Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Có phải loài người đang tiến hoá nhanh hơn? pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.41 KB, 13 trang )

Có phải loài người đang tiến hoá nhanh hơn?
Những bằng chứng di truyền tìm thấy đã chứng
minh sự tiến hoá của loài người đang tăng tốc, nó
không chững lại hay chỉ tăng với nhịp độ đều đều
như các nhà nghiên cứu vẫn nghĩ. Như vậy, có
nghĩa là cư dân của các lục địa khác nhau đang
khác biệt nhanh chóng.
Đội trưởng đội nghiên cứu Henry Harpending, một
giáo sư lỗi lạc ngành nhân loại học của trường Đại
Học Utah, đã nói: “Chúng tôi sử dụng công nghệ gen
mới để chứng minh con người đang tiến hoá nhanh
chóng. Nhịp độ tiến hoá đã tăng lên rất nhiều trong
vòng 40.000 năm trở lại đây, đặc biệt kể từ cuối kỷ
Băng Hà vào khoảng 10.000 năm trước”.
Ông cũng cho biết có một số điểm gây tò mò trong
nghiên cứu được xuất bản thứ 2 ngày 10/12 trên tập
san Proceedings of the National Academy of
Sciences: “Chúng ta không giống tổ tiên của mình
thậm chí mới chỉ cách đây có 1.000 hoặc 2.000
năm”. Điều này có thể lý giải một phần sự khác biệt
giữa cướp biển Viking và con cháu Thuỵ Điển yêu
hoà bình. “Có giáo lý cho rằng đó là do biến động
văn hoá. Nhưng bất cứ một kiểu tính cách nào đều
nằm trong tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của gen.”
Ông nói: “Loài người đang tiến hoá khác xa nhau.
Sự tiến hoá về gen đều diễn ra mạnh mẽ ở Châu Âu,
Châu Á và Châu Mỹ nhưng lại đặc trưng theo nguồn
gốc của mỗi châu lục. Chúng ta ngày càng khác biệt
với đồng loại, không tổ hợp với nhau để thành một
loài người độc nhất nữa.” Nguyên nhân là do người
Châu Phi đã phân tán đi khắp các vùng từ 40.000


năm trước. “Cũng không còn nhiều các dòng gen
giữa các khu vực kể từ đó.”
“Nghiên cứu của chúng tôi phủ nhận lầm tưởng và
niềm tin vốn được chấp nhận rộng rãi rằng con
người hiện đại (loài có thể sự dụng công cụ tiến bộ
và nghệ thuật) xuất hiện từ 40.000 năm trước không
hề thay đổi kể từ thời điểm đó, chúng ta vẫn gần như
y hệt tổ tiên mình. Chúng tôi đã chứng minh loài
người đang thay đổi tương đối nhanh trên quy mô
hàng thế kỉ đến hàng thiên niên kỉ. Sự thay đổi này
cũng khác tùy theo từng chủng tộc.”
Tốc độ tăng dân số của loài người từ hàng triệu đến
hàng tỉ trong 10.000 năm trở lại đây đã thúc đấy nhịp
độ tiến hoá bởi “chúng ta đã từng phải thích nghi với
một môi trường mới. Dân số càng lớn, càng nhiều đột
biến xảy ra”, Harpending nói thêm.
Ông Gregory M.Cochran, đồng sự trong nghiên cứu,
phát biểu: “Lịch sử ngày càng giống một cuốn tiểu
thuyết khoa học trong đó các thể đột biến liên tục
xuất hiện và chiếm chỗ của người bình thường - đôi
khi khẽ khàng len lỏi, tồn tại sau những cơn đói hay
bệnh dịch, đôi khi ồ ạt như những kẻ đi xâm chiếm.
Và chúng ta, chính là những thể đột biến đó.”
Ông Harpending thực
hiện nghiên cứu với
Cochran - nhà vật lý
bang New Mexico, nhà
sinh học ngành tiến
hoá tự học và kiêm trợ
giáo môn nhân loại

học trường Đại Học
Utah; bên cạnh đó còn có nhà nhân chủng học John
Hawks - nhà nghiên cứu hậu tiến sĩ đã từng làm việc
tại Utah giờ chuyển sang Đại Học Wisconsin,
Madison; Eric Wang - nhà di truyền học của
Affymetrix, Inc. tại Santa Clara, Calif; và Robert
Moyzis, nhà hoá sinh học thuộc Đại Học California,
Irvine.
Sự phân biệt không thể bào chữa
Nghiên cứu mới được thực hiện bởi hai nhà khoa học
cùng thuộc Đại Học Utah, Harpending và Cochran –

