Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.06 KB, 30 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

BÀI THẢO LUẬN
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC MUỐN THẮNG
LỢI PHẢI ĐI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN
Nhóm 2
Hà Nội 10/2010
1
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC MUỐN THẮNG LỢI
PHẢI ĐI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN.
Giảng viên : Nguyễn Lan Phương
Nhóm thảo luận : Nhóm 2
Lớp : Tư tưởng Hồ Chí Minh 44
(thứ 2, ca 3, P201)
Nhóm 2: Gồm các thành viên:
1. Đặng Thị Kim Ngân
2. Nguyễn Đức Tiến
3. Lê Thị Mơ
4. Lê Thị Thu Hằng
5. Lê Hoàng Anh
6. Nguyễn Mạnh Hùng
7. Nguyễn Thanh Hải
8. Trần Hoàng Hiệp.
2
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường Cách mạng vô sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, Nhà lý luận thiên tài của Cách
mạng Việt Nam. Người đó nờu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu và vận
dụng chủ nghĩa Mỏc-Lenin trên tinh thần độc lập, tự chủ, sang tạo. Người đã
nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân


đạo của học thuyết Mỏc-Lenin, vận dụng một cách sang tạo học thuyết ấy phù
hợp với hoàn cảnh thực tế nước ta. Đống thời, Người đã kế thừa và phát huy
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ nguồn gốc đó. Việc Đại hội VII
khẳng định chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng
của Đảng và kim chỉ nam cho hành động là một bước phát triển hết sức quan
trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Trong khi giải quyết các vấn đề của Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan
trọng, đặc biệt là lý luận về Cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa
xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Trong lý luận của Hồ Chí Minh về
Cách mạng giải phóng dân tộc có chỉ ra rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc
muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Chúng ta sẽ cùng đi
sâu tìm hiểu vấn đề này.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn (nay là thành phố
Hồ Chí Minh), Người đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm buôn ba, đặt
chân lên nhiều châu lục, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các
nước tư bản chủ yếu và nhiều nước thuộc địa của chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã sớm nhận thức được xu hướng của thời đại, từ 1 người yêu nước nồng nhiệt,
Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lenin, và rút ra kết luận rằng: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác Cách mạng vô sản”.
Đó là con đường Cách mạng tư sản dân chủ kiểu mới do Đảng tiên phong của
giai cấp công nhân lãnh đạo, nhằm lật đổ đế quốc, phong kiến tay sai, giành độc
lập dân tộc, thực hiện “người cày có ruộng” sau đó tiến lên Cách mạng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
nhằm tiến tới mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người.
I. Rút ra bài học kinh nghiệm từ sự thất bại của các con đường cứu
nước trước đó:

3
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân pháp, ông cha ta đã sử
dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử
dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau.
Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh
dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, nhưng rút cuộc đều
bị thực dân phỏp dỡm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tỡnh hỡnh đen tối
tưởng như không có đường ra”. Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu
nước ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con
đường cứu nước mới.
Thử nhìn lại vị trí của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong hành trình
dân tộc vào thế kỷ XX:
Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa,
Đêm sao đêm mãi thế ru mà?
(Tú Xương, “Đờm dài”, đầu thế kỷ XX)
Hai câu thơ trên của Tú Xương đã nêu lên tình hình đen tối nước ta lúc đó
một cách khái quát nhất.
Khoảng một trăm năm trước, khi tại các quầy rượu, quán cà-phê ở những
thành phố tiêu biểu cho văn hóa Tây phương vào cuối thế kỷ XIX như Paris,
Vienne, Berlin, khách văn nhân nghệ sĩ gặp nhau đàm luận về những tư trào
trong văn học nghệ thuật Tây phương lúc bấy giờ như “nghệ thuật vị nghệ
thuật” (l’art pour l’art), chủ nghĩa duy mỹ (aestheticism) hay trường phái tự
chiêm ngưỡng (narcissism), thì ở xứ Đông Dương xa xôi bên kia nửa vòng trái
đất, nước ta hãy còn im lìm trong giấc nồng của đêm dài mất nước và ngay cả
cái tên Việt Nam vẫn chưa được mấy ai nghe biết đến. Ngọn lửa Cần Vương
kháng chiến cuối cùng ở Vũ Quang do Phan Đỡnh Phựng lãnh đạo cũng đã bị
dẹp tắt (1896). Dưới chính sách của toàn quyền Paul Doumer là triệt để khai
thác nhân lực cùng tài nguyên của xứ thuộc địa này nhằm phục vụ tối đa cho
quyền lợi của mẫu quốc, từ 1902 - năm ở Hà Nội người Pháp rầm rộ làm lễ
khánh thành cầu Doumer (tức cầu Long Biên sau này) - Đông Dương bắt đầu

mang lại những lợi lộc kinh tế và tài chánh cho nước Pháp trong khi tuyệt đại đa
số người Việt phải chịu cảnh tụi đũ ngay chớnh trờn quê hương của họ. Về sau,
khi viết hồi ký Doumer đã kiêu hãnh ghi lại như sau: “Khi Pháp mới đến Đông
Dương, nước An Nam đã chín muồi trong tình cảnh nô lệ”!
Trong hoàn cảnh đất nước bi đát như thế, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
là hai sĩ phu, hai bậc đại hào kiệt đi hàng đầu trong vận động giành lại độc lập
dân tộc vào giai đoạn giao thời 25 năm đầu thế kỷ XX. Tuy cùng chung hoài
bão cứu nước, lập trường của hai nhà chí sĩ họ Phan trên một số vấn đề căn bản
của đất nước lại rất khác nhau, thậm chí có khi tương phản. Trong nhiều năm
4
gần đây, sau nhiều lần đọc lại các trước tác của hai nhận vật kiệt hiệt này, chúng
tôi nhận thấy có nhiều kinh nghiệm của người xưa - thành công cũng như thất
bại - vẫn còn ý nghĩa cho đến ngày nay.
Trong khuôn khổ bài viết này, ta hãy thử nhìn lại vị trí và đánh giá vai trò
của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX.
“Gọi hồn nước”
Vào những năm đầu thế kỷ XX, làn sóng duy tân từ Nhật Bản dội sang nước
ta qua những "tân thư" (sách mới) và "tân văn" (báo mới" của Lương Khải Siờu
cựng cỏc nhà cải lương Trung Quốc khác. Những trang sách "tân thư" "tân văn"
mang đến cho các sĩ phu yêu nước không khí rạo rực của cuộc Minh Trị Duy
tân ở Nhật Bản và khí thế sôi sục của Mậu Tuất Chính biến (1898) ở Trung
Quốc. Sĩ phu Việt Nam lần đầu tiên nghe đến các học thuyết dân chủ, dân
quyền, chủ nghĩa lập hiến và làm quen với cỏc tờn nghe lạ tai như Mạnh-đức-
tư-cưu (Montesquieu), Lư-thoa (Rousseau), Phỳc-lộc-đặc-nhĩ (Voltaire), v.v
Từ chỗ "ếch ngồi đáy giếng thấy bao nhiêu trời", họ bắt đầu có tầm nhìn "doanh
hoàn" (toàn cầu) - dĩ nhiên điều này không có nghĩa là ai ai nay cũng có thể
nhìn một cách khách quan về đất nước hay về thế giới bên ngoài. Quan điểm
cạnh tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua (survival of the fittest) qua thuyết tiến
hóa xã hội (social Darwinism) của Dật-nhĩ-văn (Darwin) mà ngày đó hãy còn
gọi là thuyết "vật cạnh" (vạn vật cạnh tranh để sinh tồn), "thiên diễn luận" (sự

