Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tiểu luận: Chính sách tỷ giá của Trung Quốc và tác động của nó tới thương mại Trung Quốc và một số nước doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.22 KB, 25 trang )


TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

[\[\



TIỂU LUẬN

Đề tài:



Chính sách tỷ giá của Trung Quốc và
tác động của nó tới thương mại Trung
Quốc và một số nước
Chính sách tỷ giá của Trung Quốc và
tác động của nó tới thương mại Trung
Quốc và một số nước
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH
SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI, TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI THƠNG MẠI.
1.1 Những vấn đề lý luận chung về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái không chỉ tác động đến những cân bằng bên ngoài mà còn tác động
đến cả những cân đối bên trong nền kinh tế. Phân tích những tác động chủ yếu của tỷ
giá hối đoái đến thơng mại nói riêng và nền kinh tế nói chung giúp chúng ta thấy rõ
tầm quan trọng cũng nh vai trò của nó đối với phát triển kinh tế của các nớc. Đó cũng
là cơ sở cho việc lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay đợc các chính phủ rất coi
trọng.
1.1.1 Tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính bằng tiền tệ


của một nớc khác, hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của các quốc
gia khác nhau. Nó là một phạm trù kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trực tiếp từ quan hệ tiền tệ giữa các quốc gia. Về cơ bản, phân tích vấn đề tỷ giá
cần tập trung chú trọng vào hai vấn đề cơ bản sau: các nhân tố tác động đến sự biến động
của tỷ giá hối đoái và các chế độ tỷ giá hối đoái.
1.1.1.1 Các nhân tố tác động tới tỷ giá hối đoái.
Ngày nay, tỷ giá hối đoái biến động rất thờng xuyên và thất thờng. Sự tăng hay
giảm của tỷ giá hối đoái chịu ảnh hởng rất nhiều nhân tố khác nhau, trong đó ta chia hai
dạng : đó là nhân tố cơ bản làm thay đổi tỷ giá dài hạn và nhân tố ngắn hạn.
Những nhân tố cơ bản làm thay đổi tỷ giá dài hạn:
Xét trong dài hạn có 4 nhân tố chủ yếu tác động tới quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đó
là: mức giá cả tơng đối, chính sách bảo hộ, sở thích của ngời tiêu dùng và năng suất lao
động.
Mức giá cả tơng đối
Khi mức giá cả hàng hoá, dịch vụ trong nớc tăng so với mức giá cả của hàng hoá -
dịch vụ nớc ngoài, các hãng sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng, các hãng sản xuất của một
nớc nói chung có xu hớng thu hẹp quy mô sản xuất do chi phí đầu vào tăng. Do đó xuất
khẩu giảm, cung ngoại tệ giảm, đồng thời cầu về hàng nội tệ giảm xuống và cầu về hàng
hoá nớc ngoài tăng lên, cầu ngoại tệ tăng lên.
Đồ thị
D1,D2: đờng cầu ngoại tệ
E(VND/USD) S2
S1,S2: đờng cung ngoại tệE2 S1
E1
D1 D2
Q
Sự dịch chuyển đờng cung và đờng cầu ngoại tệ do tác động gia tăng của mức giá cả
hàng hoá một nớc, làm cho tỷ giá hối đoái tăng và đồng tiền của nớc đó giảm. Nh vậy, về
lâu dài, sự gia tăng trong mức giá của một nớc so với mức giá của nớc ngoài sẽ làm cho tỷ
giá hối đoái biến đổi theo hớng tăng lên và đồng tiền của nớc đó giảm giá.

Chính sách bảo hộ
Chính sách bảo hộ là các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đợc các nớc dựng lên
để bảo vệ lợi ích và tạo sức cạnh tranh cho các ngành công nghiệp non trẻ của một nớc
trong thơng mại quốc tế. Chính sách bảo hộ này đã ngăn cản tự do buôn bán và làm tổn hại
đến lợi ích của một số các ngành kinh tế, các khu vực kinh tế khác và làm giảm lợi ích của
những ngời tiêu dùng. Sự tăng cờng các biện bảo hộ dới các hình thức nh thuế quan, quato,
làm hạn chế khối lợng hàng hoá nhập khẩu, do đó làm giảm cầu về ngoại tệ, chuyển dịch
đờng cầu ngoại tệ xuống phía dới, về lâu dài làm giảm tỷ giá, đẩy giá trị của đồng nội tệ
tăng lên
E(VND/USD)
S1
E1
E2
D2 D1
Q
Sở thích ngời tiêu dùng
Thực tế trên thị trờng nói chung và trong thơng mại quốc tế nói riêng cho thấy ngay
cả khi hàng hoá trong nớc và nớc ngoài đã có những đặc điểm giống nhau nh về giá cả,
chất lợng, hình thức thì chúng vẫn không có khả năng thay thế hoàn toàn cho nhau chỉ vì
ngời tiêu dùng có sở thích khác nhau
Ví dụ :
E(VND/USD)
S1
E1
E2
D2 D1
Q
Khi ngời dân thích dùng hàng nội hơn, cầu về hàng nội tăng, cầu về hàng ngoại
giảm, đờng cầu ngoại tệ dịch trái, tỷ giá hối đoái giảm từ E1 xuống E2, và đồng VND tăng
giá. Ngợc lại, thì tỷ giá hối đoái tăng và đồng tiền nớc đó giảm giá.

Năng suất lao động
Năng suất lao động tăng lên thể hiện sự phát triển kinh tế và sử dụng nó hiều quả
cao hơn các nguồn lực khác. Năng suất lao động tăng lên làm chi phí sản xuất giảm, các cơ
sở sản xuất có cơ hội mở rộng kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm. Hàng nội có giá rẻ
hơn, có sức cạnh tranh cao hơn và các nhà sản xuất thu đợc lãi nhiều hơn. Năng suất lao
động cao hơn là cơ sở để hàng nội thay thế hàng ngoại ở thị trờng trong nớc và vơn ra thị
trờng nớc ngoài; kích thích tăng xuất khẩu, tăng cung ngoại tệ và đờng cung ngoại tệ dịch
phải. Đồng thời làm nhu cầu hàng ngoại giảm, nhập khẩu giảm, cầu ngoại tệ giảm, đờng
cầu ngoại tệ dịch trái, kéo tỷ giá xuống E2 và đồng nội tệ tăng giá
E(VND/USD) S1
E1 S2
E2 D1
D2
Q
Những nhân tố cơ bản làm thay đổi tỷ giá ngắn hạn
Xét trong ngắn hạn có một số nhân tố chủ yếu tác động. Đó là: Mức chênh lệnh lạm phát,
lãi suất giữa các quốc gia; những dự đoán về tỷ giá hối đoái.
Mức chênh lệnh lạm phát giữa các quốc gia
Nếu nh mức độ lạm phát giữa hai nớc khác nhau, trong điều kiện các nhân tố khác
không thay đổi, sẽ dẫn đến giá cả hàng hoá ở hai nớc đó có những biến động khác nhau,
làm cho ngang giá sức mua của hai đồng tiền đó bị phá vỡ, làm thay đổi tỷ giá hối đoái.
Ảnh hởng của mức chênh lệch lạm phát đến tỷ giá hối đoái có thể đợc minh họa ở
đồ thị sau:
Giả sử Việt Nam có tỷ lệ lạm E(USD/VND) S2
phát cao hơn Mỹ. Thì tăng nhu cầu về S1
USD, cung USD giảm, làm cho đồng
VND giảm giá.
D2
D1
Q

Nếu tỷ lệ lạm phát ở một nớc cao hơn so với nớc khác, giá cả hàng hoá và dịch vụ
nhập khẩu từ nớc đó sẽ tăng lên, và do đó nhu cầu về hàng hoá dịch vụ này ở nớc khác sẽ
giảm xuống. Cùng với nhu cầu về hàng hoá dịch vụ giảm, nhu cầu về đồng tiền nớc đó ở
nớc ngoài cũng sẽ giảm xuống. Sự giảm nhu cầu về đồng nội tệ, tơng đơng với sự giảm
cung trên thị trờng ngoại hối. Ngợc lại, nhu cầu hàng hoá dịch vụ của nớc ngoài tăng lên,
do đó cầu ngoại tệ tăng.
Sự tăng lên nhu cầu ngoại tệ xẩy ra cùng với sự giảm xuống của cung ngoại tệ sẽ
gây lên sự giảm giá của đồng nội tệ.
Tơng tự nh vây, nếu tỷ lệ lạm phát ở nớc này tăng lên so với tỷ lệ lạm phát của nớc
khác, thì đồng nội tệ sẽ tăng giá.
Mức chênh lệch lãi suất giữa các quốc gia
Khi mức lãi suất ngắn hạn của một nớc tăng lên một cách tơng đối so với các nớc
khác, trong những điều kiện bình thờng, thì vốn ngắn hạn từ nớc ngoài sẽ đổ vào nớc
nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra. Điều đó làm cho cung ngoại hối tăng lên, cầu
ngoại hối giảm đi, dẫn đến sự thay đổi tỷ giá.
Những dự đoán về tỷ giá hối đoái
Dự đoán của những ngời tham gia vào thị trờng ngoại hối về triển vọng lên giá hay
xuống giá của một đồng tiền nào đó có thể là một nhân tố quan trọng quyết định tỷ giá.
Những dự đoán này có liên quan chặt chẽ đến những dự đoán về biến động tỷ lệ lạm phát,
lãi suất và thu nhập giữa các quốc gia.
Giả sử rất nhiều ngời tham gia vào thị trờng ngoại hối đều cho rằng đồng USD sẽ
giảm giá trong thời gian tới, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi. Điều này
dẫn đến cung về USD sẽ tăng lên vì nhiều ngời muốn bán chúng. Đồng thời, cầu về USD
sẽ giảm xuống
Ảnh hởng này đợc minh hoạ bằng đồ thị:
E(USD/VND) S1
S2
.
D1
D2

