Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

TIỂU LUẬN: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN CHỦ ĐẠO CỦA NƯỚC TA TRONG NHỮNG NĂM QUA pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.42 KB, 32 trang )

63
TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

[\[\



Tiểu luận
Đề tài:


THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT HÀNG
NÔNG THỦY SẢN CHỦ ĐẠO CỦA NƯỚC TA
TRONG NHỮNG NĂM QUA


CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT
HÀNG
NÔNG THỦY SẢN CHỦ ĐẠO CỦA NƯỚC TA
TRONG NHỮNG NĂM QUA
I-Khả năng để sản xuất một số mặt hàng nông thủy sản xuất khẩu:
1-Điều kiện tự nhiên:
a-Tiềm năng đất đai:
Lãnh thổ Việt Nam có diện tích là 331.688 km2
(1)
, xấp xỉ 33 triệu ha, trong đó vùng
miềm núi và trung du chiếm gần 3/4 diện tích. Quỹ đất canh tác hiện nay là 8,2 triệu ha và
có thể mở rộng diện tích canh tác lên 10 triệu ha hoặc cao hơn; trong đó có một phần đất
bằng, đa số là đất dốc dới 15 độ. Diện tích đất canh tác hiện nay chiếm 25,1% tổng diện


tích, trong đó diện tích canh tác lúa đạt 4,2 triệu ha, diện tích gieo trồng là 6,8 triệu ha
chiếm tỉ lệ 51,2%; diện tích trồng cà phê là 310.000 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 3,77%; diện
tích trồng cao su là 363.400 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 4,42%
(2)
; diện tích nuôi trồng thủy
sản là 372.000 ha.
Diện tích nớc ta vào loại trung bình trên thế giới (đứng thứ 56 / hơn 200 quốc gia),
nhng do dân số đông nên bình quân đất đai tính theo đầu ngời chỉ đạt 0,5 ha/ ngời (năm
1992) và bình quân đất canh tác là 0,1 ha / ngời.
Đất đai nớc ta rất phức tạp và đa dạng về loại hình, nhng chủ yếu phân thành hai
nhóm: nhóm đất núi và nhóm đất hình thành trên sản phẩm bồi tụ.
Nhóm thứ nhất chiếm khoảng 1/2 diện tích tự nhiên với hơn 16,5 triệu ha chủ yếu là
các loại đất feralit. Loại đất này đợc hình thành trong quá trình phong hoá nhiệt đới, có
tầng đất sâu, dày, ít mùn, chua và thờng có mầu vàng đỏ. Đất feralit đặc biệt là đất đỏ
bazan (có hơn 2 triệu ha ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ) thích hợp cho việc trồng các
loại cây công nghiệp dài ngày trong đó có cà phê, cao su.
Nhóm đất thứ hai tập trung ở các châu thổ và dọc theo các thung lũng rộng lớn. Đây
là loại đất trẻ mầu mỡ. Trong nhóm đất này thì phì nhiêu hơn cả là đất phù sa với diện tích
3,12 triệu ha, phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Loại
đất này có độ PH trung tính, hàm lợng dinh dỡng khá thích hợp cho việc trồng lúa và
nhiều loại cây khác.
Hiện nay, quỹ đất mà chúng ta đã đa vào sử dụng (cho mục đích nông nghiệp, lâm
nghiệp, chuyên dùng và c trú) là 18.881.240 ha
(1)
, chiếm khoảng 57% tổng quỹ đất; đất
cha sử dụng là 14.217.845 ha
(2)
, chiếm 43%. Quỹ đất thuận lợi cho trồng lúa hầu nh đã
khai thác hết. Để nâng cao sản lợng lúa, nông dân chỉ còn cách tăng vụ để nâng cao hệ số
sử dụng đất và đầu t thâm canh. Quỹ đất thuận lợi cho trồng cây công nghiệp dài ngày có

hơn 2 triệu ha, song mới chỉ khai thác đợc rất ít chủ yếu là cao su (363.400 ha năm 1998),
cà phê (310.000 ha năm 1998)
(3)
. Tóm lại, quỹ đất của chúng ta không nhiều song đất đai
lại thuận lợi cho việc trồng lúa và cây công nghiệp dài ngày. Nếu chúng ta biết quản lý và
sử dụng tốt quỹ đất hiện có thì sản lợng sẽ không ngừng đợc tăng lên.
b-Tiềm năng nớc và khí hậu:
Nớc cũng nh đất là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia nói chung và của nền nông
nghiệp nói riêng. Tài nguyên nớc của Việt Nam khá phong phú bao gồm nớc trên mặt và
nớc dới đất.
Hàng năm, lợng nớc ma cung cấp cho lãnh thổ nớc ta trên 900 tỷ m3 nớc
(4)
. Lợng
ma lớn đã tạo cho nớc ta một mạng lới sông ngòi dày đặc với 2345 con sông
(5)
dài trên 10
km, mật độ sông ngòi là 0,5-2,0 km/km2, trung bình cứ 20 km bờ biển lại có một cửa sông.
Tổng lợng dòng chảy hàng năm phát sinh trên đất nớc ta là 317 tỷ m3
(1)
. Xét về mặt hoá
tính, nớc sông ngòi Việt Nam có chất lợng tốt, độ khoáng hoá thấp, ít biến đổi, độ PH
trung tính và hàm lợng chất hữu cơ thấp.
Nguồn nớc trên mặt của nớc ta khá dồi dào nên chỉ cần khai thác 10-15% trữ lợng
nói trên là đảm bảo nhu cầu cho sản xuất và đời sống. Hiện nay, nông nghiệp là ngành tiêu
thụ nhiều nớc nhất. Mức tiêu thụ năm 1990 là 47 tỷ m3, năm 2000 là 60,5 tỷ m3. Tuy
nhiên, do tổng lợng dòng chảy sông ngòi lớn lại phân bố không đều, mùa ma lợng dòng
chảy chiếm tới 70-80%, mùa khô chỉ chiếm 20-30% tổng lợng dòng chảy cả năm nên lũ
lụt, hạn hán là mối đe doạ thờng xuyên đối với sản xuất nông nghiệp.
Nguồn nớc ngầm ở nớc ta có trữ lợng khá lớn, có thể cho sản lợng 130 triệu m3/
ngày.

Có thể nói, tiềm năng nớc của chúng ta còn khá dồi dào, đủ cung cấp cho mọi hoạt
động trong đó có nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nớc đang bị nạn ô nhiễm đe
doạ nghiêm trọng, ảnh hởng đến khả năng sinh trởng của cây và độ an toàn vệ sinh thực
phẩm.
Khí hậu gió mùa mang tính chất chí tuyến ở phía Bắc và tính chất xích đới ở phía
Nam là một khả năng lớn để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, toàn diện.
Tác động của khí hậu đối với nông nghiệp nớc ta trớc hết là việc cung cấp một lợng
bức xạ lớn, nguồn ánh sáng dồi dào, nguồn nhiệt phong phú cho cây trồng phát triển, đảm
bảo cho cây có năng suất cao. Tiếp đó lợng ẩm không khí và lợng ma dồi dào tạo điều kiện
cho cây trồng tái sinh, tăng trởng mạnh mẽ. Điều kiện sinh thái nóng ẩm giúp cho cây
ngắn ngày có thể tăng thêm một đến hai vụ một năm, cây dài ngày có thể khai thác đợc
nhiều đợt, nhiều lứa.
Khí hậu nớc ta phân hoá mạnh theo chiều Bắc-Nam và theo độ cao. Khí hậu miền
Bắc có tính á nhiệt đới, miền Nam có tính á xích đạo, miền Trung có tính chất trung gian,
chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam. Sự phân hoá theo vĩ độ và độ cao cho
phép nớc ta trồng đợc nhiều loại cây, cả cây nhiệt đới, ôn đới, á nhiệt.
Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp cần rất nhiều loại phân bón mà các hộ nông dân ở
nớc ta đều có thể sản xuất các loại nh phân chuồng, phân xanh hoặc phân chế biến từ dầu
thô mà dầu ở nớc ta lại có trữ lợng lớn cha khai thác hết công suất hay chế biến từ quặng
(quặng Apatít ở Lào Cai).
Nớc ta có 3260 km đờng bờ biển, hàng nghìn km2 diện tích mặt hồ, ao, đầm, sông
ngòi để đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. Thủy hải sản nớc ta có nhiều loại phong phú
có giá trị xuất khẩu cao.nh: cá ngừ, cá thu, cá mực, tôm hùm, tôm sú. Cá nớc ngọt thì có cá
basa, cá tra, ngọc trai
Tóm lại, điều kiện tự nhiên của nớc ta là cơ sở khá thuận lợi để chúng ta tăng cờng
phát triển sản xuất nông sản phục vụ nhu cầu cuộc sống và xuất khẩu.
2-Tiềm năng lao động:
Theo số liệu thống kê của cuộc tổng điều tra dân số 1-4-1999 dân số nớc ta là 76,37
triệu ngời. Lực lợng lao động là 46 triệu ngời chiếm xấp xỉ 60% dân số. Có tới gần 80%
dân số sống ở nông thôn, trong đó lực lợng lao động ở nông thôn khoảng 33 triệu ngời