tiến hóa tự nhiên của sự vật) hay thuyết "tự do đào thải", khiến họ ý thức sâu sắc
hơn về hiểm họa mất nước.
5
Phan Bội Châu về sau đã ghi lại trong tự truyện: "Tụi vỡ xem những pho
sách ấy mới hiểu qua được tình hình cạnh tranh ở trong hoàn hải, thảm trạng đất
nước diệt chủng lại càng kích thích trong đầu sâu sắc hơn". Nỗi lo diệt chủng
cũng được nhắc nhở trong bài "Đề tỉnh quốc dân ca" (không rõ tên tác giả) lưu
truyền rộng rãi trong nước vào năm 1906:
Nỗi diệt chủng bề thương bề sợ
Nòi giống ta biết cú cũn khụng?
Trong hàng ngũ các sĩ phu yêu nước vào đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu có
lẽ là người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thức tỉnh hồn nước. Thơ
văn Phan Bội Châu có ảnh hưởng sâu rộng đối với người đọc không chỉ vì
những dòng thơ Phan mang nhạc điệu trầm hùng thiết tha, khi rạo rực sôi nổi,
mà cũng vì những gì Phan nói lên thường khơi dậy nỗi nhục mất nước và kích
động những cảm xúc sâu xa của tình tự dân tộc. Những câu sau đây ngày ngay
đọc đến ta vẫn thấy xao xuyến trong lòng, huống hồ là đối với độc giả sống
trong tình trạng "mất nước" vào đầu thế kỷ XX:
Lời huyết lệ gửi về trong nước,
Kể tháng ngày chửa được bao lâu
Nhác trông phong cảnh Thần châu,
Giú mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ
Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
Khụn tìm đường dò nhắn hỏi han
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau
("Hải hoại huyết thư" (1906), Lê Đại dịch)
Hoặc giả:
Than ôi! Lục tỉnh Nam Kỳ
Nghìn năm cơ nghiệp cũn gỡ hay không

Mịt mù một giải non sông
Hỏi ai, ai có đau lòng chăng ai
("Ai cáo Nam kỳ phụ lão" (1907), Phan Bội Châu tự dịch)
Trong bài "Sinh văn cụ Phan Sào Nam" (1940), Huỳnh Thỳc Khỏng đó diễn
tả một cách sống động về sức rung cảm lòng người của ngòi bút Phan Bội Châu:
6
Miệng giọng cuốc vạch trời kêu giật một,
giữa từng khụng mự cuốn mây tan,
Tay ngũi lông vỗ ỏn mỳa chầu ba, đầy mặt
giấy mưa tuôn sấm nổ.
Núi cao reo bốn phía dậy vang,
Buồng kín tỉnh ngàn năm giấc ngủ.
Do ảnh hưởng văn thơ của Phan Bội Châu, mà "hàng nghìn thanh niên đã
cắt cụt túc bớm, vất hết sách vở văn chương cử tử cựng cỏi mộng công danh
nhục nhã gắn trên đó, lìa bỏ làng mạc, nhà cửa vợ con, rồi băng ngàn lội suối,
bất chấp mọi nỗi đói thiếu, nguy hiểm, khổ sở, để qua Xiêm, qua Tàu, qua Nhật
mà học hỏi và trù tính việc đỏnh Tõy". Ngoài ra, cũng cần để ý là ảnh hưởng của
Phan Bội Châu không chỉ giới hạn trong những thế hệ trưởng thành trong nửa
đầu thế kỷ XX, mà ngay cả trong thời gian "đất nước phân kỳ", bất luận Nam
Bắc, văn thơ Phan đã khơi dậy lòng yêu nước của không biết bao nhiêu thanh
niên.
Ý thức "Quốc gia Quốc dân"
So với người cùng thời, Phan Bội Châu sớm ý thức về vận mệnh đất nước và
cũng là một trong những sĩ phu đầu tiên đối đầu với các vấn đề liên hệ đến Việt
Nam như một "quốc gia quốc dân" (nation-state).
Vì từ "quốc gia quốc dân" (hay "nhà nước quốc dân") vẫn chưa được nhắc
đến ngay trong các cuốn từ điển tiếng Việt, Anh Việt hay Pháp Việt, v.v xuất
bản gần đây (những năm cuối cùng của thế kỷ XX!), ta thử tạm mượn định
nghĩa của từ này trong một cuốn từ điển tiếng Nhật Bản - một ngôn ngữ có
nhiều từ vựng hiện đại "xuất cảng" sang chữ Hán và tiếng Việt vào buổi đầu thế

kỷ XX.
Ngay từ hồi chưa xuất dương, Phan đã từng đi chu du nhiều nơi trong nước -
miền Nam xứ Nghệ (quê Phan) từ Huế vào Nam Ngói, Bỡnh Phỳ, rồi Gia Định,
cho đến tận vùng Thất Sơn ở Châu Đốc; miền Bắc từ Nam Định, Hà Nội, lên
tận rừng Yên Thế của Đề Thám - nhằm tìm cách kết giao đặng mưu đồ việc
nước với những người có nghĩa khí, từ sĩ phu tới các "hảo hán" trong giới "lục
lâm giang hồ" sống ngoài vòng pháp luật. Trong thời kỳ Đông Du (1905-1909),
hàng ngày tiếp xuvs và lo việc ăn học cho các thành viên từ Nam chí Bắc, Phan
ý thức sâu sắc về tình trạng thiếu đồng thuận giữa người Việt với nhau do một
lý do khá đơn giản: đây là lần đầu tiên các thanh niên này có dịp tiếp xúc, đối
thoại và sinh hoạt với nhau. Trong Việt nam quốc sử khảo (1908), Phan nêu lên
5 điều khiếm khuyết trong dân trí nước ta: hay nghi kỵ lẫn nhau, coi trọng
những điều xa hoa vô ích (như trong việc hôn nhân, cúng bái, v.v ), biết lợi
mình chứ không biết hợp quần, tiếc của riêng mà không nghĩ đến lợi chung, biết
7
thân mình mà không nghĩ đến việc nước . Ý thức "quốc gia quốc dân" trong tư
tưởng cũng như hành động của Phan phải nói là một sự đề kháng đối với chính
sách "chia để trị" của chính quyền đô hộ, khác hẳng với đầu óc địa phương hẹp
hòi thường thấy ngay ở các nhân vật tai to mặt lớn trong nước lúc bấy giờ. Bình
tình mà nói, bệnh chia rẽ, óc địa phương không chỉ do chính sách cai trị của
người nước ngoài, bởi lẽ ngay khi người Việt nắm lấy vận mệnh đất nước, vẫn
không thấy những biện pháp tích cực nhằm khắc phục tư tưởng cục bộ "ăn cây
nào, rào cây ấy" hay tình trạng "phép vua thua lệ làng". Đóng góp của Phan trên
mặt này ngay từ hồi đầu thế kỷ đúng là một điểm son đáng trân trọng, cần được
ghi nhớ.
Cũng cần để ý rằng "vong quốc" (mất nước), "đồng bệnh" (cùng bệnh) và
"quang phục" (khôi phục vinh quang đã mất) là những từ thông dụng trong thuật
ngữ chính trị ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam - ba nước "cùng mang bện
mất nước" - vào đầu thế kỷ XX. "Vong quốc" ở đây có nghĩa là mất độc lập,
mất chủ quyền. Phan Bội Châu giải thích: "Gọi là một nước thì phải có nhân

dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không đủ tư cách
làm một nước". Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mã những nỗ lực khôi phục độc
lập ở ba nước Đông Á nói trên thường lấy tên "quang phục": vận động lật đổ
triều đình Mãn Thanh ở Trung Quốc do Thái Nguyên Bồi khởi xướng năm 1904
lấy tên là Quang phục Hội (về sau gia nhập Đồng minh Hội của Tôn Dật Tiên);
ngày Hàn Quốc lấy lại độc lập, thoát khỏi ách cai trị của người Nhật gọi là ngày
Kwangbok (tức Quang Phục, 15/8/1945); và cái tên Việt Nam Quang phục Hội
do Phan Bội Chõu cựng cỏc đồng chí thành lập ở Quảng Đông (1912) cũng
không ngoài nghĩa đó.
Việt Nam - Từ Quân chủ tới Dân chủ
Ai là người đầu tiên phổ biến cái tên Việt Nam vào đầu thế kỷ XX? Trả lời
câu hỏi thoạt nhìn có vẻ vụ-thưởng-vụ-phạt này sẽ giúp ta nhận thức rõ hơn về
vai trò của Phan Bội Châu và Quang phục Hội.
Quốc hiệu "Việt Nam" nguyờn đó cú từ đầu thời vua Gia Long, nhưng trên
thực tế không mấy khi được sử dụng. Sử sách chép là vua Gia Long lúc đầu khi
mới lên ngôi (1802) muốn đặc quốc hiệu là Nam Việt, nhưng vua Gia Khánh
nhà Thanh không chấp thuận, lý do là quốc hiệu này khơi lại chuyện Triệu Đà
và chính quyền cát cứ ở nước Nam Việt đời Hán ngày trước. Thanh triều chỉ
chấp thuận sai sứ sang phong vương sau đó hai năm (1804) khi quốc hiệu Nam
Việt đã được đổi ngược lại thành Việt Nam. Bước sang thế kỷ XX, trong khi
người nước ngoài đều dựng tờn "An Nam" để chỉ nước ta, theo thiển ý của
chúng tôi, Phan Bội Châu là người đầu tiên đã phổ biến cái tên Việt Nam ngay
từ khi mới sang Nhật Bản. Bằng cớ là Phan đó dựng tờn Việt Nam trong các
trước tác viết trong thời kỳ Đông Du: Việt Nam vong quốc sử (1905), Tân Việt
Nam (1906), Việt Nam thảm trạng (1907?), Việt Nam quốc sử khảo (1908).
8
Ngoài ra, sau khi giải tán Duy Tân Hội, như đã nói ở trên, Phan cùng đồng chí
cũng đó dựng tờn Việt Nam (thay vì An Nam hay cỏc tờn khỏc) khi đặt tên Việt
Nam Quang phục Hội vào năm 1912.
Tuy Quang phục Hội có một lịch sử đáng chú ý, nhưng điều ngạc nhiên là

trước đây ít người nói tới. Những điều giới thiệu sau đây có thể tìm thấy ngay
trong "Phan Bội Châu niên biểu" (hay "Tự phán") chứ không phải tỡm đõu xa
xôi. Trước hết, Quang phục Hội không chỉ là hội đoàn theo nghĩa thông thường
mà trên hết thực tế là một "chính phủ lâm thời" (lưu vong), có quy định cả quốc
kỳ, quân đội (Việt Nam Quang phục Quõn), quõn kỳ, và phát hành cả giấy bạc
(dưới dạng "quân dụng phiếu") "in bằng điện, tinh xảo như giấy bạc Tàu".
Quang phục Hội cũng đã quy định lá quốc kỳ đầu tiên của Việt Nam. Theo lời
kể lại của Phan Bội Châu, "một sự quái lại" là trước đó "nước ta chỉ có cờ hoàng
đế mà không có quốc kỳ". Bởi vậy, Quang phục Hội mới "chế định cờ ngũ tinh"
(năm ngôi sao) làm lá quốc kỳ đầu tiên. Năm ngôi sao trên lá cờ này có hình
liên kết với nhau (ngũ tinh liờn chõu), tiêu biểu cho ba kỳ của Việt Nam, cộng
thêm Lào và Cămpuchia . Quốc kỳ Quang phục Hội có nền vàng, tượng trưng
cho nhân chủng da vàng của người Việt, màu hồng của năm ngôi sao biểu tượng
cho vị trí phương Nam của nước Việt ("Nam phương thuộc hỏa, hỏa sắc hồng").
Hình dạng quân kỳ cũng giống như quốc kỳ, điểm khác nhau là thay vì hồng
tinh (sao hồng), quân kỳ dùng bạch tinh (sao trắng), nhằm "tỏ rõ mục đích" của
Việt Nam Quang phục Quân là "cốt đánh đổ chính phủ người da trắng".
Tôn chỉ "độc nhất" của Quang phục Hội là "khôi phục nền độc lập của Việt
Nam" và thành lập một nước "cộng hòa dân quốc". Nói một cách khác, với sự
thành lập của Quang phục Hội, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chủ nghĩa
quân chủ đã bị phủ nhận và chủ nghĩa dân chủ "được xác định". Dĩ nhiên Phan
Bội Chõu đó đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển hướng đường lối của
Quang phục Hội. Cho dù việc thay đổi "ngọn cờ quân chủ" (mà Phan Bội Chõu
đó đề cao để chống Phỏp lỳc xuất dương) thành lá cờ dân chủ phần nhiều là do
ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, nhưng trong bối cảnh
lịch sử nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, sự kiện này có ý nghĩa như một khúc
nhạc dạo đầu báo hiệu sự cáo chung của chế độ quân chủ ở nước ta mà trên thực
tế sẽ xảy ra trong quá trình ba, bốn mươi năm sau đó.
"Bạo động kịch liệt" và bế tắc
Khác hẳn với chủ trương ôn hòa của Phan Châu Trinh là duy tân để tự cường