Q
Ngoài ra tỷ giá hối đoái còn chịu ảnh hởng của các nhân tố khác nh khủng bố, thiên
tai đình công, các quyết sách lớn cảu nhà nớc Điều này có thể giải thích sự thay đổi đột
ngột, thất thờng của tỷ giá mà không theo quy luật nào.
Nh vậy, trong điều kiện hiện nay, tỷ giá hối đoái chịu sự tác động của rất nhiều yếu
tố. Việc xác định đúng và kịp thời các nhân tố này là cơ sở quan trọng để điều chỉnh tỷ giá
hối đoái cho phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.
1.1.1.2 Các dạng chế độ tỷ giá hối đoái.
Các chế độ cố định cơ bản: Tỷ giá gắn :
ỹ Vào một đồng tiền: nền kinh tế gắn đồng tiền của mình vào những đồng tiền quốc tế
chủ chốt mà không hoặc rất hiến khi điều chỉnh giá trị so sách của chúng; các nền
kinh tế thờng công bố trớc lịch điều chỉnh tỷ giá của đồng tiền nớc mình so với
đồng tiền mà nó gắn vào theo mức cố định.
ỹ Vào một rổ các loại đồng tiền: các nớc gắn đồng tiền mình vào một rổ đồng tiền giao
dịc chính hoặc hỗn hợp các đồng tiền tiêu chuẩn.
ỹ Trong khoảng chênh lệch xác định trớc: các nớc gắn đồng tiền mình vào một đồng
tiền khác hoặc một rổ tiền trong khoảng chênh lệch nhất định.
ỹ Cố định nhng có điều chỉnh: biên độ khoảng + 2%
Các chế độ linh hoạt cơ bản: tỷ giá có điều chỉnh và linh hoạt
ỹ Theo các chỉ số: nền kinh tế tự động điều chỉnh đồng tiền của mình theo sự that đổi
trong các chỉ số cho trớc.
ỹ Thả nổi có kiểm soát: các nớc thờng xuyên điều chỉnh tỷ giá hiện nay trên cơ sở đánh
giá diễn biến của các biến số nh tình hình dự trữ và thanh toán.
ỹ Thả nổi tự do: các nớc cho phép thị trờng và các lực lợng thị trờng quyết định tỷ giá
đồng tiền của mình.
1.1.2 Chính sách tỷ giá hối đoái.
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ đợc dùng để tác động tới
quan hệ cung- cầu ngoại tệ trên thị trờng ngoại hối, từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái
nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối đoái gồm hai vấn
đề lớn: một là vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái và hai là vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối

đoái.
1.1.2.1 Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái.
Chính sách tỷ giá hối đoái là một bộ phận của hệ thống chính sách tài chính, tiền tệ,
thực hiện các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế. Trong nền kinh tế mở, mục tiêu của việc
hoạch định chính sách nói chung, chính sách tài chính, tiền tệ và chính sách tỷ giá nói
riêng là nhằm đạt đợc các cân đối bên trong và cân đối bên ngoài của nền kinh tế.
Cân bằng nội đạt đợc khi các nguồn lực kinh tế của một quốc đợc sử dụng đầy đủ
với mức giá ổn định. Việc sử dụng không thiếu hoặc quá nguồn lực dẫn đến lãng phí
không đem lại hiệu quả cao. Ngoài ra còn làm cho mức giá chung bị biến động, giá trị thực
tế của đồng tiền không ổn định, dẫn đến giảm hiệu quả của nền kinh tế. Sự không ổn định
của giá cả còn có tác động làm thay đổi hoặc tăng tính rủi ro cao của các món nợ.
Vì vậy, với mục tiêu tránh tình trạng mất ổn định của giá cả và ngăn chăn sự dao
động lớn trong tổng sản phẩm, chính sách tỷ giá đã tránh cho nền kinh tế rơi vào tình trạng
lạm phát hoặc giảm phát kéo dài và đảm bảo việc cung ứng tiền không quá nhanh hoặc
quá chậm.
Khác với cân bằng nội, cân bằng ngoại đạt đợc lại dựa vào trạng thái của cán cân tài
khoản vãng lai. Một sự thâm hụt tài khoản vãng lai cho thấy rằng nớc đó đang đi vay nợ
của nớc ngoài. Khoản nợ này, sẽ đáng lo ngại khi nó đợc sử để đầu t có hiệu quả, bảo đảm
trả đợc nợ trong tơng lai và có lãi. Nhng nếu khoản thâm hụt này kéo dài và không tạo ra
đợc những cơ hội đầu t có hiệu quả thì nó sẽ tạo ra nguy hiểm đến nền kinh tế. Ngợc lại,
khi tài sản vãng lai d thừa cho thấy rằng nớc đó đang tích tụ tài sản của mình ở nớc ngoài,
nghĩa là họ là ngời cho vay. Nếu sự d thừa này diễn ra liên tục có thể dẫn đến có ảnh hởng
nghiêm trọng đến cân đối bên trong nền kinh tế, đồng thời tăng rủi ro về khả năng thu hồi
các khoản cho vay. Sẽ có nhiều nguồn lực bị bỏ lãng phí không đợc sử dụng, sản xuất một
số ngành bị đình trệ, tăng trởng giảm và thất nghiệp gia tăng.
Nh vậy, mục tiêu cân đối bên ngoài đòi hỏi chính sách tỷ giá phải duy trì tài khoản
vãng lai không thâm hụt hoặc dc thừa quá mức để tránh những hậu quả nghiêm trọng đối
với nền kinh tế quốc gia.
1.1.2.2 Căn cứ để lựa chọn chính sách tỷ giá.
Việc lựa chọn chế độ tỷ giá xoay quanh hai vấn đề chính: mối quan hệ giữa các nền

kinh tế quốc gia với cả hệ thống toàn cầu và mức độ hoạt tính của các chính sách kinh tế
trong nớc.
Vấn đề thứ nhất, thực chất là lựa chọn hệ thống mở cửa hay đóng cửa. Các phơng án
đặt ra cho việc lựa chọn hệ thống tỷ giá thiên về hoặc tỷ giá cố định hoặc tỷ giá linh hoạt
hoặc kết hợp cả hai. Nếu quốc gia lựa chọn hệ thống tỷ giá cố định, là tơng đơng với việc
chọn hệ thống mở cửa, trong đó luôn có sự tơng tác giữa các nhân tố quốc gia và cả hệ
thống còn lại. Bởi vì việc hoạch định chính sách đối nội trở thành ngoại sinh và tuân thủ
theo thoả ớc tỷ giá khi quốc gia đó lựa chọn chế độ này.
Ngợc lại, phơng án tỷ giá linh hoạt, về nguyên tắc, không chấp nhận một ràng buộc
nào vào các chính sách kinh tế đối nội. Các chính sách có tác động gì đi nữa thì sự giao
động tỷ giá sẽ giữ chúng chỉ gây ảnh hởng trong phạm vi quốc gia. Và tơng ứng với điều
đó, kết quả của các chính sách kinh tế nớc ngoài dù thế nào đi chăng thì điều chỉnh tỷ giá
sẽ giữ ảnh hởng của chúng nằm ngoài phạm vi quốc gia. Vậy việc lựa chọn cơ chế hối
đoái linh hoạt đồng nhất với lựa chọn hệ thống đóng cửa, trong đó tỷ giá linh hoạt sẽ tách
rời nền kinh tế quốc gia khỏi môi trờng quốc tế.
Vấn đề mức độ hoạt tính của các chính sách kinh tế đối nội, rõ ràng có các mức độ
khác nhau. Vì tỷ giá cố định thể hiện sự cam kết áp đặt các ràng buộc đối với chính sách
kinh tế quốc gia, không thể theo đuổi chính sách đối nội một cách độc lập. Ngợc lại, tỷ giá
linh hoạt là một công cụ chính sách có thể sử dụng để giữ cho các hoạt động kinh tế của hệ
thống quốc tế, có thể thực hiện các chính sách quốc gia mà không cần quan tâm đến môi
trờng bên ngoài.
Ngoài ra còn có các tiêu chuẩn khác để xem xét lựa chọn chính sách tỷ giá nh các
hình thức rối loạn kinh tế, đặc thù cơ cấu kinh tế và tính chất rủi ro và các mục tiêu theo
đuổi
Nếu dựa vào các hình thức rối loạn kinh tế. Ngời ta thờng phân biệt rối loạn thực và
rối loạn danh nghĩa để lựa chọn chế độ tỷ giá. Đối với rối loạn danh nghĩa thì tốt nhất là
dùng hệ thống tỷ giá cố định. Ví dụ, sự rối loạn gây ra quá nhiều tiền cung ứng sẽ dẫn đến
thâm hụt cán cân thanh toán do hao tốn dự trữ ngoại tệ để phục hồi sự cân đối trong thị
trờng tiền tệ. Rối loạn này sẽ không thực sự ảnh hởng tới nền kinh tế vì nó đợc đảm bảo
bằng chế độ tỷ giá cố định. Ngợc lại, các rối loạn thực nh rối loạn phát sinh từ sự mất cân