chiếm 72% lao động toàn xã hội. Do tỉ lệ tăng dân số hiện nay giảm xuống còn 1,7%/năm
nên hàng năm có khoảng 1,3 triệu ngời
(1)
tham gia lực lợng lao động trong đó lao động
nông thôn chiếm khoảng 1 triệu ngời. Lao động nông nghiệp Việt Nam nh vậy là quá dồi
dào, có truyền thống cần cù, chịu khó, thông minh, ham học hỏi. Ngời nông dân Việt Nam
chủ yếu là làm nông nghiệp, gắn bó với mảnh đất của mình nên tích lũy đợc nhiều kinh
nghiệm sản xuất nông nghiệp. Song do phần lớn trong số này có trình độ tơng đối thấp nên
khả năng tiếp nhận, ứng dụng các thành tựu khoa học nông nghiệp còn chậm. Tuy nhiên,
từ sau khi đất nớc đổi mới đến nay, đời sống kinh tế khá lên, một bộ phận lớn nông dân
nhất là lao động trẻ đã học qua phổ thông, có đủ trình độ tiếp nhận và tham gia các chơng
trình khuyến nông khá hiệu quả; nghiên cứu các giống mới, môi trờng sinh thái mới để
nuôi trồng và áp dụng ở một số vùng một cách rất thành công.
3-Chính sách phát triển nông ng nghiệp, nông thôn của Nhà nớc:
Một thời kì dài, nền nông nghiệp của nớc ta phát triển rất chậm, cơ cấu không phù
hợp, sản lợng thấp, cung không đáp ứng đợc cầu. Từ sau thời kì đổi mới, nền nông nghiệp
có bớc phát triển vợt bậc. Khoán 10 là một thí dụ sinh động về ảnh hởng của chủ chơng,
chính sách của Nhà nớc đến sự phát triển của nông nghiệp. Khoán 10 cho phép các hộ
nông dân đợc tự do canh tác trên mảnh đất của mình, đợc đầu t thâm canh, ứng dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm đạt sản lợng cao, chất lợng tốt. Các hộ nông dân chỉ phải
đóng thuế theo định mức cho Nhà nớc và trả tiền các dịch vụ mà họ sử dụng. Thực tế, hình
thức khoán này đã khuyến khích đợc nông dân tăng cờng đầu t, tăng năng suất lao động,
làm lợi cho mình và làm lợi cho xã hội.
Sau khoán 10, năm1994 Nhà nớc lại ban hành Luật đất đai, trong đó quy định thời
gian sử dụng ruộng đất kéo tới 30 năm. Nông dân có quyền bán, nhợng lại, thừa kế Điều
này đã làm cho họ gắn bó với mảnh ruộng hơn, yên tâm với sản xuất. Đại hội Đảng khoá
VIII đã đề ra chủ trơng đa đất nớc ta vào thời kỳ CNH-HĐH; trong đó có một vấn đề quan
trọng là CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn. Để thực hiện chiến lợc này, Nhà
nớc đã đề ra một loạt các chính sách nh chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách
khuyến nông, phát triển khoa học công nghệ, chính sách u đãi tín dụng, chính sách hỗ trợ

giá nông sản, quy định giá trần, giá sàn.
Ngoài ra, Nhà nớc còn có các chơng trình và mô hình nh : chơng trình giải quyết
việc làm, chơng trình dân số kế hoạch hoá gia đình, chơng trình tăng cờng y tế và giáo dục
cơ sở, mô hình điện, đờng, trờng, trạm Tất cả các chơng trình này có một ý nghĩa và hiệu
quả tích cực đối với sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn. Năm 1999, tổng vốn đầu
t cho nông nghiệp nông thôn của Nhà nớc tăng gấp rỡi đất với năm 1998
(1)
, chủ yếu tập
trung vào các công trình thuỷ lợi, giao thông, điện và các công trình phúc lợi khác. Công
tác nghiên cứu, tìm tòi các giống cây, con mới cũng đợc đẩy mạnh và đạt nhiều thành tựu.
Công tác chăm sóc bảo vệ thực vật, động vật cũng đợc quan tâm chú ý; đã có Chơng trình
trồng 5 triệu ha rừng với số vốn dự tính là hơn 30.000 tỷ đồng (thực tế năm 1999 chỉ chi
328 tỷ đồng), Chơng trình 135 giao cho xã làm chủ dự án. Sự ra đời của các dịch vụ nông
nghiệp nh cung ứng giống, phân bón, thuốc trừ sâu, vận tải, vật liệu đã góp phần rất lớn
vào sự thành công của nông nghiệp Việt Nam trong mấy năm gần đây.
Đối với ngành thủy sản thì năm năm qua là thời kì phát triển mới của ngành. Với
phơng châm kết hợp giữa khai thác với nuôi trồng và chế biến xuất khẩu đã làm tăng chất
lợng và hiệu quả sản xuất gắn với bảo vệ tài nguyên môi trờng. Thực hiện phơng châm đó,
một mặt Nhà nớc khuyến khích các thành phần kinh tế, khai thác mọi tiềm năng về vốn và
kinh nghiệm; mặt khác tập trung vốn ngân sách, vốn tín dụng u đãi cho ngành thủy sản,
tập trung nguồn vốn ngân sách cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và chế
biến thủy sản; ứng dụng tiến bộ sinh học trong chọn và lai tạo giống đi đôi với công
nghiệp hoá sản xuất thức ăn, mở rộng nuôi các loại thủy sản có giá trị tiêu dùng và xuất
khẩu khác nh nghêu (Trà Vinh, Bến Tre), sò huyết (Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, duyên
hải miền Trung), ba ba, ếch Phát triển công nghiệp chế biến thủy sản theo chiều sâu, gắn
với xuất khẩu.
II-Tình hình sản xuất một số mặt hàng nông thủy sản xuất khẩu trong
mấy năm gần đây:
1-Tình hình sản xuất lúa gạo:
Việt nam là một nớc nông nghiệp, có tập quán canh tác lúa nớc lâu đời. Cây lúa là

sản phẩm chính của nền nông nghiệp. Nó không những góp phần bảo đảm đời sống cho
nhân dân, mà trong thời kỳ hiện nay nó còn góp một phần rất lớn vào giá trị tổng kim
ngạch xuất khẩu thúc đẩy sự nghiệp CNH- HĐH đất nớc. Nhờ có các chính sách đổi mới
mà sản lợng lúa gạo đã tăng hàng năm.
Bảng 1: Tình hình sản xuất lúa gạo một số năm
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Sản lợng
(Triệu tấn)
19,6 21,6 22,8 23,5 24,9 26,4 27,6 29,1 31,4 32,8
% so sánh 100 110 106 103 106 106 104,5 105,4 108 104,5
Nguồn: Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO
về nông nghiệp - Bộ Thơng Mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9
Bảng trên cho thấy, tỉ lệ tăng tổng sản lợng lúa gạo qua các năm tuy không ổn định
(một phần do thiên tai , lũ lụt) nhng tăng khá cao, trung bình 5,9% /năm. Tỉ lệ này cao hơn
tỉ lệ tăng dân số trung bình hàng năm (1,8%) nên đảm bảo đủ cung cấp cho nhu cầu trong
nớc và d thừa để xuất khẩu. Trong 10 năm từ 1991 đến 2000, sản lợng lúa gạo đã tăng đợc
13,2 triệu tấn , một mức tăng kỉ lục từ trớc đến nay.
Sản lợng lúa gạo trong những năm qua tăng lên chủ yếu do hai yếu tố là do tăng
diện tích canh tác / diện tích gieo trồng và năng suất, trong đó quan trọng nhất là tăng năng
suất. Năm 1987, diện tích canh tác lúa là 3,5 triệu ha, diện tích gieo trồng là 5,6 triệu ha.
Năm 1997, số liệu tơng ứng là 4,2 và 6,8
(1)
, tăng 20% và 21,4%. Nhìn chung, từ năm 1997
đến nay diện tích canh tác và diện tích gieo trồng ổn định vì khả năng mở rộng diện tích
canh tác là rất khó. Năm 1987, năng suất lúa bình quân là 27 tạ/ha, năm 1997 là 40 tạ/ha
tăng 48%. Trong đó, năng suất lúa ở các vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu nh đồng bằng sông
Hồng, đồng bằng sông Cửu Long rất cao, đạt trung bình trên 60 tạ/ha. Dự kiến, trong
những năm tới khi dân số của nớc ta ngày một tăng trong khi diện tích canh tác lúa có hạn
thì tăng năng suất là việc rất quan trọng, đóng vai trò chủ đạo giữ vững an ninh lơng thực
và góp phần xuất khẩu. Kế hoạch đến năm 2020, năng suất lúa bình quân phải đạt 59,4