rồi mới dành độc lập; Phan Bội Châu chủ trương bạo động, một phần vì bản tính
("sinh bình tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp khích") và một phần do áp lực của "bọn
anh em trong phái cấp khích ở Nghệ Tĩnh hối thúc tôi trong việc quân giới" .
Lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng phương tiện võ trang (quân sự), đối
với Phan, là phương cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên,
9
Phan cho rằng người Việt tự mình không địch nổi người Pháp, do đó phải cậy
vào một cường quốc khác. Sở dĩ Phan và các đồng chí trong Duy Tân Hội chọn
Nhật Bản để cầu viện vì Nhật là nước "đồng văn đồng chủng" mà lại vừa mới
thắng Nga. Sau khi bị nhà đương cuộc Nhật trục xuất khỏi Nhật, Phan chuyển
hướng, muốn liên kết với các nước "đồng bệnh" - trước hết là Trung Quốc -
chống lại "cường quyền". Tuy nhiên, suốt đời Phan không rời chủ nghĩa Liên Á
(Asianism), tin rằng nếu không có sự giúp đỡ của các nước "đồng văn đồng
chủng" như Trung Quốc, Nhật Bản thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc
lập.
Nhận thức về quan hệ quốc tế của Phan vừa lỗi thời vừa rất chủ quan. Có thể
nói một trong những lý do khiến Phan thất bại là vì mặc dầu đứng trong tư thế
người lãnh đạo một phong trào chống Pháp, Phan không bao giờ có ý định tìm
hiểu về người Pháp và nước Pháp. Theo phương châm ngày xưa "kẻ thù của
địch là bạn ta", Phan ngỏ ý cầu viện một cách bừa bãi với các nước mà Phan coi
là có quyền lợi xung đột với Pháp lúc bấy giờ: Đức, Nga, và đặc biệt là Trung
Quốc và Nhật Bản. Phan cả tin và chủ quan về những "nước bạn", rồi với trạng
thái tâm lý được diễn tả và châm biếm qua câu ca dao "Thương thì thương cả
đường đi, ghột thỡ ghột cả tông chi họ hàng" (hoặc "Thương thỡ trỏi ấu cũng
tròn, không thương trái bồ hòn cũng méo"), Phan tưởng rằng những "nước bạn"
sẽ là những đồng minh muôn thuở, bất luận trong tình huống nào và vô hình
trung cho rằng "Pháp là nước duy nhất có ý đồ xâm chiếm Việt Nam". Vì Phan
hoạt động trong giai đoạn mà ý thức hệ (hệ tư tưởng) chính trị chưa chia phối
hàng ngũ người Việt trong nước cũng như hải ngoại, nên mặc dầu những thuật
ngữ Phan dùng có thể khác những thuật ngữ của các thế hệ sau, nhưng phải nói

trạng thái tâm lý nói trên vẫn thể hiện đậm nét trong quan niệm đối ngoại của
Việt Nam ít ra mãi cho đến gần đây.
Chủ trương bạo động của Phan Bội Chõu tựy thời điểm có mức độ khác
nhau. Chẳng hạn, sau khi sang Nhật để xin viện trợ quân sự chống lại Pháp,
Phan gặp Lương Khải Siêu, và sau khi nghe lời khuyên chí tình của họ Lương,
Phan mới chuyển hướng sang việc gửi thanh niên sang Nhật du học. Qua bút
đàm, Lương khuyên Phan: "Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên
lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập Thực lực của quý quốc là dân trí, dõn
khớ và nhân tài". Mặc dầu thời kỳ Đông Du là khoảng thời gian mà chính Phan
xem là "đắc ý" nhất trong đời, Phan vẫn còn vương vấn với khuynh hướng "bạo
động" nên cũng không hết lòng tin tưởng vào vai trò của giáo dục. Phan mượn
câu nói của Mó-Chớ-Nờ (Mazzini) làm chủ thuyết của mình: "Giáo dục dữ bạo
động đồng thời tịnh hành" (Giáo dục và bạo động cùng tiến hành song song).
Sau khi bị trục xuất khỏi Nhật (1909), bôn ba sang Xiêm, rồi cuối cùng trở về
Quảng Đông thành lập Quang phục Hội (1912), Phan chủ trương "bạo động
10
kịch liệt" nhằm "tỡm cỏi sống trong muôn vạn cái chết" và những mong bạo
động sẽ là "môi giới để cải lương giáo dục"!
Trái hẳn với Phan Bội Châu, châm ngôn của Phan Châu Trinh là "Vọng
ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử" (Không nên cậy vào nước ngoài, cậy vào nước
ngoài là ngu; không nên bạo động, bạo động là chết) và "ỷ Pháp cầu tiến bộ"
mà trên thực tế có nghĩa là phải tạm thời chấp nhận chính quyền thuộc địa nhằm
mở mang dân trí và cải cách chế độ cai trị của người Pháp, rồi từng bước phục
hồi nền độc lập quốc gia. Khi bị tù ở Côn Đảo, Phan Châu Trinh đã từng nói:
"Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ cậy sức nước ngoài chỉ diễn cỏi
trũ 'đổi chủ làm đầy tớ lần thứ hai', không ích gì mỡnh khụng tự lập, ai cũng là
kẻ cừu của mình, Triều Tiên, Đài Loan là cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì
hơn người Pháp".
Phan Châu Trinh là nhà sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền ở nước ta . Ông
chống bạo động, dấy phong trào duy tân "chấn dõn khớ, khai dân trí, hậu dân