đối thị trờng hàng hoá, để chống lại tác động này tốt nhất là sử dụng hệ thống tỷ giá linh
hoạt vì các biến động mức cầu trong nớc sẽ dẫn đến thay đổi tỷ giá do đó sẽ điều chỉnh
mức cầu ngoài nớc, vì vậy sản phẩm trong nớc không bị ảnh hởng nghiêm trọng.
Tuy nhiên, tiêu chuẩn này khó thực hiện vì không thể thay đổi chính sách thờng
xuyên để đối phó với các hình thức rối loạn, đặc biệt khi mà hiện nay các hình thức này rất
phong phú và đa dạng.
1.1.2.3 Vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Nguyên nhân dẫn tới việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái là sự tách rời giữa tỷ giá danh
nghĩa và thực tế, nhng sự tách rời này không thể đi quá xa một biên độ nhất định. Điều
quan trọng là phải xác định đợc biên độ nào sẽ có nhiều tác động tích cực nhất đến nền
kinh tế.
Để điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo mục tiêu đã định, Chính phủ các nớc đã sử dụng
rất nhiều biện pháp nhng có hai biện pháp cơ bản nhất thờng dùng: Đó là công cụ lãi suất
tái chiết khấu và công cụ nghiệp vụ thị trờng mở.
Phơng pháp dùng lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái đợc thực hiện
với mục tiêu thay đổi ngắn hạn về tỷ giá. Tác động của công cụ này đợc thực hiện theo cơ
chế khi lãi suất tái chiết khấu thay đổi, kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất thị
trờng, làm thay đổi lợi tức của các tài sản nội- ngoại tệ sẽ dẫn tới thay đổi dòng vốn đầu t
quốc tế, cung cầu tài sản nội- ngoại tệ thay đổi và tỷ giá thay đổi theo. Nh khi lãi suất tái
chiết khấu tăng, làm cho lãi suất trong nớc tăng, dòng vốn ngắn hạn trên thị trờng tài chính
quốc sẽ đổ vào trong nớc để hởng chênh lệch lãi suất. Kết quả, tỷ giá hối đoái giảm và
đồng nội tệ tăng giá. Ngợc lại, khi muốn tỷ giá tăng, đồng nội tệ giảm giá sẽ tiến hành
giảm lãi suất tái chiết khấu.
Còn đối với công cụ nghiệp vụ thị trờng mở ngoại tệ, thực chất là hoạt động của
ngân hàng trung ơng can thiệp vào thị trờng ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Khi tỷ
giá hối đoái lên cao, ngân hàng trung ơng sẽ bán ngoại tệ và mua đồng nội tệ kéo tỷ giá
hối đoái giảm xuống. Muốn thực hiện đợc ngân hàng phải có dự trữ ngoại hối lớn. Khi tỷ
giá hối đoái ở mức thấp, trình tự sẽ ngợc lại, dự trữ ngoại tệ tăng, cung tiền tăng, lãi suất
của tiền gửi nội tệ giảm, đồng nội tệ sẽ giảm giá và đồng ngoại tệ tăng giá.
Ngoài hai công cụ cơ bản nói trên, các quốc gia còn sử dụng một loạt công cụ khác

nh: nâng giá tiền tệ, phá giá tiền tệ, quỹ dự trữ bình ổn hối đoái.
1.2 Tác động của chính sách tỷ giá tới ngoại thơng.
Cơ sở và mục đích của thơng mại quốc tế
Đó chính là lợi thế so sánh và lợi thế nhờ quy mô. Sự khác biệt về tài nguyên thiên
nhiên, trình độ sản xuất và điều kiện sản xuất dẫn tới sự khác biệt về chi phí sản xuất và
giá cả sản phẩm giữa các nớc. Thông qua trao đổi quốc tế, các nớc có thể cung cấp cho
nền kinh tế thế giới những loại hàng mà họ sản xuất tơng đối rẻ hơn và mua của nền kinh
tế thế giới những loại hàng tơng đối rẻ hơn từ các nớc khác. Những lợi ích thơng mại này
càng lớn khi kết hợp với lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Thay vì mỗi nớc phải có nhiều cơ sở
sản xuất quy mô nhỏ không khai thác đợc công suất tối u, các nớc khác nhau có thể hợp
tác xây dựng những cơ sở sản xuất có qui mô lớn và mọi ngời đều đợc lợi do việc giảm
bớt những chi phí về sản xuất.
Trớc hết, dựa vào lợi thế so sánh của mình các nớc sẽ xuất khẩu những sản phẩm
mà mình sản xuất tơng đối có hiệu quả đó là những hàng hoá cần nhiều nguồn lực mà họ
dồi dào và nhập khẩu những sản phẩm mà họ sản xuất tơng đối kém hiệu quả hay đó là
những hàng hoá cần nhiều nguồn lực mà họ không có nhiều. Do các nớc có nguồn lực
khác nhau, nên một nớc có thể có nhiều lao động, tài nguyên phong phú nhng thiếu vốn và
trình độ công nghệ trong khi nớc khác có ít lao động nhng trình độ công nghệ cao nên khi
tham gia vào thơng mại quốc tế các nớc có thể phát huy đợc lợi thế của mình. Bên cạnh đó,
khi tham gia thơng mại quốc tế khả năng tiêu dùng ở mỗi nớc đợc mở rộng, mỗi ngời dân
đợc cung cấp nhiều loại hàng hoá hàng với chất lợng đợc cải thiện hơn, phong phú hơn và
thoả mãn đợc những nhu cầu cao hơn.
Mặt khác, dựa vào lợi thế kinh tế nhờ qui mô khi tham gia quan hệ thơng mại quốc
tế cũng thu đợc lợi ích, ngoài những lợi ích thu đợc từ lợi thế so sánh. Lợi thế qui mô giải
thích tại sao các nớc lại tiến hành thơng mại trong ngành đó là việc một nớc vừa xuất khẩu
và nhập khẩu cùng một loại hàng hoá nào đó. Do ngày nay sự phát triển của các nớc công
nghiệp ngày càng trở nên giống nhau về trình độ công nghệ và các nguồn lực, lợi thế so
sánh ở nhiều ngành không bộc lộ rõ nữa, cho nên để tiếp tục duy trì thơng mại quốc tế lợi
thế về qui mô thực hiện sự trao đổi nhiều chiều trong nội bộ ngành đợc coi là biện pháp
chiếm lợc. Thông qua thơng mại trong ngành, một nớc cùng một lúc có thể giảm bớt số