tạ/ha.
Do sản lợng lúa gạo liên tục tăng cao hơn tỉ lệ tăng dân số nên lơng thực bình quân
đầu ngời cũng liên tục tăng.
Bảng 2: Bình quân lơng thực đầu ngời
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Lơng thực / 325 372 349 359 361 372 387 398 408 411 420
ngời (kg)
% so sánh 100 115 108 111 112 115 120 123 126 127 130
Nguồn: Xuất khẩu gạo ở Việt Nam - 10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc.
Tạp chí Cộng sản số 7 (4/1999) trang 45
Bảng trên cho ta thấy, bình quân lơng thực đầu ngời của nớc ta tăng khá đều đặn,
duy chỉ có năm 1991 là đột biến. Dự kiến đến năm 2020 dân số nớc ta là 105 triệu ngời,
sản lợng lơng thực quy thóc đạt 52,5 triệu tấn thì bình quân lơng thực sẽ đật 500 kg/ ngời
(1)
.
Ngoài sản lợng, trong sản xuất lúa gạo, chúng ta cũng đặc biệt quan tâm đến chất
lợng; có nh vậy mới đảm bảo đủ tiêu chuẩn xuất khẩu và cạnh tranh đợc với các cờng quốc
xuất khẩu khác. Để đáp ứng yêu cầu tăng sản lợng và tăng chất lợng, những năm qua các
nhà khoa học đã không ngừng nghiên cứu, cải tiến các giống lúa, nhằm tạo ra những giống
có hiệu quả kinh tế cao nhất. Các giống đã đợc đa vào gieo trồng có thể kể đến nh : IR64,
OM1490, OM2031, VND95-20, MTL250, IR62032, P4, P6 Ngoài giống, các biện pháp
kĩ thuật khác cũng không ngừng đợc cải tiến nh kĩ thuật gieo trồng, quản lí dịch bệnh, bón
phân theo bảng màu lá lúa, tới tiêu theo khoa học, ứng dụng các công nghệ sau thu hoạch
nh: sơ chế, bảo quản, dự trữ. Công nghệ đánh bóng, xay xát gạo xuất khẩu cũng luôn đợc
đổi mới về máy móc thiết bị. Nhờ đó, chất lợng gạo Việt Nam đã đợc cải thiện đáng kể, có
uy tín trên thị trờng xuất khẩu thế giới.
2-Tình hình sản xuất cà phê:
Cà phê là cây lấy hạt để chế biến làm đồ uống. Từ năm 1930, cà phê đã đợc du nhập
vào nớc ta và tỏ ra thích hợp với sinh thái từ vĩ tuyến 20 độ Bắc trở vào, đặc biệt là thích
hợp với vùng đất bazan ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Cà phê ở nớc ta có 3 giống là cà

phê vối (coffee Robusta), cà phê mít (coffee Excelsa), cà phê chè (coffee Arabica). Trong
3 giống chỉ có cà phê vối là thích hợp nhất (chiếm 95%) với điều kiện sinh thái. Tuy nhiên,
do xuất xứ ở các vùng núi cao, nên khi đa xuống các thung lũng có biên độ nhiệt lớn cà
phê vối hay có bệnh rỉ sắt.
Sau giải phóng Miền Nam 1975, chúng ta chỉ có 11.400 ha, sản lợng 6800 tấn nhân.
Đến năm 1980, diện tích cà phê tăng lên 22.500 ha nhng sản lợng chỉ đạt 8400 tấn (do 1/2
diện tích mới trồng). Năm 1994, diện tích cà phê là 123.000 ha, tăng so với năm 1980 là
5,5 lần; sản lợng là 166.400tấn, tăng 19,8 lần. Năm 1997, diện tích cà phê là 270.000 ha,
tăng so với năm 1994 là 2,19 lần; sản lợng là 400.300 tấn, tăng so với năm 1994 là 2,4 lần.
Năm 1998, diện tích cà phê là 310.000 ha, tăng 1,14 lần so với năm 1997; sản lợng là
430.000 tấn, tăng 1,07 lần so với năm 1997(Bảng 3).
Bảng 3: Diện tích và sản lợng cà phê một số năm
Năm 19
75
19
80
19
94
1997 1998
Diện tích
(1000ha)
11.
4
22,
5
12
3
270 310
Sản lợng
(1000tấn)

6,8 8,4 16
6,4
400,
3
430
Nguồn: Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định
WTO về nông nghiệp - Bộ Thơng mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9,10
Ta thấy, tốc độ tăng diện tích và tăng sản lợng của cà phê là cực kì cao. Vì thị trờng
tiêu thụ trong nớc không lớn (khoảng 5%/năm) nên phần lớn cà phê sản xuất ra là để xuất
khẩu. Năng suất cà phê của nớc ta thuộc loại cao nhất nhì thế giới. Năm 1991 đạt 800
kg/ha trong khi năng suất trung bình của thế giới chỉ đạt 469 kg/ha. Năm 1994 chỉ số tơng
ứng là 1353 kg/ha và 492 kg/ha. Năm 1997 chỉ số tơng ứng là 1666 kg/ha và 560 kg/ha.
Nh vậy, trong 7 năm năng suất cà phê tăng lên gấp đôi.
Tuy năng suất cà phê của ta rất cao nhng do kĩ thuật canh tác và công nghệ chế biến
còn lạc hậu nên chất lợng cà phê xuất khẩu còn cha cao mặc dù chỉ là xuất thô tức là xuất
khẩu cà phê nhân.
Cà phê nớc ta đợc trồng chủ yếu ở Tây Nguyên. Có tới 75% diện tích cà phê tập
trung ở Đắc Lắc. Số còn lại ở Sông Bé, Đồng Nai và Lâm Đồng (mỗi nơi chiếm 6% diện
tích) và 7% diện tích rải rác ở các tỉnh khác
(1)
. Hiện nay, chúng ta còn nhiều khả năng mở
rộng diện tích canh tác và nâng cao năng suất cây cà phê.
3-Tình hình sản xuất cao su:
Cao su là một loại cây đợc trồng lấy mủ để sản xuất ra các loại sản phẩm có chất cao
su. Ở nớc ta, loại cây này đợc trồng chủ yếu ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Diện tích
trồng cao su năm 1975 mới chỉ có 75.200 ha thì năm 1998 con số này đã là 363.400 ha,
tăng 4,83 lần so với năm 1975
(2)
.
Từ năm 1990 đến nay, các công ty cao su đã mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng

công nghệ hiện đại, cơ khí hoá cao, tiết kiệm nhiên liệu và năng lợng, giảm cờng độ lao
động, bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh môi trờng Nếu trớc năm 1989, cả nớc mới chỉ
có 15 nhà máy tại 10 công ty,thì đến cuối năm 1999 đã có 30 nhà máy tại 19 công ty với
tổng công suất thiết kế đạt tới 225.000 tấn/năm
(3)
.
Diện tích và sản lợng cao su từ năm 1990 tăng lên nhanh chóng.
Bảng 4: Diện tích và sản lợng cao su một số năm
Năm 19
90
19
93
19
95
19
97
19
98
Diện tích
(1000ha)
22
1,7
24
2,5
27
8,4
32
9,4
36
3,4

Sản lợng
(1000tấn)
57,
9
96,
9
12
2,7
18
0,7
19
0
Năng
suất(kg/ha)
26
1
39
9,5
44
0,7
54
8,5
52
2,8
Nguồn Báo cáo nghiên cứu:Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam.Tác động của Hiệp định WTO về
nông nghiệp -Bộ Thơng mại.(12/1999)-Dự án VIE 95/024/A/01/99,trang 9,10,14
Qua bảng trên, ta thấy diện tích và sản lợng cao su tăng nhanh qua các năm. Năm
1990, diện tích trồng cao su là 221.700 ha với sản lợng đạt ở mức khiêm tốn 57,9 ngàn tấn.
Năm 1993, diện tích là 242,5 ngàn ha, tăng so năm 1990 là 1,09 lần; sản lợng tăng lên rõ
rệt là 96,9 ngàn ha, tăng 1,67 lần so với năm 1990. Đến năm 1995, diện tích và sản lợng là

278,4 ngàn ha và 122,7 ngàn tấn, tăng so với năm 1993 tơng ứng là 1,15 lần và 1,27 lần.
Năm 1997, diện tích và sản lợng tăng tơng ứng lvới năm 1995 là 1,18 lần và 1,47 lần; năm
1998 là 1,10 lần và 1,05 lần. Ta thấy, năm 1997, sản lợng cao su tăng một cách đột biến so
với các năm trớc. Sản lợng cao su tăng trung bình khoảng 6,27%/năm, năng suất đạt trung
bình qua các năm là 435 kg/ha. Từ năm 1990 đến năm 1999 sản lợng cao su đã tăng lên
nhanh chóng đạt1050 ngàn tấn
(1)
. Đây là thành tựu đáng tự hào trong thời gian qua đối với
ngành công nghiệp chế biến cao su Việt Nam.
4- Tình hình sản xuất thủy sản:
Thủy sản là một ngành rất có lợi thế ở Việt Nam vì chúng ta có đờng bờ biển dài,
dọc theo chiều dài của đất nớc, nguồn thủy sản lại rất phong phú và đa dạng nên rất thuận
lợi cho việc khai thác, nuôi trồng và vận chuyển.
Trong 5 năm 1991-1995, tổng sản lợng thủy sản toàn ngành đạt 6,1 triệu tấn, tăng
32,4% so với thời kì 1986-1990; riêng năm 1995 đạt 1,58 triệu tấn so với 969 ngàn tấn
năm 1991. Sản lợng thủy sản xuất khẩu trong 5 năm đó đạt 1,35 triệu tấn, doanh thu
1944,3 triệu USD, tăng 43,7% so với 5 năm trớc đó; riêng năm 1995 xuất khẩu đạt 550
triệu USD
(1)
.Năm 1995 so với năm 1991, sản lợng thủy sản đánh bắt tăng 47,0%; sản lợng
nuôi trồng là 402.000 tấn, tăng gấp 2,39 lần năm 1991(168.000 tấn)
(2)
. Sản lợng thủy sản
năm 1998 đạt 1,7 triệu tấn, tăng khoảng 6% so với năm 1997. Sản lợng thủy sản nuôi
trồng năm 1998 đạt 450 ngàn tấn, so với 168 ngàn tấn năm 1991 và 417 ngàn tấn năm
1997
(3)
.
Bảng 5: Sản lợng nuôi trồng thủy sản một số năm
Năm 1