(Ảnh minh hoạ:
Cyberpingui.free.fr)
những người đã từng tạo ra cơn chấn động năm 2005
khi họ xuất bản một nghiên cứu tranh luận rằng trí
thông minh trên trung bình của người Do Thái thuộc
giáo hội phía bắc Châu Âu là hậu quả của chọn lọc tự
nhiên trên lục địa Châu Âu thời Trung Cổ, nơi họ bị
ép buộc phải làm những nghề như tài phiệt, buôn bán,
quản lý và nhân viên thu thuế. Ai mưu mẹo hơn thì
thành công, giàu sang và có gia đình lớn với đông
đúc con dòng cháu giống. Nhưng trí thông minh cũng
có liên quan đến bệnh di truyền như chứng ngu đần
và bệnh rối loạn di truyền Gaucher ở người Do Thái.
Nghiên cứu trên và một vài nghiên cứu khác tập
trung vào sự khác biệt về gen của loài người với hơn
99% số gen giống nhau đã reo giắc nỗi sợ về sự bình
đẳng bị phá vỡ, trong khi sự kì thị và phân biệt chủng
tộc lên ngôi. Một số khác nghi ngờ chất lượng của

khoa học, và cho rằng văn hoá có vai trò lớn hơn di
truyền.
Ông Harpending cho biết sự khác biệt về gen trong
các cộng đồng người khác nhau “không thể dùng để
biện minh cho nạn phân biệt. Quyền lợi quy định
trong hiến pháp không dựa trên cơ sở bình đẳng
tuyệt đối. Con người ai cũng có quyền và có cơ hội
dù họ thuộc chủng tộc nào.”
Phân tích SNP của gia tốc tiến hoá
Nghiên cứu đi tìm bằng chứng di truyền của chọn lọc
tự nhiên - sự tiến hoá của những thể đột biến gen phù
hợp – trong suốt 80. 000 năm qua bằng cách phân
tích AND từ 270 cá nhân trong dự án HapMap quốc
tế xác định các biến thể khác nhau trong các gen gây
bệnh của loài người mà có thể sử dụng cho việc
nghiên cứu dược liệu mới.
Nghiên cứu đặc biệt tập trung vào biến thể gen được
gọi là “đa hình nucleotit 1” (viết tắt SNP) mang đột
biến tại một điểm trên nhiễm sắc thể. Các biến thể
này đang nhân rộng với một tỉ lệ khá lớn trong cộng
đồng dân cư.
Hãy so sánh hai nhiễm sắc thể giống nhau của hai
người khác nhau. Nhiễm sắc thể được tạo thành bởi
mai mạch AND xoắn kép hình bậc thang, mỗi mạch
do các cặp axit amin tạo thành, G-C và A-T.
Harpending nói, cứ 1000 cặp axit amin sẽ có một
điểm khác biệt giữa hai nhiễm sắc thể. Đó chính là đa
hình nucleotit 1.
Dữ liệu được nghiên cứu bao gồm 3,9 triệu đa hình
nucleotit 1 của 270 người đến từ 4 cộng đồng: Người

Hán – Trung Quốc, Nhật Bản, bộ tộc Yoruba ở Châu
Phi và người Châu Âu phía bắc, chủ yếu là người
thuộc đạo đa thê Mormons chủng Utah.
Qua thời gian các nhiễm sắc thể tách ra và tổ hợp với
nhau một cách ngẫu nhiên để tạo thành phiên bản
nhiễm sắc thể mới. Harpending nói: “Nếu một thể đột
biến thích nghi xuất hiện, số lượng phiên bản sao
chép của nhiễm sắc thể đó sẽ tăng lên nhanh chóng”
trong cộng đồng dân cư do người mang đột biến có
khả năng tồn tại và sinh sản.
“Nếu nó tăng lên nhanh chóng, nó sẽ trở nên phổ
biến trong cộng đồng chỉ trong một thời gian ngắn.”
Các nhà nghiên cứu đã tận dụng điểm này để xác
định liệu gen trên nhiễm sắc thể có tiến hoá hay
không. Con người có 23 cặp nhiễm sắc thể, mỗi cặp
bố mẹ lại sinh ra một bản sao của mình. So sánh cùng
một nhiễm sắc thể của nhiều người nếu chúng cùng
một đoạn mang đa hình nucleotit 1 như nhau thì có
nghĩa là đoạn nhiễm sắc thể đó không bị tách ra hay
tổ hợp lại trong thời gian gần đây. Gen trên đoạn
nhiễm sắc thể đó chắc chắn chỉ vừa mới tiến hoá và
tiến hoá rất nhanh. Nếu điều này xảy ra cách đây rất
lâu, nhiễm sắc thể đã bị tách và tổ hợp với những
nhiềm sắc thể khác.
Harpeding và đồng sự đã dùng máy tính để quét các
đoạn nhiễm sắc thể mang đa hình nucleotit 1 như
nhau không bị tách và tổ hợp, chúng chỉ vừa mới tiến
hoá. Họ cũng tính toán khoảng thời gian tiến hoá của
gen.
Một phát hiện quan trọng: 7% số gen của con