loại sản phẩm tự mình sản xuất và tăng thêm sự đa dạng của hàng hoá cho ngời tiêu dùng
trong nớc. Do sản xuất ít chủng loại hơn, nớc đó có thể sản xuất mỗi loại hàng hoá ở qui
mô lớn hơn, với năng xuất lao động cao hơn và chi phí thấp hơn. Vì vậy, ngời sản xuất sẽ
có lợi nhuận cao hơn và ngời tiêu dùng cũng đợc lợi hơn bởi chi phí rẻ hơn và có phạm vi
lựa chọn rộng hơn.
Mọi quốc gia khi tham gia vào thơng mại quốc tế đều có thể thu đợc lợi, những lợi
ích cụ thể này lại phụ thuộc vào điều kiện và trình độ phát triển của từng quốc gia. Nhng
cho dù với bất kỳ quốc gia nào thì không thể phủ nhận lợi ích thu đợc từ thơng mại quốc tế.
Và việc sử dụng tỷ giá hối đoái vừa là chính sách, vừa là công cụ có tác động lớn tới quy
mô và mức độ của những lợi ích này.
Vai trò của thơng mại quốc tế đến sự phát triển kinh tế của các nớc
Từ sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng thơng mại quốc tế đều mang lại lợi ích cho
các quốc gia tham gia. Nếu các nớc này biết khai thác các cơ sở thơng mại của mình thì sẽ
đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu và có thể đẩy nhanh quá trình phát triển nền kinh tế.
Trớc hết là hoạt động xuất khẩu, có tác động rất lớn đến phát triển kinh tế của đất
nớc. Hoạt động xuất khẩu kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần tăng tích luỹ
vốn, mở rộng sản xuất trong nớc, nâng cao trình độ tay nghề và thói quen làm việc của
những lao động trong sản xuất hàng xuất khẩu, tăng thu nhập, cải thiện mức sống của nhân
dân. Bên cạnh đó, ngoại tệ thu đợc sẽ làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ giúp cho quá trình ổn
định đồng nội tệ và chống lạm phát dẫn đến ổn định nền kinh tế.
Vai trò của xuất khẩu còn thể hiện ở việc tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Điều đó tạo ra những lợi thế so sánh mới của một
nớc và thúc đẩy ngoại thơng của nớc đó phát triển. Khi mà xuất khẩu càng phát triển, càng
có điều kiện mở rộng thị trờng tiêu thụ sản phẩm và tăng khả năng cung cấp những nguồn
lực khan hiếm cho quá trình sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất trong nớc. Đối với các
nớc đang phát triển thì xuất khẩu có thể nâng cao năng lực sản xuất trong nớc, còn đối với
các nớc phát triển xuất khẩu có thể giải quyết đợc mâu thuẫn giữa sản xuất và thị trờng.
Với vai trò to lớn đối với nền kinh tế nh vậy, các nớc cần khai thác hợp lý những lợi
ích thu đợc từ hoạt động xuất khẩu, nhất là trong giai đoạn đầu khi mới tham gia vào
thơng mại quốc tế.

Song song với hoạt động xuất khẩu là hoạt động nhập khẩu. Nếu nh xuất khẩu đợc
coi là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội thì nhập khẩu lại đợc coi là nền tảng
để thực hiện vai trò đó. Thực tế đã cho thấy, nhập khẩu có thể tác động trực tiến đến sản
xuất, kinh doanh và thơng mại thông qua việc đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất,
cung cấp các nguồn lực khan hiếm Đồng thời nhập khẩu còn giúp cho việc cải thiện và
nâng cao đời sống dân c của một nớc bằng việc cung cấp nhiều hàng hoá hơn, chất lợng
hơn và rẻ hơn.
Tuy nhiên, không nên khai thác quá mức lợi ích của nhập khẩu, nếu không sẽ có thể
biến quốc gia thành bãi thải của công nghệ lạc hậu, không thúc đẩy sản xuất trong nớc, tạo
tâm lý tiêu dùng trong nớc không tốt
Tác động của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái tới thơng mại
Có thể nói, tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là những công cụ kinh tế vĩ
mô chủ yếu để điều tiết cán cân thơng mại quốc tế theo mục tiêu định trớc của một nớc.
Trớc hết, tỷ giá và những biến động của tỷ giá có ảnh hởng trực tiếp đến mức giá cả
hàng hoá dịch vụ xuất nhập khẩu của một nớc. Khi tỷ giá thay đổi theo hớng làm giảm sức
mua đồng nội tệ, thì giá cả hàng hoá dịch vụ của nớc đó sẽ tơng đối rẻ hơn so với hàng hoá
dịch vụ nớc khác ở cả thị trờng trong nớc và thị trờng quốc tế. Dẫn đến cầu về xuất khẩu
hàng hoá dịch vụ của nớc đó sẽ tăng, cầu về hàng hoá dịch vụ nớc ngoài của nớc đó sẽ
giảm và tạo ra sự thặng d của cán cân thơng mại.
Ví dụ: Trớc đây 1USD = 14000VND . 1 chiếc máy tính giá 750USD đợc nhập khẩu
và tính ra đồng nội tệ của Việt Nam là 10.500.000VND. Đến nay, giả sử giá chiếc máy
tính không đổi, trong khi tỷ giá thay đổi 1USD = 15000VND thì cũng chiếc máy tính đó
đợc nhập khẩu và bán với giá 11.250.000VND. Giá đắt hơn, nhu cầu nhập máy tính sẽ
giảm. Nhng đối với xuất khẩu thì ngợc lại khi tỷ giá 1USD = l4000VND, giá xuất khẩu 1
tấn gạo với chi phí sản xuất là 3,5 triệu VND là 250USD, nhng với chi phí sản xuất không
đổi thì giá bán chỉ khoảng 233USD. Giá giảm cầu xuất khẩu sẽ tăng.
Trong trờng hợp ngợc lại, khi tỷ giá biến đổi theo hớng làm tăng giá đồng nội tệ. Sự
tăng giá của đồng nội tệ có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lợng ngoại tệ thu đợc
do xuất khẩu sẽ đổi đợc ít hơn đồng nội tệ. Tuy nhiên, đây là cơ hội tốt cho các nhà nhập
khẩu, nhất là nhập khẩu nguyên liệu, máy móc để phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nớc.

Đồng thời, lợng ngoại tệ chuyển vào trong nớc có xu hớng giảm xuống làm khối lợng dự
trữ ngoại tệ ngày càng bị xói mòn vì khuynh hớng giá tăng nhập khẩu để có đợc lợi nhuận,
có thể gây nên tình trạng mất cân đối cán cân thơng mại quốc tế.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái không chỉ tác động trực tiếp đến ngoại
thơng thông qua sự tác động của nó đến xuất khẩu, mà còn tác động một cách gián tiếp
đến ngoại thơng thông qua sự tác động làm thay đổi luồng di chuyển t bản ra vào quốc gia.
Nh khi tỷ giá thay đổi theo hớng giảm giá đồng nội tệ sẽ có tác động gia tăng việc thu hút
đầu t nớc ngoài. Khi luồng vốn chảy vào trong nớc sẽ tạo điều kiện mở rộng sản xuất trong
nớc, tránh đợc những rào cản của chính sách bảo hộ thơng mại, sẽ đẩy mạnh hoạt động
ngoại thơng.
Những tác động kể trên của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái đến hoạt
động ngoại thơng nói riêng và nền kinh tế nói chung làm cho các nhà quản lý ở các quốc
gia đều muốn quản lý, điều tiết tỷ giá và chính sách tỷ giá theo những mục tiêu kinh tế xã
hội đã định.
2. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC
2.1 Điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong quá trình cải cách và chuyển
đổi.
2.1.1 Thời kỳ chuyển từ chính sách tỷ giá cố định sang thả nổi theo sát với những diễn
biến của tỷ giá thị trờng( 1981- 1993)
Cho đến đầu những năm 1980, Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá cố định, gắn
đồng NDT luôn cao hơn giá trị thực của nó. Điều này kéo theo một loạt tiêu cực nh: hàng
xuất khẩu kém sức cạnh tranh, mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế. Ngân sách
quốc gia hàng năm phải bù lỗ nhiều cho cả sản xuất và tiêu dùng. Nh năm 1989 mức bù lỗ
là 76,3 tỷ NDT tơng đơng với 29% thu nhập tài chính. Vào lúc này tổng số nợ của Trung
Quốc lên tới 47 tỷ USD, trong khi dự trữ ngoại tệ quốc gia hầu nh cạn kiệt và lạm phát
trong nớc lên cao. Để đẩy mạnh xuất khẩu, nhằm đa đất nớc thoát khỏi khủng hoảng, đồng
thời cùng với việc thực hiện các biện pháp cải cách kinh tế, Trung Quốc đã liên tục tiến
hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa theo hớng giảm giá trị đồng NDT bị đánh giá
cao trớc đây cho phù hợp với sức mua thực tế của nó trên thị trờng trong suốt thời gian đầu
của quá trình cải cách cho đến đầu những năm 90.