991
1
995
1
997
1
998
1
999
2
000
Sản lợng
(1000tấn)
1
68
4
02
4
17
4
50
% so sánh
liên hoàn
1
00
2
39
1
03,7
1

08
Nguồn: Thủy sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới (1980-1998)-Nguyễn Sinh Cúc.
Tạp chí Cộng sản số 20 (10/1998) trang 45
Năm 1998, xuất khẩu thủy sản đạt 850 triệu USD, tăng 5% so với năm 1997
(4)
. Năm
2000, ngành thủy sản đã đóng góp 25% vào tổng kim ngạch, xuất khẩu đạt 1,4 tỉ USD, gấp
2,5 lần năm 1995
(5)
. Đây là một thắng lợi to lớn của ngành thủy sản do có sự chuyển đổi
cơ cấu sản xuất cũng nh cơ cấu đầu t; cơ cấu mặt hàng và cơ sở chế biến thủy sản xuất
khẩu cũng chuyển biến theo hớng đa dạng hoá gắn với yêu cầu của thị truờng; nhiều cơ sở
chế biến thủy sản xuất khẩu đợc xây dựng mới ở các vùng sản xuất nguyên liệu nh Cà
Mau, An Giang thu hút hàng chục nghìn lao động nông nghiệp, góp phần phân công lại lao
động ở nông thôn. Nhà nớc khuyến khích các thành phần kinh tế khai thác mọi tiềm năng
về vốn và kinh nghiệm, mặt khác tập trung vốn ngân sách, vốn tín dụng u đãi cho ngành
thủy sản.
CHƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG
NÔNG THỦY SẢN XUẤT KHẨU
I-Các thị trờng chính và tiềm năng:
1-Các thị trờng chính:
Về thị trờng xuất khẩu, hiện nay Việt Nam đang xuất khẩu gạo tới trên 50 nớc và
lãnh thổ
(1)
ở tất cả các khu vực nh châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mĩ. Trong đó, thị trờng
châu Á, châu Phi chiếm 70-90%
(2)
lợng gạo xuất khẩu hàng năm. Số còn lại là thị trờng
châu Âu, châu Mĩ. Các nớc nhập khẩu gạo chính của Việt Nam ở châu Á có thể kể đến là

Indônêxia, Philippin, Singapore, các nớc vùng Trung Đông. Ở châu Phi có Angiêri,
Nigiêria, Tuynidi, Cônggô, Êtiôpia, Nam Phi, Libi. Ở châu Âu thì chủ yếu là Nga và Đông
Âu. Ở châu Mỉ thì chủ yếu là khu vực Mỉ latinh. Thị trờng Châu Á, Châu Phi rất dễ tính,
không đòi hỏi chất lợng thật cao, chỉ cần giá rẻ nên rất phù hợp với gạo Việt Nam.
Hai năm gần đây và các năm tới, thị trờng lúa gạo thế giới cũng nh thị trờng của
Việt Nam gặp nhiều biến động theo cả 2 chiều hớng tích cực và tiêu cực. Năm 1999 và
năm 2000, lũ lụt, hạn hán xảy ra ở nhiều nơi khiến cho các nớc vốn xuất khẩu gạo bị giảm
sản lợng mạnh, khả năng xuất khẩu hạn chế; còn các nớc vốn đã nhập khẩu gạo thì lại
càng phải nhập nhiều hơn. Điển hình là châu Phi, Trung Đông và Mĩ latinh vừa qua gặp
hạn hán nặng và tình hình chính trị rất bất ổn nên trong những năm tới họ sẽ phải nhập
thêm nhiều. Ngợc lại, những nớc trớc đây vẫn nhập khẩu lớn gạo của Việt Nam ở châu Á
là Indônexia, Philippin, Bănglađét sẽ giảm nhu cầu trong những năm tới. Theo cơ quan
hậu cần quốc gia Indônexia, một vài năm tới nớc này chỉ nhập khoảng 1,8-2 triệu tấn gạo
thay vì 3-3,5 triệu tấn nh trớc. Còn Philippin cũng chỉ nhập 0,5-0,8 triệu tấn, giảm 0,5-0,7
triệu tấn
(1)
. Sở dĩ nh vậy là vì có sự cạnh tranh giữa gạo của Thái Lan, Trung Quốc và gần
đây là Campuchia với Việt Nam về chất lợng, giá cả và thủ tục. Đây là một nguy cơ rất lớn
đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Nhìn chung, trên thị trờng chính của chúng ta, khả năng phát triển là rất có hạn bởi
vì nh trên đã nói một số nớc nhập khẩu lớn đã dần đi vào ổn định kinh tế, chính trị, do vậy
nhu cầu nhập khẩu gạo của họ giảm. Ở châu Phi, Trung Đông và Mĩ latinh nhu cầu nhập
khẩu có tăng, song thị trờng ở đây còn nhỏ bé, hơn nữa chúng ta lại có nhiều đối thủ cạnh
tranh, do vậy tỉ trọng gạo xuất sang khu vực này của chúng ta sẽ giảm đi và thay vào đó tỉ
trọng xuất sang một số thị trờng tiềm năng mới mở sẽ ngày một tăng lên trong tổng kim
ngạch xuất khẩu gạo. Mục tiêu của chúng ta là cố gắng giữ vững thị trờng truyền thống,
tăng cờng, xâm nhập và mở rộng các thị trờng mới.
Đối với mặt hàng cà phê, hiện nay, chúng ta đã xuất khẩu tới hơn 40 nớc và lãnh thổ,
trong đó chủ yếu xuất sang EU, Bắc Mĩ, Nhật, Singapore. Chủng loại cà phê xuất khẩu của
chúng ta rất nghèo nàn, chủ yếu là cà phê hạt; cho nên chúng ta thờng xuất sang các nớc

phát triển có nền công nghiệp chế biến, để họ sản xuất ra cà phê tinh chế. Thị trờng cà phê
là một thị trờng cực kì bất ổn, luôn có những biến động rất lớn, gây khó khăn cho các nớc
sản xuất và xuất khẩu cà phê nhân. Có năm nh niên vụ 1998-1999, giá cà phê lên rất cao
khoảng 900-1200 USD/tấn; nhng năm 1999-2000 giá sụt đi hơn một nửa chỉ còn khoảng
400-550 USD/tấn. Điều đó có nghĩa là, có năm các nớc nhập khẩu cà phê nhân nhiều, có
năm họ nhập ít.
Trong những năm tới, thị trờng chính của chúng ta vẫn là EU, Bắc Mĩ, Nhật, và
Singapore. Cà phê của chúng ta chất lợng tơng đối tốt mà giá lại rẻ nên vẫn có sức cạnh
tranh trên các thị trờng này.
Đối với mặt hàng cao su, thị trờng xuất khẩu chủ yếu của chúng ta trớc đây là Liên
Xô, khoảng 80% sản lợng cao su của Việt Nam. Song những năm gần đây, thị trờng này
không những không đợc mở rộng mà còn bị thu hẹp. Hiện nay, ta chủ yếu xuất khẩu cao
su sang Trung Quốc, chiếm 70% sản lợng. Nhng do xuất qua tiểu ngạch nên thờng xuyên
bị ép giá, nhu cầu mặt hàng không ổn định, tình trạng ứ đọng sản phẩm thờng xuyên xảy
ra; xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ chỉ đạt 10% sản lợng
(1)
; còn tiêu thụ trong nớc thì thật ít
ỏi chỉ khoảng 20%.
Năm 2000, ta đã khai thác 213.000 tấn và xuất khẩu sang Nga 400 tấn với giá là 670
USD/tấn tăng 30-40 USD/tấn so với năm trớc
(2)
.
Chất lợng cao su của chúng ta tốt, nhng không phù hợp với nhu cầu của thế giới nên
chỉ xuất đợc sang Trung Quốc là chủ yếu.
Đối với mặt hàng thủy sản, thị trờng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là EU chiếm
khoảng 60%. Đây là bạn hàng xuất khẩu thủy sản thờng xuyên của Việt Nam từ nhiều năm
qua. Khu vực này tuy dân số không lớn nhng số lợng hàng thủy sản tiêu thụ nhiều. Tính
đến năm 1998, cả nớc đã có 27 doanh nghiệp chế biến thủy sản đợc xếp vào danh sách các
đơn vị đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm sang thị trờng châu Âu.
Ngoài ra, ta còn xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản, chiếm khoảng 20% sản lợng

xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một thị trờng rất khó tính, đòi hỏi chất lợng sản phẩm cao.
Nhng là thị trờng xuất khẩu chủ yếu của ta từ lâu. Nhật Bản cũng là một cờng quốc về
đánh bắt thủy hải sản, với các phơng tiện kỹ thuật rất hiện đại nhng giá thành lại cao hơn
so với nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam, hơn nữa chủng loại thủy hải sản của ta lại rất đa
dạng, phong phú.
Ngoài EU và Nhật ra, Singapore cũng là thị trờng xuất khẩu thủy sản chủ yếu của ta.
2-Thị trờng tiềm năng:
Ngoài thị trờng chính ở châu Á, châu Phi, hiện nay gạo Việt Nam đã và đang xuất
sang các thị trờng mới nh EU, Bắc Mĩ, Nhật, Hàn Quốc. Đây là các thị trờng rất khó tính
nhng có tiềm năng lớn vì những nớc này có nền công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát
triển mạnh mẽ, nông nghiệp ngày càng không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Sở dĩ nh vậy vì phần lớn diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị lấn chiếm để sử dụng vào
việc xây dựng các khu công nghiệp, trung tâm thơng mại, khu vui chơi giải trí và khu dân
c. Cùng với quá trình đó là việc một bộ phận dân c tách ra khỏi lao động nông nghiệp để
tham gia vào lực lợng lao động phi nông nghiệp. Do vậy, sản lợng tăng thêm do áp dụng
khoa học kĩ thuật không bù đợc sản lợng mất đi do thiếu đất canh tác và thiếu lao động
nông nghiệp.
Thêm vào đó, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với EU, Nhật, Hàn Quốc đặc
biệt là Mĩ ngày càng có bớc phát triển mới. Riêng với EU và Nhật, Việt Nam đã đợc hởng
quy chế tối huệ quốc (MFN), do vậy giá gạo nhập vào các nớc này sẽ giảm đi. Mặt khác,
chất lợng gạo của chúng ta không ngừng đợc cải thiện do thành quả của việc ứng dụng
khoa học vào nông nghiệp, do đó ngày càng đợc các khách hàng tin cậy và trụ vững đợc
trên thị trờng này.
Đối với cà phê, thị trờng tiềm năng có thể kể đến là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái
Lan, Nga và Đông Âu. Những nớc này hàng năm vẫn nhập cà phê của ta, song số lợng rất
khiêm tốn, cha tơng xứng với tiềm năng vốn có của ta và bạn. Do vậy, trong những năm
tới, mục tiêu của chúng ta là đẩy mạnh cạnh tranh nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu
sang các thị trờng này, khẳng định uy tín và chất lợng của cà phê Việt Nam. Tuy nhiên ,
chúng ta cũng cần đề phòng các biến động có thể xảy ra vì thị trờng cà phê thờng không
ổn định.

Đối với cao su, thị trờng nội địa tiêu thụ 20%-30% sản lợng cao su. Tuy nhiên, thị
trờng này có tiềm năng lớn vì nớc ta là nớc đang phát triển nên có nhu cầu khối lợng cao
su thiên nhiên lớn trong tơng lai. Những ngành tiêu thụ cao su lớn nhất là ngành công
nghiệp ô tô, xe máy và các ngành công nghiệp hỗn hợp sản xuất các đồ cao su gia dụng và
các sản phẩm cao su khác nh tấm trải sàn, găng tay y tế, Sản lợng tiêu thụ nội địa dự kiến
tăng khoảng 35%-40% trong những năm đầu thế kỷ 21
(1).
Ngoài ra, ta còn xuất khẩu cao su
sang châu Âu và Mỹ, hai thị trờng này chiếm khoảng 10% doanh số xuất khẩu. Trong tơng
lai, Việt Nam có thể sẽ thu đợc những lợi thế lớn vì Trung Quốc là nớc tiêu thụ cao su
thiên nhiên lớn nhất. Mức tiêu thụ cao su của Trung Quốc tăng trên 7,5%/năm. Đối với
thủy sản, thị trờng tiềm năng của ta trong tơng lai sẽ là Bắc Mỹ, Đông Âu và Trung Đông.
Từ sau khi kí Hiệp định Thơng mại Việt-Mỹ, trao đổi buôn bán giữa hai nớc tăng
mạnh. Dự báo đến năm 2005 thị trờng này sẽ chiếm khoảng trên 20% sản lợng xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam
(2)
.
Đối với Đông Âu thì từ năm 1990 trở về trớc là bạn hàng truyền thống của Việt
Nam. Sau cuộc khủng hoảng về kinh tế, khu vực này trở nên kiệt quệ, nhng những năm
gần đây, nền kinh tế ở khu vực này đã đợc khôi phục và có bớc phát triển đáng kể, chất
lợng cuộc sống đợc cải thiện, cùng với nó là nhu cầu về thủy sản cũng tăng lên. Trong
tơng lai đây sẽ là thị trờng xuất khẩu lớn của Việt Nam.
Đối với Trung Đông, thì đây là một khu vực giầu có trên thế giới, nhng lại hay có
những biến động về chính trị, nền kinh tế bị ảnh hởng mà nguồn thủy hải sản lại ít ỏi nên
đây sẽ là thị trờng xuất khẩu thủy sản lớn của ta trong những năm tới.
II-Những thành tựu và khó khăn trong quá trình xuất khẩu:
1-Thành tựu:
a-Gạo:
Năm 1989, nớc ta chính thức tham gia vào thị trờng xuất khẩu lúa gạo thế giới với
số lợng xuất khẩu là 1,42 triệu tấn, thu về 290 triệu USD, giá bình quân 204 USD/tấn. Tuy

sản lợng gạo xuất khẩu cha nhiều, giá còn thấp, chất lợng gạo cha phù hợp với thị hiếu của
thị trờng thế giới nhng đối với nớc ta, kết quả đó đánh dấu sự sang trang của sản xuất lúa
gạo từ tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá gắn liền với xuất khẩu. Từ năm 1989 đến nay,
gạo nớc ta luôn có mặt trên thị trờng thế giới với số lợng và chất lợng ngày càng cao (duy
có năm 2000 do thị trờng biến động nên xuất khẩu bị giảm).
Bảng 6 - Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
Năm 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00
Số lợng (triệu tấn)
1,42 1,63 1,1 2,0 1,72 2,0 2,1 3,1 3,7 3,8 4,6 3,5
Giá trị (tỷ USD) 0,29 0,31 0,24 0,42 0,37
0,43
0,53
0,87
0,9 1,1
1,03
0,7
Giá bình quân
(USD)
204 188 227 215 210 214 258 285 242 269 228 200
Nguồn; Xuất khẩu gạo ở Việt Nam - 10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc
Tạp chí Cộng sản - số 7 (4/1999) trang 47
Qua bảng trên, ta thấy mặc dù số lợng gạo xuất khẩu một số năm có biến động song
xu hớng chính vẫn là tăng lên. Trong 12 năm, nớc ta đã cung cấp cho thị trờng thế giới
hơn 30,3 triệu tấn gạo, bình quân 2,53 triệu tấn/năm; thu về 7 tỉ 158 triệu USD, bình quân
596,5 triệu USD/năm, một con số rất đáng tự hào mà trớc đổi mới chỉ là mơ ớc. Xuất khẩu
gạo hàng năm chiếm tỉ trọng trung bình khoảng 11% trong tổng kim ngạch xuất khẩu,
3,3% GDP. Từ năm 1997 đến nay, Việt Nam đã vợt Mĩ để đứng thứ 2 sau Thái Lan về
xuất khẩu gạo. Điểm nổi bật của nớc ta trong xuất khẩu gạo hơn 10 năm qua là tính ổn
định cao so với các đối thủ cạnh tranh. Theo đánh giá của FAO (Tổ chức lơng thực và
nông nghiệp thế giới), ở châu Á ngoài Thái Lan còn có 3 nớc khác có khả năng cạnh tranh

với Việt Nam trong xuất khẩu gạo là Ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc. Song12 năm qua,
sản lợng gạo xuất khẩu của 3 nớc này đều không ổn định: Ấn Độ có năm xuất khẩu 5 triệu
tấn gạo (1995) vợt lên đứng vị trí thứ 2 sau Thái Lan, nhng các năm khác lại rất thấp, phổ
biến dới 1 triệu tấn (1993 là 767.000 tấn,1994 là 890.000 tấn, năm 1997là dới 2 triệu tấn).
Pakistan năm cao nhất là 1,8 triệu tấn (1995), các năm khác dới 1 triệu tấn. Trung Quốc
năm cao nhất là 1,6 triệu tấn, các năm khác cũng phổ biến ở mức 1 triệu tấn
(1)
.
Bên cạnh sự tăng tiến về số lợng, sự tiến bộ về chủng loại và chất lợng là thực tế và
rất đáng tự hào. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo, tỉ lệ gạo chất lợng trung bình, tỉ lệ
tấm cao trên 25% chiếm 80-90% nên sức cạnh tranh kém, giá cả thấp (Bảng 6). Từ năm
1995 trở lại đây, chất lợng và chủng loại đợc cải thiện nhiều. Gạo có chất lợng cao (hạt dài,
ít bạc bụng), tỉ lệ tấm thấp (từ 5-10%) chiếm khoảng 70% lợng gạo xuất khẩu và có xu
hớng tăng lên; còn gạo có chất lợng trung bình (hạt tròn, bạc bụng), tỉ lệ tấm cao (trên
10%) chiếm tỉ trọng nhỏ và có xu hớng giảm dần. Giá gạo Việt Nam cũng tăng dần cùng
với xu hớng tăng của chất lợng gạo và quan hệ cung cầu của thị trờng lúa gạo thế giới. Giá
gạo xuất khẩu bình quân 4 năm (1995-1998) là 269USD/tấn, tăng 61 USD/tấn so với giá
bình quân 6 năm về trớc đó (1989-1994). Điều đáng chú ý là khoảng cách giữa giá gạo
Việt Nam và Thái Lan đã bị thu hẹp dần từ 40-55 USD/tấn những năm 1989-1994 xuống
còn 20-25 USD/tấn những năm 1995-2000
(2)
Việc Việt Nam từ một nớc nhập khẩu lơng thực trở thành một cờng quốc xuất khẩu
gạo có một ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế nớc ta. Xét về giá trị ngoại tệ mạnh thu
đựơc, xuất khẩu gạo đứng thứ hai sau dầu thô, song xét về tính chất sản phẩm thì gạo
có nhiều điểm trội hơn dầu thô.
Thứ nhất, gạo xuất khẩu là phần để dành ra đợc sau khi đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nớc và an ninh lơng thực; còn dầu thô phải xuất toàn bộ.
Thứ hai, gạo xuất khẩu là sản phẩm 100% Việt Nam, còn dầu thô là sản phẩm liên
doanh.
Thứ ba, dầu là sản phẩm khai thác từ tài nguyên thiên nhiên, càng khai thác càng cạn