sinh" và chủ trương "tự lực khai hóa" không phải vì ươn hèn sợ hãi, mà bở vỡ
ụng thấy dân trí nước ta cũn quỏ thấp. Theo ông, trong tình trạng như vậy thì
11
dầu có giành được độc lập "cũng không phải là điều hành phúc cho dân". Ông là
người quả cảm, có khí phách, không sợ hiềm nghi hay gièm pha, dám đưa ra
một chủ thuyết khác hầu hết mọi người đương thời. Phan Tây Hồ là một nhà
cách mạng theo đúng nghĩa của nó.
Vì Phan Bội Châu theo chủ thuyết bạo động nên không phải ngẫu nhiên mà
phần lớn những sinh viên du học ở Nhật và Trung Quốc vào đầu thế kỷ (dưới
ảnh hưởng của Phan) đã học những trường quân sự, và đại đa số những người
này cuối cùng đã hy sinh trong những vụ bạo động, mưu toan ám sát người
Pháp cùng những người Việt cộng tác với chính quyền thuộc địa, hay các binh
biến lẻ tẻ. Than tiếc cho sự việc này, Phan Châu Trinh đã viết: "Phải chi dùng số
người xuất dương đó phân tán trong nước, đem trí thức, trình độ cao đó khiến
cho mười mấy triệu người trong nước cũng có trí thức cao lên để tranh dành với
Pháp" . Bởi vậy, trong lời tựa của tập tự truyện "Phan Bội Châu niên biểu" mà
tác giả đã viết với sự cân nhắc và phản tỉnh sâu lắng trong tuổi già, Phan Bội
Châu ghi: "Chân trời góc bể gần ba mươi năm, vì liên lụy với tôi mà kẻ chết
người tù, họa tràn quận quốc, độc trôi đồng bào Anh em chúng ta nếu xem cái
gương thất bại trước mà gấp lo tìm cách cải lương, sẽ mở ra một lối thành công
sau ". Phan Bội Chõu khuyờn đồng bào nên xem cuộc đời họat động của mình
như một "chiếc xe đã bị lật đằng trước nhằm cảnh giác" (tiền xa phúc, hậu xa
giới) mà mở lối thành công. Những lời này của Phan Bội Chõu nờn được xem
như là những lời phản tính và nhắn nhủ chân thành của một nhà đại hào kiệt "có
lòng thương nước" nhưng vô tình đã "không biết cái đạo thương nước". Bình
luận về Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đó cú những nhận xét sắc bén và
thẳng thừng như sau: "ễng Phan Bội Châu tư chất thông minh, chí khí rất to lớn,
sớm có quan niệm quốc gia. Trong thời đại nước Việt Nam chuộng khoa cử,
ông cũng là người có học thức lầm lạc (mậu vọng) những dụng công rất nhiều,
lòng tự tin mãnh liệt, cho nên những ưu và khuyết điểm cùng tập quán của dân

tộc Việt Nam đều ăn sâu vào não tủy ông ta. Cho nên có thể cho ông là người
xứng đáng đại biểu cho tập tánh của người Việt Nam." Hoặc giả: "ễng là người
lịch sử dân tộc trên hai ngàn năm, nào ưu điểm, nhược điểm đã hun đúc thành
con người đó" .
Nền độc lập mà Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cựng cỏc sĩ phu khác vào
đầu thế kỷ hằng mơ ước ngày nay đã về trong tay người Việt. Nhưng vấn đề dân
chủ, dân trí, dân sinh mà Phan Chu Trinh hằng nhắc nhở từ đầu thế kỷ vẫn là
những vấn đề hiện thực nóng bỏng của đất nước sau chiến tranh. Thực tâm giải
quyết những vấn đề này sẽ mang lại sinh khí cho dân tộc, đất nước nhờ đó sẽ
được hồi sinh.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là hai nhân vật kiệt hiệt của đất nước,
nhưng chỗ đứng của họ trong cuộc hành trình dân tộc trong 100 năm qua lại
khác nhau như âm với dương. Mặc dầu chúng ta cần đánh giá vai trò thức tỉnh
12
hồn nước và ý thức quốc gia quốc dân của Phan Bội Châu, nhưng đồng thời cần
nhận thức rằng Sào Nam tiên sinh không phải là người đã đề xướng dân chủ,
dân trí và dân sinh. Lmà việc đú đó có tiếng nói hùng hồn của Phan Chu Trinh.
Bởi vậy, khi đọc lại những lời Tây Hồ viết vào đầu thế kỷ, ta vẫn nghe sang
sảng tựa hồ như tiên sinh đang đăng đàn diễn thuyết đâu đây.
Qua việc tìm hiểu phong trào yêu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh (là 2 phong trào tiêu biểu, đại diện cho các phong trào yêu nước ở Việt
Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX) chúng ta thấy rằng các phong trào yêu
nước ở nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều thất bại . Hồ Chí Minh nhận
thấy, con đường cứu nước của Phan Bội Châu chẳng khác nào “đưa hổ cửa
trước, rước beo cửa sau”; còn Phan Châu Trinh chẳng khác nào “xin giặc rủ
lòng thương”. Người nhận thấy nguyên nhân thất bại là do chưa có đường lối và
phương pháp đúng đắn, chưa nhận thức rõ về kẻ thù trong khi thực tế chủ nghĩa
Đế quốc trên thế giới đã thành hệ thống nhất quán về chính trị chia để trị. Tuy
Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần yờu nước của những người đi trước
nhưng Người không tán thành con đường cứu nước của các vị ấy, mà quyết tâm

ra đi tìm một con đường cứu nước mới.
Đoạn tuyệt với sự phát triển theo con đường của chủ nghĩa phong kiến, Hồ
Chí Minh đã đến nhiều quốc gia và châu lục trên thế giới để tìm ra con đường
cứu nước mới cho dân tộc ta.
Như vậy từ sự thất bại của các bậc cha anh đi trước, chúng ta đã có được
những bài học đắt giá bằng sự hi sinh đổ máu của biết bao con người. Muốn độc
lập tự do chúng ta không để đi theo vết xe đổ của người đi trước được. Muốn
thắng lợi cần có đường lối lãnh đạo, phương pháp đúng đắn và thống nhất, tập
hợp được sức mạnh của toàn dân có như thế Cách mạng mới thành công.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn, Người đã ra đi
tìm đường cứu nước.
II. Cách mạng tư sản là không triệt để:
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương châu lục và đến với nhân loại
cần lao đang đấu tranh trên thế giới thì Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp việc vừa tìm
hiểu lý luận, vừa khảo sát kết quả thực tiễn ở 3 nước phát triển Anh, Pháp, Mỹ.
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, tìm hiểu thực tiễn Cách mạng Mỹ
(1776) ; đọc Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Cách mạng Pháp, tìm
hiểu Cách mạng tư sản Pháp (1789).
Tuyên ngôn độc lập Mỹ có viết:” chúng tôi khẳng định một chân lý hiển
nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những
quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do
và mưu cầu hạnh phúc”.
13
Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền Phỏp cú viết :” Người ta sinh ra tự do
và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi… Tự do bao gồm khả năng làm bất cứ điều gì mà không gây hại cho người
khác. Như thế, việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi cá nhân chỉ bị giới
hạn sao cho các cá nhân khác trong xã hội cũng được hưởng những quyền
tương tự. Những giới hạn này được quy định duy nhất bằng luật pháp.”
Cách mạng tư sản thành công đã xóa bỏ chế độ phong kiến mục nát thay vào