Từ năm 1981-1985, Trung Quốc luôn luôn muốn thực hiện chế độ một loại giá hàng,
một tỷ giá thống nhất nhng do nhiều nguyên nhân nên trong giai đoạn cải cách này bên
cạnh sự tồn tại tỷ giá giao dịch thơng mại nội bộ, tỷ giá chính thức thờng xuyên thay đổi,
hầu hết là phá giá. Theo thống kê, đồng NDT đợc điều chỉnh 23 lần trong năm 1981, 28
lần trong năm 1982 và 56 lần trong năm 1984 ở các mức độ khác nhau để tiến tới tỷ giá
thực của nó. Cải cách, điều chỉnh phần lớn là phá giá dẫn đến tỷ giá chính thức ngang
bằng với tỷ giá nội bộ vào cuối 1984, và cuối cùng là thống nhất một tỷ giá. Cho tới cuối
những năm 80, tỷ giá chính thức ít biến động nhng lại có mức phá giá nhanh khi biến động,
bên cạnh đó sự phát triển của thị trờng ngoại hối đã tạo nên sự biến đổi mạnh mẽ của tỷ
giá. Ra đời từ đầu những năm 1980 ở Trung Quốc, thị trờng ngoại hối phát triển rất nhanh
từ sau năm 1986 dẫn tới hình thành một mạng lới thanh toán dựa vào thị trờng . Cơ sở cho
sự tồn tại thị trờng này là quyền tự chủ của các doanh nghiệp Trung Quốc cho phép các
nhà xuất khẩu đợc đợc giữ một phần ngoại hối, nhằm khuyến khích tăng khả năng hoạt
động xuất khẩu. Với sự hiện diện của thị trờng này, đã làm cho tỷ giá trao đổi từng bớc
đợc dao động tự do hơn.
Chính sách tỷ giá trong thời kỳ này đã giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu, giảm
thâm hụt cán cân thơng mại, cán cân thanh toán và đa đất nớc ra khỏi cuộc khủng hoảng
kinh tế. Nếu nh năm 1978 tổng kinh ngạch xuất nhập khẩu chỉ đạt 20,64 tỷ USD bằng
9,8% GDP, đứng thứ 27 trên thế giới về buôn bán đối ngoại và cán cân thơng mại là -
15.002 triệu USD thì nhờ thơng mại phát triển đến năm 1990 cán cân thơng mại là 8.646
triệu USD. Sau những điều chỉnh thử nghiệm thành công ban đầu, chính phủ Trung Quốc
tiếp tục điều chỉnh chính sách tỷ giá theo hớng đã vạch ra.
Cho nên, đầu những năm 90 (1991- 1993), Trung Quốc chính thức công bố áp dụng
một tỷ giá thả nổi. Trong giai đoạn này, tỷ giá trao đổi của đồng NDT thờng xuyên dao
động, đồng NDT hầu nh hạ giá. Nhờ tăng tỷ lệ ngoại hối phân bổ thông qua tơng tác giữa
cung và cầu trên thị trờng, những hoạt động kiểm soát về ngoại hối đã giảm dần, trong khi
đó các lực lợng thị trờng đợc tính đến nhiều hơn trong các quyết định liên quan đến tỷ giá.
Sau khi tỷ giá đợc điều chỉnh tơng đối sát với biến đổi của thị trờng và sức mua thực tế của
đồng NDT, tỷ giá danh nghĩa giữa đồng NDT với USD tơng đối ổn định ở mức 5,2 -> 5,8
NDT/USD. Tuy nhiên, mức điều chỉnh này đợc dựa vào mức giá giữa Trung Quốc và Mỹ

đã làm cho lạm phát cao ở Trung Quốc tác động xấu tới mục tiêu tăng trởng và thúc đẩy
xuất khẩu của nền kinh tế. Nh từ mức thặng d thơng mại là 9.165 triệu USD với tốc độ
lạm phát 3,06% năm 1990 thì đến năm 1993 cán cân thơng mại bị thâm hụt –10.654 triệu
USD và tốc độ lạm phát là 14,58%.
Có thể nói đây là những bớc đầu tiên của quá trình chuyển đổi tỷ giá hối đoá và
chính sách tỷ giá ở Trung Quốc, là giai đoạn để cho tỷ giá ấn định trớc đây đợc thả nổi
theo sát với những diễn biến của thị trờng.
2.1.2 Thời kỳ phá giá mạnh đồng NDT và thống nhất hai tỷ giá hớng tới một đồng NDT
có khả năng chuyển đổi (1994- 1997).
Nhận thấy nguy cơ đồng NDT có khả năng trở lại tình trạng bị đánh giá cao so với
sức mua thực tế, chính phủ Trung Quốc đã quyết định chuyển hớng điều chỉnh chính sách
tỷ giá hối đoái. Ngày 1-1-1994, đồng NDT chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5,8
NDT/USD xuống 8,7 NDT/USD, và thống nhất các mức giá thành một tỷ giá chung. Tuy
nhiên, tỷ giá danh nghĩa bắt đầu lên giá chậm chạp và cuối cùng ổn định ở mức
8,3NDT/USD. Để giảm bớt tác động của sự thay đổi trong chính sách tỷ giá lên thị trờng
tiền tệ, vào thời kỳ này chính phủ Trung Quốc đã ban hành một loạt những biện pháp hỗ
trợ và quản lý ngoại hối nh : thực hiện chế độ ngân hàng kết hối, xoá bỏ sự găm giữ ngoại
tệ và tăng giá ngoại hối của các công ty, xây dựng thị trờng giao dịch ngoại tệ liên ngân
hàng; cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái; xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối
với thu chi ngoại hối… kết hợp với kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng trung ơng Trung
Quốc. Đối với công ty nớc ngoài, Trung Quốc yêu cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ hàng
năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh với nớc ngoài phải có giấy phép đổi ngoại tệ
mạnh sang NDT. Còn đối với doanh nghiệp nhà nớc, yếu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu
đợc thay vì 50% trớc đây. Tuy nhiên, Trung Quốc đã có những điều chỉnh quản lý ngoại
hối lỏng hơn nh: cho phép các công nớc ngoài từng bớc đợc giao dịch, mua bán ngoại tệ
mạnh, tạo điều kiện để đồng NDT xâm nhập mạnh hơn vào thị trờng tiền tệ, tài chính thế
giới…
Kết quả của điều chỉnh và phá giá mạnh đồng NDT trong thời kỳ này của Trung
Quốc đã giúp nớc này không chỉ thu đợc những lợi ích trong ngắn hạn, nhanh chóng đẩy
mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên thị trờng quốc tế, mà còn tạo cơ

sở để Trung Quốc duy trì chính sách tỷ giá ổn định trong một thời gian dài, giảm thiểu
những rủi ro hối đoái và tạo môi trờng hấp dẫn thu hút mạnh các nguồn đầu t nớc ngoài.:
Năm 1994 1995 1996 1997
FDI- tỷ USD 33,79 35,84 40,18 44,23
Lạm phá (%) 24,2 16,9 8,3 8,3
XK- tỷ USD 121,0 148,8 151,2 182,9
NK- tỷ USD 115,7 129,1 138,9 142,2
Nguồn chính IMF. International Financial Statistics T5/2001
2.1.3 Chính sách tỷ giá duy trì ổn định đồng NDT yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu, tăng
trởng kinh tế cao và giảm những cú sốc từ bên ngoài (1997-nay).
Dới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, môi trờng kinh tế
quốc tế đã có nhiều biến động đáng kể. Các nớc bị khủng hoảng rơi vào tình trạng suy
thoái, mức sống của ngời dân bị sụt giảm đáng kể. Cuộc khủng hoảng này đã làm cho tốc
độ tăng trởng kinh tế và thơng mại toàn cầu chậm lại. Trung Quốc không phải là một
ngoại lệ. Xuất khẩu và đầu t nớc ngoài giảm mạnh. Vấn đề sản xuất d thừa ngày càng trở
nên trầm trọng trong các ngành công nghiệp chế biến. Giá thị trờng liên tục giảm xuống và
dần dần xuất hiện những dấu hiệu giảm phát.
Trớc tình hình đó, chính phủ Trung Quốc đã có chủ trơng không phá giá đồng NDT,
tỷ giá vẫn giữ ở mức 8,3NDT/USD, với biên độ giao đông là nhỏ. Nhờ đó mà những tác
động của cuộc khủng hoảng khu vực Châu Á đối với nền kinh tế Trung Quốc và cả nền
kinh tế thế giới đã ít nghiêm trọng hơn.
Để bảo vệ đồng NDT trớc tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, năm
1998 Trung Quốc đã quay trở lại kiểm soát chặt chẽ thị trờng ngoại hối, giảm nguy cơ đầu
cơ và găm giữ ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại tệ. Thu nhập ngoại tệ của các doanh nghiệp bắt
buộc phải bán cho những ngân hàng đã đợc chỉ định trớc, việc bán ngoại tệ cũng phải có
hoá đơn theo quy định mới đợc rút, thậm chí các nhà đầu t nớc ngoài cũng phải bán ngoại
tệ cho các ngân hàng Trung Quốc để đổi lấy một lợng NDT nhất định sử dụng trong lãnh
thổ nớc này. Song song với việc quản lý chặt chẽ thị trờng ngoại hối, để giảm bớt sức ép
đối với xuất khẩu và sự tăng trởng của nền kinh tế, Trung Quốc còn phối hợp với các
chính sách kinh tế nh nới lỏng chính sách tiền tệ và kích cầu. Trong năm này, Trung Quốc

đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất tiền cho vay và tiền gửi bằng đồng NDT, lãi suất chiết khấu
cũng giảm 1,91%, đồng thời với việc giảm cả lãi suất với các loại tiền gửi bằng ngoại tệ,
hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, kích thích tiêu dùng ở các tầng lớp dân c Với cơ chế
quản lý rất chặt chẽ nh vậy, tỷ giá giữa đồng NDT và USD vẫn cố định là 8,3NDT/USD
cho tới ngay nay.
Theo các chuyên gia hàng đầu về kinh tế thì cho rằng với tỷ giá hiện nay đồng NDT
đã bị đánh giá thấp khoảng 30% so với các đồng tiền khác,theo nhận định của Mỹ là 40%
và theo EU thì tỷ lệ này là 20%. Theo họ với tỷ giá thấp, đã tạo ra những lợi thế thơng mại
bất bình đẳng cho hàng Trung Quốc tràn ra thị trờng quốc tế, làm suy yếu sức cạnh tranh
của các nhà xuất khẩu khác. Cùng với những lợi thế về tài nguyên và nhân lực, việc duy trì
tỷ giá hối đoái không cân đối giữa NDT và USD trong lúc USD đang giảm đi tơng đối so
với các đồng tiền khác đang giúp các nhà xuất khẩu của Trung Quốc có lợi thế trong cuộc
chiến giá cả và nâng cao tính cạnh tranh thu hút đầu t của nớc này.
Còn về quan điểm của phía Trung Quốc lại trái ngợc với các nớc, họ cho rằng đồng
NDT không những không giảm giá mà trái lại còn đang lên giá so với các đồng tiền khác.
Theo nhận định của Trung Quốc thì về danh nghĩa trong giai đoạn 1994-2002, đồng NDT
đã tăng 5,1% so với đồng USD, tăng 17,9% so với đồng Euro và tăng 17% so với đồng
yên Nhật, nếu tính đến yếu tố lạm phát thì mức tăng thực tế của đồng NDT so với các
đồng tiền này là 18,5%, 39,4%, 62,9%. Mặc dù có những quan điểm trái ngợc nhau, thực
tế đã cho thấy cho tới nay việc điều chỉnh tỷ giá và chính sách tỷ giá trong thời gian qua đã
tạo ra khả năng góp phần giảm tác động trớc những cú sốc từ bên ngoài và đạt đợc thành
tựu to lớn kể từ năm 1997.
Trong năm 2002, tổng doanh số thơng mại của Trung Quốc đạt 620,79 tỉ USD,
trong đó xuất khẩu tăng 22,3%, đạt 325,57 tỉ USD; nhập khẩu tăng 21,2%, đạt 295,22 tỉ
USD. Thặng d thơng mại đạt 30,33 tỉ so với 22,6 tỉ USD trong năm 2001. Dự trữ ngoại tệ
đạt mức cao kỷ lục là 286,4 tỉ USD. Tốc độ tăng trởng trung bình của nền kinh tế Trung
Quốc là 8%/năm, và cao nhất trên thế giới.
Mặt khác, đồng NDT hiện đang mạnh lên so với đồng USD. Tuy cha phải là đồng
tiền có thể chuyển đổi hoàn toàn, nhng nó đang ngày càng đợc sử dụng nhiều ở bên ngoài
biên giới Trung Quốc, đặc biệt là dọc biên giới Trung Quốc với các nớc Đông Nam Á.

Theo tính toán hiện có khoảng 30 tỷ NDT đang lu hành ở bên ngoài Trung Quốc, điều này
chứng tỏ niềm tin của quốc tế vào kinh tế Trung Quốc. Và đồng NDT đợc dự đoán là sẽ
đóng vai trò khu vực lớn hơn đồng Eruo, có thể trở thành đồng tiền dự trữ thay thế các
đồng tiền quốc tế khác ở Châu Á.
Bên cạnh những thành tựu đạt đợc một phần là nhờ vào chính sách tỷ giá hiện nay,
thì vẫn còn những hạn chế. Khi mà đồng tiền giảm giá, nó làm cho các khoản vay bằng
ngoại tệ của nớc đó và rủi ro của đầu t trong tơng lai tăng lên khi các nhà đầu t dự kiến
tăng về tính không ổn định của tỷ giá hối đoái. Hiện nay, nợ quá hạn của Trung Quốc đã
lên đến mức 1.800 tỷ nhân dân tệ, tơng đơng 140% GDP so với mức 88% trong năm 1996.
Và những khoản nợ khó đòi tập trung ở bốn ngân hàng lớn của Trung Quốc- đó là những
ngân hàng hiện nay mất khả năng thanh toán xét trên phơng diện kỹ thuật. Kể từ 1998 đến
nay, Trung Quốc đã bỏ ra 200 tỷ USD để tái cấp vốn và mua lại các khoản nợ khó đòi của
các ngân hàng. Mặc dù hiện nay Trung Quốc đang phải đối mặt với tình hình tài chính bất
ổn, nhng chính phủ Trung Quốc vẫn hết sức thận trọng tránh làm tổn hại đến xuất khẩu.
Theo cảnh báo của các nhà nghiên cứu kinh tế, rằng việc điều chỉnh giá trị của đồng nhân
tệ có thể làm cho kinh tế Trung Quốc "mất ổn định" do khuyến khích các luồng vốn đầu t,
làm tăng s phụ thuộc của nền kinh tế vào yếu tố bên ngoài nhất là khi hiện nay có tới 50%
hàng xuất khẩu là của doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài. Đây chính là sự mâu thuẫn mà
việc lựa chọn chính sách tỷ giá phải đối mặt.
Tóm lại: Đầu những năm 1980, khi Trung Quốc bớc vào công cuộc cải cách và mở
cửa kinh tế, Trung Quốc ấn định mức tỷ giá 2,4 NDT/USD. Tới những năm 1990, khoảng
10 năm sau cải cách, nền kinh tế Trung Quốc có những bớc phát triển mạnh mẽ thể hiện ở
xuất khẩu và tốc độ tăng trởng kinh tế. Các nhà quản lý ở Trung Quốc hiểu rằng một tỷ giá
hối đoái cố định sẽ không giúp kích thích tăng trởng và xuất khẩu.
Do vậy Trung Quốc bắt đầu hớng tới một cơ chế tỷ giá mềm dẻo với sự tham gia
nhiều hơn của yếu tố thị trờng nhng vẫn có sự kiểm soát của nhà nớc. Tỷ giá đồng NDT
vào khoảng 5,8 - 5,9 NDT/USD những năm 1990-1993. Đến cuối năm 1993, đầu năm
1994, để kích thích xuất khẩu hơn nữa, Trung Quốc đã quyết định chuyển tỷ giá lên 8,7
NDT/USD. Sau nhiều lần điều chỉnh, tỷ giá này dừng ở mức khoảng 8,2 - 8,3 NDT/USD
và duy trì từ năm 1994 tới nay.

2.2 Tác động chính sách tỷ giá TQ tới thơng mại một số nớc.
Tác động tới Mỹ
Từ năm 1993, Trung Quốc và Mỹ đã mở rộng quan hệ buôn bán. Năm 2000, Mỹ
chiếm 20,9% kim ngạch xuất khẩu và trở thành đối tác quan trọng số một trong xuất khẩu
hàng hoá của Trung Quốc, xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc sang Mỹ đạt 103,3 tỷ USD,
chiếm 8,2% giá trị nhập khẩu của Mỹ. Trung Quốc trở thành đối tác nhập khẩu lớn thứ 5
của Mỹ. Thơng mại của Mỹ với Trung Quốc đã tăng 50%. Tuy nhiên, trong những năm
qua Mỹ chủ yếu bị thâm hụt thơng mại với Trung Quốc.
Năm 2002, thâm hụt thơng mại của Mỹ vào khoảng 500 tỷ USD thì có tới 103 tỷ
USD là thâm hụt với Trung Quốc. Trong 8 tháng đầu năm 2003, xuất siêu của Trung Quốc
sang Mỹ lên tới 120 tỷ USD, trong khi nhập khẩu tăng không đáng kể, chỉ nhích từ 13 lên
19 tỷ USD.
Mỹ cho rằng việc Trung Quốc kìm giữ tỷ giá giao dịch đồng NDT trong một biên
độ hẹp khoảng 8,3 NDT/USD trong một thời gian dài đã giúp các nhà xuất khẩu Trung
Quốc có đợc lợi thế cạnh tranh không công bằng trên thị trờng thế giới và ngay cả trên thị
trờng Mỹ, khiến nhiều việc làm Mỹ trong khu vực sản xuất khàng xuất khẩu bị cắt giảm.
Trong những năm vừa qua, do buôn bán bất lợi với Trung Quốc, Mỹ đã mất đi khoảng 2,6
triệu công ăn việc làm chiếm 10% trong tổng số ngời thất nghiệp vì các cơ sở sản xuất ở
Mỹ khó lòng cạnh tranh với chính sách về giá đối với các hàng nhập khẩu của Trung Quốc.
Hơn nữa, có một đồng NDT rẻ đã khiến môi trờng đầu t của Trung Quốc hấp dẫn và các
nhà đầu từ Mỹ đã và đang chuyển sang đầu t sản xuất ở Trung Quốc.
Do những nguyên nhân trên, Mỹ đang gia tăng sức ép với Trung Quốc trong vấn đề
điều chỉnh chính sách tỷ giá. Một loạt những chuyến viếng thăm, gặp gỡ, bài phát biểu của
các quan chức chính quyền ông Bush với Trung Quốc diễn ra gần đây nhằm gây áp lực để
Trung Quốc chấm dứt tình trạng can thiệp vào tiền tề và để thị trờng quyết định tỷ giá giữa
nhân dân tệ và đô-la. Tuy nhiên, cũng có thể Mỹ chỉ gây sức ép để Trung Quốc điều chỉnh
chút ít giá trị nhân dân tệ để tránh gây thiệt hại lớn về xuất khẩu cho Trung Quốc. Cong
nếu Mỹ buộc Trung Quốc phải nhanh chóng điều chỉnh giá trị NDT nh là một thủ đoạn
chính trị thì sẽ dẫn đến cuộc tranh chấp thơng mại giữa hai bên.
Tác động tới Nhật Bản