kiệt; trong khi gạo là sản phẩm của trồng trọt, càng xuất khẩu càng kích thích thâm canh,
tăng vụ nâng cao năng suất, chất lợng cây trồng.
Thứ t, hiệu quả kinh tế-xã hội-quốc phòng-an ninh và môi trờng của sản xuất và xuất
khẩu gạo cao hơn nhiều so với bất kì mặt hàng xuất khẩu nào của nớc ta.
b-Cà phê:
Hiện nay, cà phê đã trở thành mặt hàng mũi nhọn trong chiến lợc hàng nông sản
xuất khẩu của Việt Nam. Cà phê đứng trong số mời mặt hàng (Top ten) có kim ngạch xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam (xấp xỉ 500-1000 triệu USD).
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê một số năm
Chỉ tiêu Đơn vị 1991 1993 1995 1997 1998 2000
Số lợng 1000 tấn 89,6 122,7 248,1 389 382 686
Giá trị Triệu USD 74 111 305 490 594 378
Giá / tấn USD 825,9 904,6 1230 1259,6 1555 550
Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam
- Bộ Thơng mại trang 13,14
Qua bảng trên, ta thấy số lợng cà phê xuất khẩu liên tục tăng qua các năm: năm
1998 số lợng xuất khẩu đạt 382.000 tấn nhiều hơn năm 1991 là 292,4 tấn, tỉ lệ tăng là
326,34% tức là gần gấp 3,3 lần; tơng ứng với sự gia tăng số lợng là sự gia tăng về giá trị
kim ngạch xuất khẩu. Năm 1998, giá trị xuất khẩu đạt 594 triệu USD, tăng so với năm
1991 là 520 triệu USD, gấp hơn 8 lần. Với kết quả trên, Việt Nam đã trở thành nớc xuất
khẩu cà phê lớn thứ 3 trên thế giới sau Braxin và Côlômbia.
Sản xuất cà phê phát triển đã tạo ra sự thay đổi to lớn trong cơ cấu kinh tế và đời
sống của đồng bào vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Nếu nh trớc đây khi cây cà phê
cha phát triển thì đồng bào ở đây chủ yếu độc canh cây lúa trên mảnh đất không thích hợp
cho việc trồng lúa do vậy đời sống rất thiéu thốn, bấp bênh. Hiện nay, nhờ chính sách giao
đất của nhà nớc mà nhiều hộ đã đi vào chuyên canh cây cà phê và đạt hiệu quả kinh tế rất
cao, đời sống khá giả hẳn lên. Các trang trại cà phê cũng là nơi thu hút đợc nhiều lao động,
giải quyết công ăn việc làm cho ngời địa phơng và ngời ở vùng khác đến. Do kim ngạch
xuất khẩu cà phê mấy năm gần đây tăng liên tục (bình quân 20%/năm), có năm đạt gần
600 triệu USD mà cà phê đã đợc chính phủ ta xếp vào 3 nhóm hàng mũi nhọn (cà phê,

thuỷ sản, điện tử) cần đợc quan tâm chú ý
(1)
.
c-Cao su:
Nhờ tích cực đổi mới kỹ thuật, công nghệ chế biến, nâng cao tay nghề công nhân
mà việc chuyển hớng sang sản xuất cao su định chuẩn (SVR) đã thành công. Nếu năm
1987, các công ty cao su đã sản xuất đợc 75,9% mủ khối cao su định chuẩn; 3,5% mủ ly
tâm (mủ kem); 13,5% mủ tờ (ICR,RSS); 2,9% mủ creve và 4,4% cao su tinh sét thì đến
năm 1996 cơ cấu này dã có nhiều thay đổi, tỷ lệ tơng ứng là 94,4%; 3,0%; 1,4% và 0,2%;
năm 1999là 94,4%; 2,4%; 0,9% và 0,5%
(2)
. Tính chung giai đoạn 1976-1980, sản lợng cao
su chế biến đạt 190.000 tấn, giai đoạn 1981-1990 đạt 488.000 tấn; giai đoạn 1990-1999
sản lợng cao su đã tăng lên nhanh chóng đạt 1050 ngàn tấn, nh vậy là đã tăng gấp 2,3 lần
so với 10 năm trớc và gấp 5,5 lần so với 5 năm sau giải phóng
(3)
.
Những năm gần đây, sản lợng cao su đã tăng đáng kể với tốc độ 6,27% mỗi năm.
Chất lợng cao su của chúng ta rất tốt đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ngành cao su đã đáp ứng đầy
đủ nhu cầu tiêu dùng trong nớc và còn d thừa để xuất khẩu góp phần làm tăng tổng giá trị
xuất khẩu của Việt Nam.
d-Thủy sản:
Thực hiện phơng châm đánh bắt xa bờ, hàng ngàn tàu đánh cá thuộc đủ các thành
phần kinh tế đã tấp nập ra khơi đến các ng trờng mới có nhiều tôm cá hơn. Sáu tháng đầu
năm 1998, sản lợng thủy sản đạt trên 800.000 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trớc.
Năm 1990, xuất khẩu đạt 205 triệu USD, năm 1997 đạt 776 triệu USD
(1)
. Năm 1998, xuất
khẩu đạt 850 triệu USD, tăng 5% so với năm 1997
(2)

.
Năm 2000 đạt 1,4 tỷ USD, gấp 2,5 lần năm 1995
(3)
. Hàng thủy sản của Việt Nam
hiện nay đã đợc công nhận nằm trong danh sách nhóm I các nớc xuất khẩu thủy san vào
thị trờng EU sau khi đã vợt qua cuộc kiểm tra chất lợng của cơ quan thực phẩm Mỹ.
Sự phát triển và tăng trởng của ngành thủy sản trong những năm đổi mới không chỉ
tạo ra thế và lực mới cho ngành mà còn góp phần quan trọng trong việc phân công lại lao
động xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nớc. Từ đó
khẳng định vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế nớc ta một cách rõ ràng hơn.
2-Khó khăn-thách thức:
a-Gạo:
Trên thị trờng lúa gạo thế giới hiện nay, mặc dù nớc ta xếp thứ 2 về số lợng gạo xuất
khẩu sau Thái Lan; song trên thực tế ngoài Thái Lan ra, chúng ta còn vấp phải sự cạnh
tranh từ rất nhiều nớc nh: Mĩ, Ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc và gần đây là Campuchia.
Những nớc này đã làm ảnh hởng đến xuất khẩu gạo của Việt Nam. So với Thái Lan, sản
lợng gạo của ta xấp xỉ với sản lợng gạo của họ, song do dân số đông hơn nên xuất khẩu
gạo của ta vẫn cha bằng đợc (Thái Lan xuất khoảng 6 triệu tấn/năm) mặc dầu năng suất
lúa của ta cao hơn hẳn của Thái Lan.
Về chất lợng, nói chung chất lợng gạo của Việt Nam còn thấp thể hiện ở chỗ độ trắng
không đều, tỉ lệ tấm, tỉ lệ bạc bụng còn cao; có hạt vàng, độ bóng còn kém. Ngoài ra, còn một
số yếu tố thơng mại khác ảnh hởng đến chất lợng gạo xuất khẩu nh mẫu mã bao bì đóng gói.
Về giá, giá gạo của ta luôn thấp hơn giá gạo của Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan kể cả
Trung Quốc.
Bảng 8:So sánh giá gạo cùng phẩm cấp giữa Việt Nam và Thái Lan
Thời gian Loại gạo
Giá gạo Việt Nam USD
/ tấn
Giá gạo Thái Lan
USD/tấn

1995
100%B(=5% tấm)
15% tấm
35% tấm
Giá bình quân FOB
262
352
328
306
1996
100%B(=5% tấm)
15% tấm
35% tấm
Giá bình quân FOB
284
382
364
330
1997
100%B(=5% tấm)
15% tấm
35% tấm
249,5
243
222
262
240
211,7
Nguồn: Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của nớc ta
Nguyễn Đình Long . Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 54