người đang trải qua quá trình tiến hoá mới với tốc
độ nhanh.
Trường hợp sự tiến hoá của loài người đang tăng lên
được đưa ra bằng cách so sánh dữ liệu gen hiện tại
với dữ liệu khi quá trình tiến hoá của loài người là bất
biến:
- Nghiên cứu phát hiện ra rằng đa hình nucleotit 1 đa
dạng hơn mong đợi nếu quá trình tiến hoá của con
người không thay đổi.
- Nếu tỉ lệ gen mới tiến hoá trong cộng đồng châu Phi
ngoại suy từ 6 triệu năm trước khi con người và tinh
tinh tách ra làm hai loài, sự khác biệt về gen giữa tinh
tinh và con người hiện đại sẽ lớn gấp 160 lần hiện tại.
Chính vì thế tỉ lệ tiến hoá trong cộng đồng Châu Phi
thể hiện một cuộc tăng tốc chỉ vừa mới xảy ra trong
tiến trình tiến hoá.
- Nếu quá trình tiến hoá xảy ra nhanh và liên tục
trong một thời gian dài, sẽ có rất nhiều gen tiến hoá
và lan rộng tới tất cả mọi người. Nhưng nghiên cứu
cũng phát hiện ra rằng rất nhiều gen xuất hiện nhiều
hơn gen khác trong cộng đồng, điều này cũng chỉ ra
sự tăng tốc trong quá trình tiến hoá gần đây.
Kế tiếp, họ xem xét lịch sử tăng dân số trên từng lục
địa. Các dạng đột biến được tìm thấy trong dữ liệu hệ
gen đã chứng minh cho giả thuyết quá trình tiến hoá
xảy ra nhanh hơn trong cồng động dân cư lớn hơn.
Tiến hoá và lịch sử loài người: Vấn đề với sữa.
“Tốc độ tăng dân nhanh chóng đi kèm với biến đổi
trên diện rộng về văn hoá và sinh thái tạo ra nhiều cơ
hội cho biến thể thích nghi. 10.000 năm trước đã

chứng kiến sự tiến hoá về hàm răng và bộ xương của
loài người cũng như rất nhiều phản ứng di truyền
trước chế độ ăn uống và bệnh tật.”
Các nhà nghiên cứu cũng chú ý đến việc tản cư
của loài người và môi trường Âu-Á cũng tạo ra áp
lực chọn lọc ưu đãi sự hình thành ít sắc tố da hơn
(da có thể hấp thu ánh sáng nhiều hơn để tạo vitamin
D), thích nghi với thời tiết lạnh và sự thay đổi về chế
độ ăn.
Vì dân số loài người tăng từ vài triệu vào cuối kỉ
Băng Hà lên đến 6 tỉ vào thời điểm hiện tại, nhiều
gen thích nghi đã sinh ra và quá trình tiến hoá tăng
tốc trên toàn cầu cũng như trong từng cộng đồng trên
các lục địa, Harpending cho biết.
“Chúng ta phải hiểu sự biến đổi của gen để hiểu lịch
sử.” Ví dụ, tại Trung Quốc và phần lớn Châu Phi, rất
ít người có thể tiêu hoá sữa tươi ở tuổi trưởng thành.
Nhưng tại Thuỵ Điển và Đan Mạch, gen sinh ra men
tiêu hoá sữa lactaza vẫn hoạt động nên “hầu hết mọi
người có thể tiêu hoá sữa tươi”, lý giải tại sao công
nghiệp sản xuất bơ sữa phổ biến ở châu Âu hơn Địa
Trung Hải và Châu Phi.
Harpending hiện đang nghiên cứu liệu đột biến sinh
ra sự không tiêu hoá sữa có phần nào thúc đẩy quá
trình bành trướng dân số, kể cả khi người thuộc dòng
ngôn ngữ Âu-Ấn định cư từ tây bắc Ấn Độ đến Trung
Á dọc khắp Ba Tư và Châu Âu từ 4000 đến 5000
năm trước. Ông cũng nghi ngờ rằng uống sữa cung
cấp thêm nhiều năng lượng cho người Âu-Ấn vốn
không có khả năng tiêu hoá sữa, khiến họ có thể

chinh phục cả một vùng đất đai rộng lớn.
Nhưng Harpending tin rằng sự tăng tốc trong quá
trình tiến hoá của loài người “chỉ là chuyện tạm thời
do sự thay đổi trong môi trường mới của chúng ta kể
từ thời điểm người hiện đại phân tán 40.000 năm
trước, đặc biệt là từ khi nông nghiệp ra đời 12.000
năm trước. Sự kiện này đã thay đổi chế độ ăn uống
và hệ thống xã hội của chúng ta. Nếu bạn đột nhiên
chọn một nhóm người thuộc cộng đồng săn bắt-hái
lượm và chỉ cho họ ăn ngô, họ sẽ bị tiểu đường.
Chúng ta vẫn thích nghi với điều đó. Một vài gen mới
đang phát tán trong cộng đồng dân cư đã giúp chúng
ta thích nghi với chế độ ăn nhiều hyđrat-cacbon.”
Trà Mi (Theo Physorg)

×