Sự tăng trởng chậm chạp của nền kinh tế Nhật hơn một thập kỷ qua đã buộc chính
phủ nớc này cần can thiệp mạnh mẽ vào thị trờng ngoại hối, cố gắng duy trì đồng yên yếu
để tăng trởng xuất khẩu nhằm khôi phục nền kinh tế. Chỉ chiếm 12% GDP của Nhật, nhng
xuất khẩu hiện là nguồn động lực tăng trởng duy nhất hữu hiệu hiện nay. Ngoài ra, một
đồng yên yếu còn giúp đẩy giá hàng hoá nhập khẩu lên cao, đặc biệt là hàng hoá từ Trung
Quốc, nhờ đó trợ giúp đợc các nhà sản xuất trong nớc và đẩy chỉ số giá cả lên cao. Cho
nên chính sách của Trung Quốc hiện nay có thể làm tổn hại tới xuất khẩu của Nhật Bản.
Trớc hết, để đối phó với thâm hụt thơng mại ngày càng lớn một phần là do thâm hụt
thơng mại với Trung Quốc ngày càng tăng, chính phủ Mỹ đã theo đuổi chính sách đồng
USD yếu. Điều này đã khiến cho đồng Yên Nhật tăng giá chóng mặt so với đồng USD làm
cho hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản trở nên đắt đỏ hơn, cản trở sự phục hối yếu ớt của
nền kinh tế Nhật Bản. Đồng thời với đồng NDT yếu, hàng hoá Trung Quốc tràn ngập các
thị trờng và cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hoá Nhật đặc biệt là thị trờng Mỹ và Nhật. Theo
thống kế do Bộ tài chính của Nhật đa ra cho thấy rằng, quan hệ thơng mại qua lại Mỹ-Nhật
đã giảm đi đột ngột trong 10 tháng đầu năm 2002. Mặc dù thặng d thơng mại của Nhật
giảm, nhập khẩu của họ từ Trung Quốc đã tăng lên 6,31 nghìn tỷ yên trong một năm so với
6,04 nghìn tỷ yên nhập khẩu từ Mỹ.
Rõ ràng, cũng nh Mỹ, Nhật Bản đang chịu những tác động không nhỏ từ chính sách
tỷ giá của Trung Quốc hiện nay. Họ cũng đang kêu gọi Trung Quốc cần tăng giá đồng
nhân dân tệ của mình.
Tác động tới EU
Do các nớc EU là một liên minh tiền tệ, nên đồng NDT đợc đánh thấp so với đồng
Euro nh hiện nay sẽ ảnh hởng tới toàn khối, tuy nhiên mức độ ảnh hởng ở các nớc là khác
nhau tuỳ thuộc vào mối quan hệ của các nớc. Nói chung, các nớc này đều đang phải cạnh
tranh gay gắt với Trung Quốc về giá cả hàng hoá xuất khẩu không chỉ trên thị trờng ngoài
khối mà còn cả trong khối.
Theo thống kê, thâm hụt thơng mại giữa EU và Trung Quốc hiện đã lên tới 47 tỷ
euro (tơng đơng 52 tỷ USD), trong khi đó con số tơng đơng giữa Mỹ và Trung Quốclà 103
tỷ USD. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do Trung Quốc vẫn duy trì chính
sách đồng NDT yếu.

Tuy nhiên, không giống nh Nhật, Mỹ thúc ép Trung Quốc thả nổi đồng tiền, EU
nhấn mạnh việc cải tiến để có một đợc một hệ thống tỷ giá linh hoạt hơn là rất cần thiết
nhng phải đợc tiến hành một cách thận trọng.
Có thể nhận thấy rằng, hiện nay, không nớc muốn có một đồng tiền mạnh và trong
bối cảnh đồng USD giảm giá trên thị trờng tiền tệ thế giới thì đã làm các đồng tiền đồng
loạt tăng giá trong khi đồng NDT vẫn ở mức thấp. Điều này, dấy lên sự phản đối của các
nớc ở mức độ khác nhau đặc biệt là ba nớc lớn trên.
3. TRIỂN VỌNG THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC VÀ
TÁC ĐỘNG CÓ THỂ CÓ TỚI VIỆT NAM.
3.1 Triển vọng thay đổi chính sách tỷ giá của Trung Quốc và tác động có thể có tới
Việt Nam.
Triển vọng thay đổi chính sách tỷ giá của Trung Quốc
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều hiểu rằng việc tăng giá trị đồng NDT sẽ khiến
cho tốc độ tăng trởng kinh tế chậm lại. Trớc hết, tác động trực tiếp của đồng tiền mạnh là
làm cho xuất khẩu của Trung Quốc gặp khó khăn do hàng xuất khẩu giảm tính cạnh tranh
về khía cạnh giá, từ đó dẫn tới tình trạng các DN phải đóng cửa và thất nghiệp tăng. Đồng
thời giảm thu hút đầu t nớc ngoài, gián tiếp tăng chi phí đầu vào của hàng xuất khẩu dẫn
đến giá tăng, giảm qui mô sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nay, xuất khẩu và đầu t nớc
ngoài đang là đòn bẩy chính cho tăng trởng kinh tế Trung Quốc. Nên chính phủ Trung
Quốc hết sức tránh những tổn thất gây bất ổn cho nền kinh tế, đặc biệt là khu vực xuất
khẩu và đầu t nớc ngoài. Mặt khác, do các nhà đầu t t nhân, các doanh nghiệp và tổ chức
tài chính Trung Quốc sở hữu nhiều tài khoản ở hải ngoại số này chiếm khoảng 10-20%
GDP chủ yếu bằng đồng USD nếu có dấu hiệu đồng NDT lên giá họ sẽ bán thống bán tháo
USD dẫn đến giảm phát mạnh trong nớc, tổn hại nghiêm trọng đến nền kinh tế.
Tuy nhiên, do Trung Quốc gia nhập WTO cũng phải đối mặt với sức ép mở cửa
ngành tài chính, dịch vụ ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng và định chế tài chính nớc
ngoài sẽ đợc kinh doanh bằng đồng NDT tại Trung Quốc vào năm 2006. Đến lúc đó, tỷ giá
tiền tệ sẽ đợc quyết định hoàn toàn bởi thị trờng.
Trớc áp lực này, Trung Quốc cũng đang trong quá trình mở cửa khu vực tài chính,
ngân hàng để nâng cao năng lực và tăng tính cạnh tranh cho các ngân hàng trong nớc.

Nh vậy, một sự thay đổi tỷ giá đồng NDT ngay lập tức sẽ khó xảy ra nhng rất có thể
Trung Quốc sẽ áp dụng một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn đợc điều tiết chủ yếu bởi
lực lợng thị trờng. Hoặc cũng có thể Trung Quốc sẽ áp dụng một biên độ giao động rộng
hơn đối với tỷ giá đồng NDT thay vì một biên độ quá hẹp nh hiện nay để khẳng định nớc
này ấn định tỷ giá hối đoái dựa trên tình hình cung cầu tiền tệ của thị trờng. Tỷ giá này cho
thấy Trung Quốc có trách nhiệm cao đối với cộng đồng quốc tế và Trung Quốc không thay
đổi tỷ giá hiện nay vì Trung Quốc cần bảo đảm ổn định nền kinh tế. Rõ ràng là Trung
Quốc muốn rút ra bài học từ Nhật Bản trong những năm 1980 khi nớc này tăng giá đồng
Yên từ 300 yên/USD vào năm 1985 lên gần 150 yên/USD năm 1987, khiến nền kinh tế
Nhật trở nên tồi tệ và suy yếu một thời gian dài. Đồng thời, Trung Quốc cũng không chấp
nhận việc phá giá mạnh đồng NDT để tránh rơi vào cuộc khủng hoảng.
Từ sự phân tích trên, ta thấy rằng mặc dù trớc áp đòi phá giá đồng NDT của Mỹ,
Nhật Bản, EU và một số nớc khác Trung Quốc kiên quyết không thay đổi chính sách tỷ giá
hối đoái hiện nay. Mà có chủ trơng sẽ từng bớc nới lỏng tỷ giá đồng NDT trong vòng 5%
trong thời gian tới.
Tác động có thể có tới Việt Nam
Trung Quốc và chúng ta là hai nớc láng giềng có mối quan hệ lịch sử rất lâu đời.
Cho nên, chúng ta và Trung Quốc có rất nhiều điểm tơng đồng về phong tục tập quán, thói
quen , dẫn đến sự tơng đồng trong sản xuất và đời sống xã hội. Điều đó khẳng định rằng,
sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc tác động không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam.
Do buôn bán thơng mại giữa ta và Trung Quốc không nhiều cho nên việc điều chỉnh
tỷ giá của Trung Quốc không mấy ảnh hởng đến quan hệ ngoại thơng giữa hai nớc. Chúng
ta hiện đang xuất khẩu sang Trung Quốc khoảng 1,5 tỷ USD, chiếm 9% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam, nhập khẩu khoảng 2,2 tỷ USD. Phần lớn các giao dịch chủ yếu
diễn ra tại biên giới Việt - Trung, giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở vùng ven Trung
Quốc. Nh vậy, tác động trực tiếp từ việc tăng giá NDT sẽ không ảnh hởng nhiều đến mậu
dịch song phơng. Tất nhiên việc này đòi hỏi các DN Việt Nam đang nhập khẩu hàng
Trung Quốc sẽ phải tính toán mở rộng thị trờng nhập khẩu của mình bởi giá hàng Trung
Quốc sẽ cao hơn. Tuy nhiên, tác động rõ nét hơn cả là tác động gián tiếp.
Mặc dù, Việt Nam cha phải là đối thủ cạnh tranh của Trung Quốc. Nhng trên một