Mặc dù, mấy năm gần đây khoảng cách về giá đã đợc thu hẹp song khả năng cạnh
tranh ngang ngửa với Thái Lan về giá là có thể xảy ra. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào
chất lợng gạo của ta. Nếu chất lợng gạo của ta cũng tơng đơng với gạo Thái Lan thì lúc đó
giá gạo của Thái Lan phải theo giá gạo của Việt Nam bởi vì chi phí sản xuất lúa của Việt
Nam rẻ hơn của Thái Lan. Ước tính chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam bình quân vào khoảng
85-97 USD/tấn còn Thái Lan là 105-125 USD/tấn.
Bảng 9: So sánh một số nhiên liệu chính cho sản xuất lúa
Vật t chính Việt Nam Thái Lan
Xăng (lit) 0,35 USD = 2,4 kg thóc 0,4 USD = 2,7 kg thóc
Dầu DO (lit) 0,26 USD = 1,8 kg thóc 0,3 USD = 2 kg thóc
Điện (1kw/h) 0,064 USD = 0,5 kg thóc 0,12 USD = 0,65 kg thóc
Nguồn: Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của nớc ta -
Nguyễn Đình Long . Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 53
Nh vậy, về mặt giá cả và giá thành lúa, chúng ta có lợi thế, song từ sản xuất lúa đến
gạo xuất khẩu có sức cạnh tranh mạnh vẫn còn một chặng đờng không ít khó khăn.
Ngoài những khó khăn trên, trong xuất khẩu gạo hiện còn có những yếu kém, khó
khăn nh:
Thứ nhất là cha có quy hoạch tổng thể và kế hoạch cụ thể về sản xuất lúa gạo xuất
khẩu (vùng nào, địa phơng nào, bao nhiêu diện tích, cơ cấu giống lúa, đầu t thâm canh).
Một số vùng và địa phơng đã hình thành quy hoạch và kế hoạch, song vẫn nặng tính tự
phát cục bộ kể cả vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
Thứ hai là mạng lới thu mua, vận chuyển, chế biến lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu
gạo vẫn phụ thuộc quá lớn vào t thơng cha có sự tham gia tích cực của doanh nghiệp lơng
thực nhà nớc. Thực tế hiện nay các Tổng công ty lơng thực miền Bắc và miền Nam vẫn sử
dụng t thơng để thu gom, vận chuyển và chế biến, đánh bóng gạo xuất khẩu. Do vậy, tình
trạng ép cấp, ép giá đối với nông dân diễn ra phổ biến nhất là vào năm đợc mùa.
Thứ ba là cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chế biến, bảo quản, xuất khẩu còn yếu
kém lại phân bố không đều. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng gạo xuất khẩu những
năm gần đây tuy có đợc trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại hơn nhng số lợng ít chủ
yếu đợc bố trí tại các thành thị lớn nh thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho; trong

khi những vùng và địa phơng sản xuất nhiều lúa hàng hoá xuất khẩu nh An Giang, Đồng
Tháp, Sóc Trăng lại không có các nhà máy chế biến. Đầu mối xuất khẩu gạo tập trung quá
lớn vào cảng Sài Gòn, trong khi đó nguồn gạo lại ở Đồng bằng sông Cửu Long nên làm
tăng chi phí vận chuyển và chi phí trung gian khác.
Thứ t là việc điều hành xuất khẩu gạo nh hiện nay cũng đang bộc lộ những nhợc
điểm. Hạn ngạch xuất khẩu gạo giao từ đầu năm trong khi cha biết kết quả sản xuất lúa
trong năm nh thế nào; do đó liên tục phải điều chỉnh kế hoạch kể cả huỷ hợp đồng đã kí
với khách hàng. Điều đáng chú ý là hạn ngạch giao cho từng tỉnh cũng dẫn đến sự cạnh
tranh không lành mạnh trong việc xin quota, sau đó đi mua gạo của các tỉnh khác về để tái
xuất. Một số tỉnh hoàn toàn không có lúa hàng hoá vẫn đợc cấp quota.
Thứ năm là thiếu vốn và thủ tục thanh toán của ngân hàng còn phiền nhiễu. Để thực
hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp rất cần vốn để mua lúa tạm trữ với số
lợng lớn, tập trung vào thời điểm trong vụ thu hoạch lúa. Trong khi đó, khả năng cung ứng
của các ngân hàng Thơng mại có hạn, chính sách hỗ trợ lãi suất đối với doanh nghiệp xuất
khẩu và phơng thức bảo lãnh của ngân hàng cũng có nhiều điểm cha họp lý. Cuối năm
1999, nhiều doanh nghiệp có đợc nhiều hợp đồng bán gạo trả chậm với số lợng lớn và có
thể gối đầu sang năm 2000, song do các ngân hàng không chịu tham gia thanh toán và thu
nợ nên đã không kí kết đợc.
Thứ sáu là gạo nhập khẩu lậu qua biên giới Tây Nam và phía Bắc còn nhiều và có
xu hớng ngày càng tăng. Tình hình này kéo dài từ năm 1999 làm cho quan hệ cung cầu
gạo trong nớc diễn biến phức tạp và khó kiểm soát. Giá sàn mua lúa của Nhà nớc rất khó
thực hiện nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, ảnh hởng đến nguồn cung của các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo và nhất là lợi ích của ngời trồng lúa hàng hoá ở Nam Bộ.
Đứng trớc những khó khăn trên, ngành sản xuất lúa và gao xuất khẩu rất cần có
những giải pháp nhằm tháo gỡ để nâng cao sức cạnh tranh của hàng gạo xuất khẩu, thúc
đẩy xuất gạo một cách mạnh mẽ.
b-Cà phê:
Hiện nay, mặc dù nớc ta là nớc xuất khẩu cà phê lớn thứ 3 thế giới sau Braxin và
Côlômbia, song sản lợng cà phê và số lợng xuất khẩu ra thị trờng thế giới của ta thì ít hơn
nhiều so với hai nớc trên. Sản lợng cà phê của Braxin hiện nay đạt khoảng 2,4 triệu tấn (40

triệu bao), trong đó xuất khẩu khoảng 1,3 triệu tấn. Sản lợng cà phê của Côlômbia hiện
nay đạt khoảng 1,8 triệu tấn, trong đó xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn. Sản lợng cà phê của
Việt Nam hiện nay đạt khoảng 722.000 tấn và xuất khẩu đạt 686.013 (1999-2000) tấn
(1)
.
Khả năng mở rộng diện tích canh tác để đuổi kịp sản lợng của ta là rất lớn vì trong số 2
triệu ha đất trồng cà phê, ta mới chỉ sử dụng có 330.000 ha.Tuy nhiên, việc mở rộng diện
tích để tăng sản lợng và đặc biệt là tăng số lợng xuất khẩu của cà phê phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố.
Yếu tố đầu tiên phải kể đến là giá cả: Hiện nay, cà phê là mặt hàng tự do thơng mại,
không hạn ngạch, không giấy phép nên giá cả xuất khẩu là giá quốc tế, phụ thuộc vào quan
hệ cung cầu của thị trờng thế giới. Do vậy mà giá cà phê lên xuống rất thất thờng theo tình
hình sản xuất (đợc mùa, mất mùa) và theo tình hình tiêu thụ. Có năm giá rất cao nh niên
vụ 98-99, khuyến khích đợc ngời trồng cà phê; có năm giá rất thấp nh năm 2000-2001 chỉ
còn 430 USD/tấn làm nản lòng ngời trồng cà phê. Giá cả thấp khiến cho không thể xuất
khẩu đợc vì càng xuất càng lỗ nặng.
Yếu tố thứ hai là: Hiện nay, trên thị trờng cà phê, Việt Nam có rất nhiều đối thủ
cạnh tranh lớn nh: Braxin, Côlômbia và nhóm các nớc sản xuất cà phê ở khu vực Mĩ latinh
(chiếm 60% sản lợng cà phê toàn cầu), Indônexia, Ấn Độ, Bờ Biển Ngà. Các nớc này tuy
đều là thành viên của Hiệp hội các nớc sản xuất cà phê (ACPC), song cạnh tranh rất quyết
liệt trên thị trờng cà phê thế giới.
Thứ ba là: Tuy là nớc xuất khẩu cà phê lớn nhng Việt Nam lại không có thị trờng
tiêu thụ trong nớc làm hậu thuẫn (nhu cầu trong nớc khoảng 20.000 tấn/năm) nên khi cà
phê trên thị trờng thế giới rớt giá, ngời trồng cà phê không biết xoay sở ra sao.
Khó khăn nữa là: Sản phẩm cà phê của ta còn nghèo nàn, chủ yếu là xuất thô cha
qua chế biến. Các doanh nghiệp của ta cha có đủ điều kiện cần thiết để đầu t nhập công
nghệ chế biến. Chính vì cha có công nghệ chế biến nên chất lợng cà phê của ta còn thua
kém so với một số nớc khác.
Ngoài ra cũng nh gạo, cà phê cũng cha đợc các cấp các ngành quan tâm hỗ trợ một
cách thoả đáng nhất là vào lúc mùa vụ thu hoạch nên nhiều lúc còn bị động, ảnh hởng tiêu