đó là chế độ mới tiên tiến hơn. Cách mạng tư sản thành công xóa bỏ đi những
trở ngại phát triển kinh tế của các nước tư bản. Nhưng sau khi cách mạng tư sản
thắng lợi, thì một nhà nước mới hình thành, giai cấp cầm quyền đã quên đi lợi
ích của dân chúng đặt lợi ích của mình lên trên hết. Đời sống của nhân dân vẫn
chưa thoát khỏi cảnh áp bức bóc lột mà thực tế là chuyển sang chế độ áp bức
bóc lột mới. Hồ Chí Minh đã nhận thấy điều này khi đi sâu tìm hiểu thực tế.
Người đánh giá cao những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người
của các cuộc cách mạng tư sản Mỹ và Pháp; nhưng mặt khác, Người cũng phê
phán bản chất không triệt để của các cuộc CMTS này. Về cách mạng Mỹ
(1776), Nguyễn Ái Quốc nhận xét “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn
150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần
thứ hai”. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách bệnh tư bản là
chưa phải cách mệnh đến nơi. Về cách mệnh Pháp 1789. Nguyễn Ái Quốc cho
rằng “Cỏch mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì tước
lục công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa”. Minh chứng rõ nhất là thực dân
Pháp, thực dân Pháp rêu rao là đi khai sáng văn minh cho nhân dân An Nam.
Nhưng thực chất thực dân Pháp tiến hành bóc lột và khai thác thuộc đia của
mình để phục vụ một bộ phận ở mẫu quốc. Thực dân Pháp là “con đỉa 2 đầu” nó
hút máu không những giai cấp vô sản trong nước mà còn hút máu nhân dân
thuộc địa. Người nhận thấy rằng, cách mạng tư sản thực chất chỉ là thay đổi
hình thức bóc lột cũ bằng một hình bóc lột khác tinh vi hơn chứ không xóa bỏ
được áp bức bóc lột. Vì thế người cho rằng đó là những cuộc cách mạng không
đến nơi, không triệt để. Từ đây có thể thấy cơ sở để đánh giá tính triệt để là:
không phải dựa vào lí luận, khẩu hiệu mà dựa vào quy mô giải phóng quần
chúng ra khỏi áp bức. Do đó, cứu nước theo ngọn cờ của giai cấp tư sản không
phải là lối thoát cho dân tộc. Thực tiễn cho thấy cách mạng tư sản của Tôn
Trung Sơn tuy thành công nhưng không triệt để, mãi cho đến cách mạng vô sản
của Mao Trạch Đụng thỡ đất nước Trung Quốc mới thực sự được hưởng lợi ích
của Chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy Người đã không chọn con đường Cách

mạng tư sản.
III. Con đường giải phóng dân tộc :
14
(Tưng bừng kỉ niệm Cách mạng tháng 10 Nga 7/11/1917)
Đến tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đọc được “sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lờnin. Người đã
sáng tỏ nhiều điều về con đường giải phóng dân tộc. Ảnh hưởng của Cách mạng
Tháng mười Nga và những tư tưởng của Lờnin về vấn đề dân tộc và thuộc địa
đã làm cho Người hoàn toàn tin theo Lờnin và Người đã tin và đứng về phía
Quốc tế 3. Tại sao khi kể lại sự kiện này, Bác Hồ đã nói: “Luận cương của
Lờnin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phỏt khúc lờn. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang
nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”? Đó là vì,
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy được trong bản luận cương này, Lờnin đã đề cập
đến quyền bình đẳng giữa các dân tộc dựa trên lội ích thiết thực về kinh tế,
chính trị,… Lờnin cũng đã nêu rõ nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản và các Đảng
Cộng sản trên thế giới phải giúp đỡ phong trào Giải phóng Dân tộc, trong đó có
phong trào nông dân ở các nước chậm phát triển chống bọn địa chủ, chống mọi
biểu hiện và tàn dư của chế độ phong kiến. Đồng thời, Lờnin cũng nhấn mạnh là
cần phải đũan kết giữa giai cấp vô sản ở các nước Tư bản với quần chúng lao
15
động của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới mới có thể chiến thắng hoàn toàn
chủ nghĩa Tư bản thế giới.
Đây là sự kiện quan trọng làm biến đổi nhận thức, khẳng định con đường lựa
chọn để cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, Người cho rằng: “muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản, vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta là phải gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có

xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đó đờn vơi học thuyết cách mạng của
Mac – Lờnin và sự lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản”.
Về phương diện chính trị phải ''Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập''. Đó là đường lối chính
trị hoàn toàn đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, hướng vào
giải quyết những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của một xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến và định hướng phát trtển theo nội dung và xu thế của thời đại. Phong
trào cách mạng nước ta từ Xô viết Nghệ -Tĩnh những năm 1930-1931 đến cuộc
vận động dân chủ 1936-1939 là quá trình vừa thực hiện, vừa khảo nghiệm, tổng
kết thực tiễn, khẳng định tính đúng đắn và bổ sung, phát triển hoàn chỉnh đường
lối đó - đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (GPDT). Từ thực tiễn của cách
mạng Việt Nam, Hội nghị Trung ương (HNTƯ) họp tháng 11-1939 ở Bà Điểm
(Gia Định) đã nêu cao mục tiêu GPDT. Bước đường sinh tồn của các dân tộc
Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế
quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành
lấy giải phóng độc lập ''phải thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh
là đánh đổ đế quốc'' và công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên, sau khi chiến
tranh thế giới thứ II bùng nổ (1-9-1939), tại Đông Dương, thực dân Pháp thủ
tiêu mọi quyền dân sinh, dân chủ ít ỏi mà họ buộc phải thực hiện trong những
năm 1936-1939, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, làm cho mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp càng phát triển gay gắt.
Tháng 9-1940 phát xít Nhật chiếm Đông Dương, Nhật và Phỏp cựng thống
trị Đông Dương, ách áp bức dân tộc càng trở nên nặng nề. Trong bối cảnh đó,
HNTƯ tháng 11-1940 cho rằng cách mạng phản đế - cách mạng GPDT cao hơn
hết và nêu rõ: Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị
để gánh lấy sứ mệnh thiêng liêng: lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông
Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập. Trong lúc này kẻ thù
chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc chủ nghĩa Pháp, Nhật. Kẻ thù phụ