vài lĩnh vực, Việt Nam cũng có lợi thế tơng đồng nh Trung Quốc nh một số mặt hàng đan,
mây tre, hàng thủ công mỹ nghề truyền thống. Trở thành đối thủ cạnh tranh ngang sức với
nhau trên thị trờng Mỹ, EU và một số thị trờng khác. Do đó, thay đổi tỷ giá, hàng xuất
khẩu của Trung Quốc có thể kém cạnh tranh hơn tại thị trờng nớc thứ ba và Trung Quốc sẽ
kém hấp dẫn hơn trong việc thu hút đầu t. Đây là cơ hội cho Việt Nam tăng vị thế xuất
khẩu của mình cũng nh thu hút nhiều đầu t nớc ngoài hơn.
3.2 Một số kiến nghị.
Từ năm 1989, nhà nớc ta đã bắt đầu áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát,
đồng thời cố gắng thống nhất các tỷ giá hối đoái bằng cách thờng xuyên điều chỉnh tỷ giá
chính thức cho phù hợp với tỷ giá trên thị trờng tự do. Đến giữa năm 1991, việc thống nhất
tỷ giá đã đợc hoàn thành và hiện nay tỷ giá đợc Ngân hàng nhà nớc niêm yết căn cứ vào
kết quả của thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng ở các buổi giao dịch. Việc áp dụng chế độ
này đã phát huy những u điểm nhất định, vừa thúc đẩy xuất khẩu gia tăng vừa ổn định đợc
thị trờng ngoại hối, giúp cho nền kinh tế phát triển. Trong thời gian gần đây, tỷ giá đồng
VND so với USD là khá ổn định và mức dao động tơng đối nhỏ. Theo đánh giá, thì hiện
nay đồng tiền Việt Nam đợc đánh giá cao so với các đồng tiền trong khu vực. Một hiện
tợng có thể ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, ảnh hởng đến việc làm gia
tăng tổng cầu thông qua phát triển xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và cả trong việc thu hút
đầu t trực tiếp nớc ngoài.
Từ việc phân tích chính sách tỷ giá của Trung Quốc nói trên, liệu Việt Nam có thể
phá giá mạnh đồng VND hiện nay không ?. Theo em, trớc mắt không nên phá giá đồng
VND mà chỉ điều chỉnh từng bớc cho phù hợp với giá trị thực của nó, nếu có một sự điều
chỉnh mạnh mẽ sẽ làm tổn hại đến nhiều mặt của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, hệ số co giãn đối với nhu cầu hàng xuất nhập khẩu là nhỏ. Bởi vì, nhu
cầu nhập khẩu chủ yếu xuất phát từ sự gia tăng cầu các hàng hoá trung gian và t liệu sản
xuất cần thiết trong sản xuất chiếm 85 - 90% trong tổng kinh ngạch nhập khẩu mà cung
trong nớc thiếu, khả năng thay thế rất hạn chế giữa hàng nhập và sản xuất trong nớc và
phần lớn hàng xuất khẩu là nông sản gần 75% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, mà các sản
phẩm này cần thời gian sản xuất rất dài và có nhu cầu trong nớc rất hạn chế.
Ngoài ra, các mặt hàng xuất khẩu của nớc ta chất lợng cha cao, kém khả năng cạnh tranh

tại một số thị trờng, công nghệ cha phát triển nên cha thể tập trung hết vào chiếm lợc
xuất khẩu. Mà hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ chiếm lợc thay thế
nhập khẩu sang chiếm lợc xuất khẩu.
Biện pháp phá giá có thể làm cho khoản nợ nớc ngoài tăng khá lớn, đẩy các doanh
nghiệp t nhân có khoản nợ nớc ngoài vào tình hình tài chính khó khăn. Và chính phủ sẽ là
ngời đảm nhận trách nhiệm cuối cùng về các khoản nợ này, thanh toán chúng để tránh các
cuộc phá sản và tình trạng thất nghiệp. Đơng nhiên tình hình nh vậy có thể làm tăng thâm
hụt ngân sách, tăng nguy cơ phát hành tiền gây lạm phát. Đặc biệt, đối với nớc ta, khi mà
dự trữ ngoại hối còn thiếu, ngân hàng trung ơng cha kiểm soát đợc cung cầu về tiền tệ.
Bản thân biện pháp phá giá dẫn đến nguy cơ lạm phát gia tăng. Bởi lẽ, ở nớc ta nhu
cầu vật t cần thiết, các đầu vào khác cho sản xuất, thiết bị và hàng tiêu dùng một phần đều
nhập khẩu. Giảm giá đồng tiền trong nớc làm cho giá hàng nhập khẩu tính băng đồng nội
tệ tăng lên, tạo ra sức ép đối với mức giá trong nớc. Nguy cơ khác là phá giá tiền tệ có thể
dẫn đến cuộc suy thoái đi kèm lạm phát. Đó là việc tăng giá trong giai đoạn đầu sẽ làm
giảm bớt sức mua, trong khi đó làm tăng chi phí trong nớc.
Nh vậy, chính sách tỷ giá hiện nay của nớc ta là tơng đối hợp lý và linh hoạt hơn so
với Trung Quốc, có sự tham gia của nhiều yếu tố thị trờng hơn. Cho nên, trong thời gian
tới không nên điều chỉnh mạnh mẽ đồng VND hay là phá giá nó.
KẾT LUẬN
Hiện tợng sụp đổ một hệ thống kinh tế của một nớc nào đó kéo theo sự sụp đổ của
các nớc khác, nh cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu Á năm 1997 và các cuộc khủng hoảng
gần đây ở các nớc Châu Mỹ La Tinh, đợc lý giải từ việc sử dụng các mô hình chính sách
tiền tệ không thành công nói chung hay chính sách tỷ giá nói riêng, và mối liên hệ chặt chẽ
giữa các hệ thống tài chính tiền tệ của các nớc. Ngợc lại, hiện tợng này là sự thành công
của công cụ chính sách tiền tệ hay cụ thể hơn là chính sách tỷ giá đã đem lại những thành
tựu to lớn về mặt kinh tế cho một số quốc gia. Trung Quốc là một ví dụ điển hình. Mặc dù,
bài phân tích nêu trên cho thấy sự thành công của Trung Quốc trong công cuộc cải tổ và
chuyển đổi nền kinh tế trong gần 20 năm qua, có phần đóng góp quan trọng trong cách
điều hành khá nhạy cảm chính sách tỷ giá hối đoái của chính phủ Trung Quốc. Mặc dù,
Trung Quốc cha phải là một nớc có nền kinh tế thị trờng hoàn thiện. Nhng thực tiễn điều

hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong những năm qua thể hiện có sự phân tích sâu
sắc những bài học của nền kinh tế thị trờng từ các nớc phát triển đến các nớc đang phát
triển và vận dụng một cách phù hợp vào hoàn cảnh thực tế của Trung Quốc. Đặc biệt, khi
Trung Quốc hội nhập với thế giới nh hiện nay, mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa nền kinh
tế Trung Quốc và các nớc càng nhiều thì những tranh cãi về giá trị đồng NDT càng gay gắt.
Nhng các nhà điều hành chính sách của Trung Quốc đã vững vàng và kiên định trong việc
bảo vệ giá trị đồng NDT vì những mục tiêu đã định. Có thể nói, việc hoạch định và điều
hành chính sách của Trung Quốc trong thời gian qua là những bài học bổ ích giúp cho Việt
Nam lựa chọn và điều hành tỷ giá và chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với mục tiêu cuối
cùng của nền kinh tế.

×