cực đến việc tranh thủ khách hàng, cạnh tranh với các nớc khác.
Những khó khăn trên của cà phê cũng cần có những giải pháp thích hợp nhằm tháo
gỡ khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu.
c-Cao su:
Mặc dù đã có tăng trởng đáng kể nhng ngành cao su mới phát triển về chiều rộng
chứ cha phải chiều sâu. Sản lợng vẫn còn thấp so với sản lợng của các nớc sản xuất cao su
khác trong khu vực (chỉ đạt khoảng 468kg/ha).
Về thị trờng xuất khẩu thì thị trờng xuất khẩu cao su của Việt Nam không ổn định
do sự phụ thuộc quá nhiều vào nhu cầu không dự đoán trớc đợc của Trung Quốc. Thị
trờng này cũng gặp không ít khó khăn do xuất qua tiểu ngạch nên thờng xuyên bị ép giá,
nhu cầu mặt hàng không ổn định, tình trạng ứ đọng sản phẩm hay xảy ra. Nhu cầu thị
trờng thay đổi đã gây ra rất nhiều khó khăn cho ngành công nghiệp chế biến cao su của
Việt Nam đặc biệt là cơ cấu sản xuất sản phẩm chế biến không phù hợp với xu thế chung
của nhu cầu thị trờng tiêu thụ trên thế giới.
Cụ thể là, từ những năm 70, các hãng làm lốp trên thế giới đã nhận ra rằng với loại
cao su cấp thấp (loại mủ SVR10 và SVR20) họ vẫn có khả năng sản xuất đợc loại lốp tốt
đạt đợc yêu cầu của ngời tiêu dùng, mà giá cao su loại này lại thấp hơn nhiều so với chủng
loại cao su loại I và loại thợng hạng và thực tế đã tiêu thụ trên 70% toàn bộ lợng cao su tự
nhiên xuất khẩu hàng năm của các nớc Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan. Trong khi đó, Tổng
công ty cao su Việt Nam lại sản xuất phần lớn cao su loại I và thợng hạng chiếm trên 91%,
cao su loại II (SVR10 và SVR20) chỉ cha đầy 10%. Hiện nay, do trình độ khoa học công
nghệ phát triển nên nhu cầu cao su thiên nhiên giảm, đợc thay thế bằng các loại chất dẻo
tổng hợp.
d-Thủy sản:
Mặc dù những năm gần đây, ngành thủy sản có những bớc phát triển đáng kể về sản
lợng nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản cũng nh thu về giá trị xuất khẩu lớn nhng hiện nay
ngành thủy sản cũng đang gặp không ít khó khăn.
Thứ nhất: Đối tợng khai thác thủy sản là tài nguyên thiên nhiên dới nớc (tôm, cá,
hải sản), nhng loại tài nguyên này có giới hạn và ở nớc ta đang cạn kiệt nhất là vùng biển
ven bờ, các sông ngòi, hồ chứa. Phơng thức khai thác vô tổ chức, quá nhiều lao động và

tàu, thuyền đã tạo nên sự mất cân đối giữa nguồn tôm cá với số lợng phơng tiện và ngời
đánh bắt, dẫn đến cạn kiệt thủy sản ven bờ.
Thứ hai: Nghề khơi đòi hỏi nhiều vốn, phơng tiện kỹ thuật đánh bắt hiện đại và lao
động có tay nghề cao. Những yêu cầu đó hiện nay còn rất xa vời với điều kiện nớc ta. Bài
toán chuyển đổi lao động thủ công và tàu, thuyền nhỏ cho phù hợp với yêu cầu nghề khơi
là rất khó. Đó là cha nói đến không phải vùng khơi nào cũng nhiều cá và nhiều cá cha chắc
đã có hiệu quả vì chi phí cao, cá không hợp với nhu cầu thị trờng.
Thứ ba: Nuôi trồng thủy sản Việt Nam hiện nay đang đứng trớc nhiều khó khăn lớn
nh môi trờng sinh thái bị phá vỡ, tài nguyên cạn kiệt (do cha sản xuất nhân tạo đợc cá
giống nên việc săn lùng các giống tôm hùm, cá song, cá cam có nguy cơ làm lây lan dịch
bệnh), cơ sở khoa học kỹ thuật cho nuôi trồng thủy sản nớc ta còn rất thiếu.
Thứ t: Tổ chức thu mua, chế biến, xuất khẩu thủy sản còn cha hợp lý, dẫn đến tình
trạng tranh mua, tranh bán, giành giật thị trờng, đẩy giá nguyên liệu lên quá cao so với giá
trị, nên hiệu quả kinh doanh, chế biến, xuất khẩu giảm.
Thứ năm: Hệ thống chế độ, chính sách đối với ngành thủy sản cha đồng bộ, thiếu
cụ thể nên chậm đi vào cuộc sống. Là ngành sản xuất thờng gặp nhiều rủi ro do thiên tai,
do thị trờng thế giới biến động, trong khi đố chính sách, chế độ đối với ngành thủy sản vẫn
còn mang tính chung chung. Luật pháp đã có, nhng thực hiện cha nghiêm, cả trong sản
xuất và kinh doanh, xuất khẩu thủy sản.
Thứ sáu: Thị trờng tiêu thụ thủy sản cha ổn định, gây khó khăn cho ngời sản xuất
và cơ sở chế biến. Thị trờng các loại cá, tôm và thủy sản khác cũng trong tình trạng tơng
tự, nhất là thị trờng khó tính nh EU, Nhật; trong khi chất lợng và sức cạnh tranh của hàng
thủy sản nớc ta cha cao, công nghệ chế biến và điều kiện vệ sinh thực phẩm còn ở trình độ
thấp.
Đứng trớc những khó khăn trên đòi hỏi ngành thủy sản phải có những biện pháp để
khắc phục chúng, đa ngành thủy sản phát triển mạnh mẽ hơn trong tơng lai.
CHƠNG III
TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH
HÀNG NÔNG THỦY SẢN XUẤT KHẨU CỦA NỚC TA
I-Triển vọng:

1-Triển vọng của gạo và cà phê:
Mặc dù, hiện nay, xuất khẩu gạo và xuất khẩu cà phê gặp rất nhiều khó khăn do giá
xuống quá thấp, song về lâu dài xuất khẩu gạo và cà phê có triển vọng phát triển rất lớn.
Bởi vì nớc ta có nhiều lợi thế về đất đai, khí hậu, lao động để phát triển sản xuất.
Thứ nhất: Năng suất sản xuất gạo và cà phê của ta cao hơn hẳn các nớc khác.
Thứ hai: Chi phí để sản xuất gạo và cà phê của ta cũng rẻ hơn. Đó là điều kiện rất
thuận lợi để cạnh tranh về giá.
Thứ ba: Chất lợng gạo và cà phê của ta đang ngày càng đợc cải thiện do nhà nớc đã
quan tâm đầu t đúng mức nhằm đổi mới trang thiết bị, công nghệ phục vụ sản xuất và xuất
khẩu.
Thứ t: Sản phẩm gạo và cà phê của ta ít nhiều đã có tiếng tăm trên thị trờng thế giới.
Hiện nay, thị trờng gạo đã mở rộng tới hơn 50 nớc, thị trờng cà phê mở rộng tới hơn 40
nớc, trong đó chỉ có một số nớc là thị trờng chính còn lại đa số các nớc có nhập khẩu nhng
với số lợng và trị giá thấp. Chính các nớc này sẽ là đối tợng của chúng ta trong tơng lai.
Thứ năm: Hiện nay, gạo và cà phê đóng góp một nguồn ngoại tệ khá lớn (khoảng
1,5 tỉ USD, chiếm khoảng 12,5% tổng kim ngạch xuất khẩu) cho công cuộc CNH-HĐH
đất nớc, do vậy Đảng và Nhà nớc rất quan tâm và đề ra nhiều chính sách nhằm thúc đẩy
sản xuất và xuất khẩu hai mặt hàng này.
Xét riêng về gạo thì những năm qua và trong những năm tới, sản lợng gạo thế giới
tăng rất ít, trong khi sản lợng gạo Việt Nam liên tục tăng (theo FAO, trong 10 năm 1990-
1999 sản lợng gạo tăng 70 triệu tấn trong đó Việt Nam đóng góp 10 triệu tấn chiếm
14,29%). Năm 2000, sản lợng lúa gạo thế giới đạt 581 triệu tấn, tăng so với năm 1999 là 8
triệu tấn, thì trong đó Việt Nam tăng 1,5 triệu tấn, chiếm 18,75%
(1)
. Nh vậy, dân số thế
giới thì không ngừng tăng mà sản lợng lúa gạo thế giới tăng chậm, đó là điều kiện thuận
lợi để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong tơng lai. Năm 1999, chúng ta đã đạt đến
đỉnh cao trong xuất khẩu là 4,55 triệu tấn, trong khi sản lợng chỉ đạt 31,4 triệu tấn. Hy
vọng trong những năm tiếp theo, xuất khẩu của nớc ta sẽ vợt con số này.
Xét về cà phê thì nớc ta là một nớc trẻ trong thế giới xuất khẩu cà phê, vì vậy có rất

nhiều tiềm năng để phát triển. Tiềm năng lớn nhất là tiềm năng đất đai. Chúng ta còn một
diện tích đất lớn cha khai thác (1,7triệu ha), trong khi các nớc trồng cà phê già cỗi khác
hầu nh đã khai thác hết. Thứ hai là chi phí sản xuất cà phê của ta rất thấp do năng suất cao
hơn mức trung bình của thế giới từ 1,7-2,5 lần. Do đó, chúng ta có lợi thế về giá. Thứ ba là
các nớc khác đặc biệt là khu vực Mĩ latinh thờng hay xảy ra thiên tai gây mất mùa nên cà

×