là phong kiến bản xứ sau gần 30 năm hoạt động và lãnh đạo, chỉ đạo phong trào
cách mạng trong nước từ nước ngoài, ngày 28-1- 1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
16
trở về nước, cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cao trào GPDT.
Tháng 5-1941 HNTƯ họp tại Cao Bằng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Hội nghị
đã phân tích, đánh giá phong trào cách mạng đã và đang diễn ra sôi nổi trên cả
nước, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Nam Kỳ (11-1940) và
cuộc khởi nghĩa của binh lính ở Đô Lương (Nghệ An) (13-1-1941). Trung ương
Đảng cho rằng: Mặc dù sự đàn áp của giặc Pháp rất dữ dội mà dân ta vẫn khụng
lựi. Những cuộc khởi nghĩa lại gây một ảnh hưởng rộng lớn toàn quốc. Đó là
những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh
đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương.
Các nghị quyết HNTƯ (11-1939), (11-1940) và (5-1941) đã phát triển hoàn
chỉnh đường lối cách mạng GPDT. Đó là một hệ thống các quan điểm, chủ
trương của Đảng trên mấy vấn đề chủ yếu sau đây: Nêu cao nhiệm vụ GPDT,
giành độc lập hoàn toàn cho đất nước. Chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu vì
đế quốc Pháp, Nhật là kẻ thù chủ yếu. Nhiệm vụ chống phong kiến đặt ra thực
hiện từng bước và phải đặt dưới nhiệm vụ GPDT. Điều đó phù hợp với nguyện
vọng chung của toàn thể dân tộc. Tạm thời chưa giải quyết vấn đề ruộng đất cho
nông dân, song nông dân vẫn không giảm bớt sự hăng hái tranh đấu mà vẫn nỗ
lực tranh đấu mạnh hơn vì trong cuộc tranh đấu GPDT họ cũng được hưởng
nhiều quyền lợi to tát.
Để đoàn kết và huy động được sức mạnh của toàn dân thực hiện mục tiêu
GPDT, Đảng chủ trương xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và vững
chắc. Đó là Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (11- 1939) thay
cho Mặt trận dân chủ trước đó. Tháng 5-1941, HNTƯ quyết định thành lập Việt
Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Đó là tổ chức mặt trận có chương trình rõ
ràng và hệ thống tổ chức chặt chẽ với các đoàn thể cứu quốc là thành viên và
lấy làng, đường phố, nhà máy làm tổ chức cơ sở. Sự liên hiệp các đoàn thể cứu
quốc trong Việt Minh là sự thống nhất lực lượng để tranh đấu thực hiện vấn đề

độc lập cho đất nước. Việt Minh lấy ngọn cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh làm
huy hiệu. Đó cũng là tổ chức Mặt trận giải quyết vấn đề dân tộc trong nội bộ
dân tộc Việt Nam giành quyền độc lập cho xứ sở. Song Việt Nam độc lập đồng
minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập
đồng minh. Đảng và Mặt trận Việt Minh đã kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc
và nhiệm vụ đoàn kết quốc tế.
Đảng chủ trương xây dựng và phát triển căn cứ địa cách mạng, cùng với lực
lượng chính trị phải coi trọng xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang để
chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, giành độc lập. Sau khởi
nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Trung ương Đảng đã ra lời hiệu triệu hưởng ứng các
cuộc khởi nghĩa đó và đặt vấn đề phải đi tới vũ trang khởi nghĩa. HNTƯ 8, từ
kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa, của hoạt động của Cứu quốc quân, chiến
tranh du kích ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, đã khẳng định vấn đề khởi nghĩa vũ trang:
17
Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang.
Điều kiện để khởi nghĩa bằng vũ trang là: Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được
toàn quốc; Nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp -
Nhật, mà đã sẵn sàng hy sinh bước vào con đường khởi nghĩa; Những điều kiện
khách quan thuận lợi xuất hiện như quân Đồng minh thắng Nhật hay cách mạng
nổ ra ở Pháp, ở Nhật. HNTƯ 8 đã dự liệu những điều kiện để chuẩn bị cho
những điều kiện đó phát triển và khẳng định: Ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi
nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở
đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
Đảng hết sức chú trọng phân tích tình thế cách mạng cả trong nước và quốc
tế để chủ động chuẩn bị về mọi mặt thúc đẩy thời cơ cách mạng. HNTƯ tháng
11-1939 và tháng 11- 1940 đã đề cập tới tình thế và thời cơ để cách mạng tiến
lên giành thắng lợi. Đặc biệt HNTƯ tháng 5-1941 đã đự bỏo Liờn Xụ thắng
trận, quân Trung Quốc phản công, quân Nhật đang mắc sự phản công của Anh-
Mỹ và đặt ra yêu cầu cần thiết và cấp bách cho sự chuẩn bị điều kiện chuyển
biến cuộc cách mạng phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Tình hình thế giới sẽ biến

chuyển ghê gớm làm cho tình hình Đông Dương thay đổi có lợi cho cách mạng.
Ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện
hơn cả mà đánh lại quân thù, sau HNTƯ 8, Đảng và Hồ Chí Minh tiếp tục theo
sát sự phát triển của tình hình thế giới và trong nước để dự liệu thời cơ cách
mạng. Trong tài liệu Lịch sử nước ta do Hồ Chí Minh viết và được Việt Minh
tuyên truyền bộ xuất bản tháng 2-1942 ở mục những năm quan trọng, câu kết
thúc Người đã dự báo năm 1945 Việt Nam độc lập.
Khi xác định cuộc cách mạng là cách mạng GPDT nghĩa là phải giành lấy
độc lập, tự do cho dân tộc thì một vấn đề rất cơ bản và chủ yếu đặt ra là vấn đề
hình thức tổ chức nhà nước phải xây dựng khi giành được độc lập. HNTƯ tháng
11-1939 chủ trương chưa đưa khẩu hiệu lập Chính phủ Xô Viết công nông binh''
là hình thức chính phủ riêng của dân chúng lao động mà lựa chọn hình thức
chính phủ Cộng hoà dân chủ, là hình thức chính phủ chung cho tất cả các tầng
lớp dân chúng trong xứ và trong phong trào GPDT. Đó là sự lựa chọn đúng đắn
phù hợp với điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam. Trong Chương trình Việt
Minh đã xác định: Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một
chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hoà lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng
năm cánh làm lá cờ toàn quốc, cộng hoà dân chủ là hình thức nhà nước nhân
dân rộng rãi mà Đảng ta dự kiến đã trở thành hiện thực khi Cách mạng tháng
Tám thắng lợi. Đó là Nhà nước cách mạng của dân, do dõn, vỡ dõn và do Đảng
Cộng Sản lãnh đạo.
Khi bước vào cao trào GPDT những năm 1939 - 1945, Đảng và Hồ Chí
Minh xác định cách mạng nước ta chưa phải là cách mạng tư sản dân quyền với
nhiệm vụ giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, cũng chưa phải là
18
cách mạng XHCN mà là Cách mạng giải phóng dân tộc giành cho được độc lập
hoàn toàn rồi từng bước thực hiện mục tiêu ruộng đất, mở đường tiến dần lên
CNXH. Đó là quy luật vận động, phát triển của cách mạng nước ta và khẳng
đính sự đúng đắn, tính triệt để của cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng
Sản lãnh đạo.

