ trong năm 1999, là năm chỉ số giá tiêu dùng
Việt Nam đã liên tục giảm xuống mức âm trong 8 tháng liền với mức bình quân –
0,55%/tháng chủ yếu là do chỉ số giá lương thực – thực phẩm giảm mạnh lần lượt ở các
mức bình quân – 1,85%/tháng và -0,58%/tháng trong khi chỉ số giá bình quân của 9 nhóm
hàng hóa dịch vụ còn lại trong thời kỳ này hầu như không đổi, thậm chí còn tăng nhẹ (1
hoặc 2 trường hợp cũng có giảm nhưng chỉ giảm ở mức bình quân trên dưới -0,1%/tháng).
Hay như trường hợp gần đây, nhất là giai đoạn 7 tháng đầu năm 2004: so với cuối năm
năm 2003, chỉ số CPI của cả nước tăng 7,7%, trung bình mỗi tháng tăng 1,1%, chủ yếu do

giá lương thực – thực phẩm tăng tới 13,7% (trong đó, giá lương thực tăng 11,2% và giá
thực phẩm tăng 15,4%), trong khi chỉ số giá bình quân của 9 nhóm hàng tiêu dùng còn lại
trong cùng kỳ hầu như chỉ tăng nhẹ ở mức 1 chữ số, không cao quá mức 5% (riêng giá
hàng hóa dịch vụ nhóm dược phẩm y tế tăng 7,7% do phải nhập khẩu tới 60% nguyên liệu
sản xuất thuốc chữa bệnh; trong khi chỉ số giá nhóm giáo dục lại giảm nhẹ 2,7%). Nếu so
với cùng kỳ năm 2003 thì chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam trong tháng 7/2004 đã
tăng 9,1%/năm – mức tăng cao nhất trong hơn 5 năm qua (lần cuối gần đây nhất CPI của
Việt Nam cũng đã tăng 9,1%/năm là vào tháng 1/1999) chủ yếu do giá lương thực – thực
phẩm tăng mạnh với mức 15,5% trong cùng kỳ. Theo dự báo của Bộ Tài chính Việt Nam,
chỉ số lạm phát chung của Việt Nam trong cả năm 2004 sẽ là 9%. Giá tiêu dùng tăng cao
có ảnh hưởng không tốt đến thu nhập và đời sống của đại bộ phận dân cư. Đó là chưa kể
đến giá các loại nguyên vật liệu thiết yếu cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở Việt
Nam đều đã tăng rất cao từ đầu năm 2004 đến nay do phải phụ thuộc nặng nề vào nguồn
nhập khẩu như xăng và các sản phẩm dầu phải nhập khẩu 100%, phân đạm 90%, phôi thép
75% và thép thành phẩm 65%… Hệ quả là khi giá các mặt hàng nguyên vật liệu này trên
thị trường thế giới tăng cao thì giá nhập khẩu chúng vào Việt Nam cũng phải tăng theo rất
mạnh nếu ngân sách nhà nước không đủ khả năng bù lỗ. Tính ra trong 6 tháng đầu năm
2004, giá cả của hầu hết nguyên nhiên liệu thiết yếu cho sản xuất công – nông nghiệp như
xăng dầu, sắt thép… đều tăng nhanh đột biến lần lượt với các mức 23,6% và 48% so với
cùng kỳ năm trước chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ rất mạnh của 2 nền kinh tế khổng lồ trên
thế giới là Mỹ và Trung Quốc, còn giá phân bón thì tăng 5,7% so với cuối năm 2003. Giá
cả trên thị trường thế giới tăng cao đã gây tác động trở lại làm gia tăng đáng kể lạm phát ở
ngày càng nhiều nước trên thế giới từ các nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ (chỉ số giá
tiêu dùng đã tăng từ 1,7%/năm trong tháng 2/2004 lên tới 5,1%/năm trong tháng 5/2004),
các nước khu vực Euro (chỉ số CPI từ tháng 2-5/2004 đã tăng từ 1,6%/năm lên 2,5%/năm –
cao vượt mức trần mục tiêu 2%/năm), rồi Nhật Bản (CPI đã tăng 1,1%/năm trong tháng
5/2004 – mức tăng CPI cao nhất kể từ năm 1997) cho đến các nước đang phát triển như
Trung Quốc (trong tháng 6/2004 chỉ số giá sản xuất tăng 6,4%/năm còn CPI đã tăng lên
gần 5%/năm – mức tăng cao nhất trong vòng 7 năm qua; CPI của cả năm 2003 chỉ vào
khoảng 1%).

Mức độ tăng giá nguyên vật liệu sản xuất và giá hàng tiêu dùng trong 7 tháng đầu năm
2004 ở Việt Nam như vậy là khá cao và như Bộ Tài chính Việt Nam đã thừa nhận có gây
tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đời sống xã hội: “tác động xấu đến sản xuất kinh
doanh, đến chính sách kinh tế vĩ mô, giá đầu ra, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng
hóa, dịch vụ” (Báo cáo của Bộ Tài chính tại Hội nghị triển khai các giải pháp thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ tài chính – ngân sách 2004 và xây dựng dự toán ngân sách 2005 ngày
23/6/2004 tại Hà Nội). Cũng tại Hội nghị này, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã khẳng định
mặt bằng giá cả ở Việt Nam cũng phải tăng lên theo xu hướng tăng giá trên thị trường thế
giới trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa hiện nay: “Vấn đề giá cả theo tôi là vấn đề nóng
bỏng nhất hiện nay. Trong hoàn cảnh hiện tại, giá cả của nước ta phụ thuộc hầu như hoàn
toàn vào giá thế giới, nhất là một số mặt hàng thiết yếu như sắt thép, dầu xăng, xi măng…

×