Những nội dung đường lối cách mạng GPDT mà các NQTƯ (11-1939), (11-
1940) và NQTƯ (5-1941) xác định là một hệ thống toàn diện, đồng bộ những
vấn đề chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng, chủ động về nắm bắt
tình thế và thời cơ cách mạng. Điều cần đặc biệt nhấn mạnh là Đảng và Hồ Chí
Minh đã làm rõ sự thống nhất trong mục tiêu giành độc lập cho dân tộc và giành
chính quyền về tay nhân dân để đi đến sự lựa chọn hình thức chính quyền nhà
nước thích hợp. Lờnin từng chỉ ra rằng, chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản
và chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng xã hội phải giải quyết vấn
đề cơ bản là vấn đề chính quyền nhà nước nghĩa là giai cấp nào nắm chính
quyền: Cách mạng tư sản chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp phong
kiến sang tay giai cấp tư sản Cách mạng vô sản chuyển chính quyền từ tay giai
cấp tư sản sang tay giai cấp vô sản và đông đảo những người lao động. Cách
mạng GPDT ở một nước thuộc địa như Việt Nam phải thực hiện mục tiêu cốt
yếu là độc lập dân tộc, xây dựng một chính quyền nhà nước độc lập - chính
quyền của nhân dân do ĐCS lãnh đạo. Đó là sự phát triển sáng tạo của Đảng và
Hồ Chí Minh trong học thuyết về cách mạng và nhà nước.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 của thế kỷ XX đã diễn
ra theo đường lối cách mạng GPDT mà Đảng và Hồ Chí Minh đã đề ra. Đường
lối đú cú vai trò chỉ đạo phong trào cách mạng trên khắp cả nước. Trong quá
trình lãnh đạo, Đảng tiếp tục cụ thể hoá những quan điểm, đường lối đó và giải
quyết thành công nhiều vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vấn đề phân tích,
đánh giá tình thế và thời cơ cách mạng được Đảng và Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng. Đó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong lãnh đạo cách mạng nói
chung và trong khởi nghĩa giành chính quyền nói riêng. Cuối năm 1943, sau khi
ra khỏi nhà tù của Quốc dân Đảng Trung Hoa, trở về nước Hồ Chí Minh đã dự
báo chiến tranh thế giới thứ ll chỉ trong khoảng một năm hay một năm rưỡi nữa
là kết thúc, Đó sẽ là cơ hội thuận lợi cho cách mạng nước ta giành thắng lợi,
phải gấp rút chuẩn bị lực lượng về mọi mặt. Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta của Thường vụ Trung ương Đảng (12-3-1945) đã làm
rõ hơn về tình thế và thời cơ cách mạng. Đảng đã kịp thời phát động cao trào

kháng Nhật cứu nước rộng khắp trên cả nước phân tích những điều kiện cụ thể
để khởi nghĩa có thể nổ ra và giành thắng lợi; đặt ra cho các Đảng bộ địa
phương tinh thần chủ động sáng tạo trong lãnh đạo khởi nghĩa ở địa phương
mình khi ở đó những điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi. Hội nghị cán bộ Đảng
toàn quốc ở Tân Trào giữa tháng 8 - 1945 đã kịp thời quyết định Tổng khởi
19
nghĩa trên cả nước sau khi quân Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh và trước
khi quân đội Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân Nhật. Thời cơ khởi
nghĩa thuận lợi nhất là nửa cuối tháng 8 - 1945. Khởi nghĩa đã nổ ra và giành
thắng lợi đúng như thế. C.Mỏc núi khởi nghĩa là một nghệ thuật. Điểm tuyệt
diệu nhất của nghệ thuật đó là chớp đúng thời cơ. Khi phát động khởi nghĩa
Đảng và Hồ Chí Minh cũng đã sớm nhận thấy khó khăn phức tạp và nguy cơ
mới xuất hiện đó là quân đội Đồng minh kéo vào. Phải giành thắng lợi trước khi
quân Đồng minh vào Đông Dương để với tư cách người chủ đất nước tiếp quân
Đồng minh. Đó là quyết định đúng đắn và tránh những khó khăn không lường
hết được. Như vậy, Cách mạng tháng Tám không chỉ tranh thủ điều kiện thuận
lợi khi quân Nhật đầu hàng Đồng minh mà còn tránh được khó khăn mới nảy
sinh do tình hình quốc tế đưa lại.
Một thành công nổi bật của Đảng và Hồ Chí Minh trong lãnh đạo Cách mạng
tháng Tám đó là huy động được sức mạnh của lực lượng toàn dân tộc, nêu cao
tinh thân yêu nước, khát vọng độc lập tự do ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Đảng và Hồ Chí Minh đã sớm nhen nhóm
tổ chức yêu nước và phát triển lực lượng cách mạng rộng khắp trên tất cả địa
bàn: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; trong tất cả mọi giai cấp, tầng lớp
xã hội kể cả các giai cấp bóc lột, tầng lớp trên có tinh thần yêu nước, các dân
tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước, tiến
bộ. Không có lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc như thế, không thể
có thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.
(Cách mạng tháng 8/1945 thắng lợi, quốc khánh 2/9)
20

(Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến)
21
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh sự nghiệp làm nên bởi chữ “đồng'',
đồng chí, đồng lòng, đồng sức nghĩa là toàn dân kết thành một khối xung quanh
Đảng, Mặt trận Việt Minh và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Với sức
mạnh của toàn dân được tổ chức lại trên khắp các địa phương, địa bàn khi thời
cơ đến mới có thể chủ động giành thắng lợi. Trên thế giới có những cuộc khởi
nghĩa và chiến tranh cách mạng hoặc là diễn ra chủ yếu ở thủ đô, thành phố rồi
mới lan ra, kết thúc ở nông thôn hoặc là diễn ra chủ yếu ở nông thôn, lấy nông
thôn bao vây thành thị. Việt Nam, khởi nghĩa nổ ra đều khắp trên tất cả các địa
bàn, địa phương, có sự phối hợp, hưởng ứng giữa các địa phương và địa bàn đó
ở đây thể hiện năng lực tổ chức, chỉ đạo thực tiễn rất cao của hệ thống tổ chức
Đảng, Việt Minh và của đội ngũ cán bộ, đảng viên đồng thời thể hiện tính năng
động, sáng tạo và trách nhiệm trước dân tộc, trước lịch sử.
Khi chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã phân tích sâu sắc
mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng ở
các thuộc địa thông qua hình tượng coi CNTB thực dân như con đỉa có 2 vòi:
một vòi bám vào giai cấp vô sản chính quốc và một vòi bám vào các dân tộc
thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ sự phối hợp của cách mạng vô sản ở chính
quốc và cách mạng thuộc địa như hai cánh chim. Người cũng sớm đề cập tới ý
chí tự lực tinh thần chủ động giành thắng lợi của cách mạng ở các thuộc địa.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo cao trào cách mạng GPDT 1939 - 1945 Đảng và Hồ Chí
Minh đã phát huy cao độ tinh thần chủ động giành thắng lợi. Đặt ra và tranh thủ
tối đa điều kiện thuận lợi của quốc tế. nhưng không ỷ lại trông chờ lực lượng
bên ngoài đến giải phóng cho mình, mà quyết tâm đứng lên tự giải phóng, chủ
động giành thắng lợi. Đảng đã kết hợp thành công sức mạnh của dân tộc với sức
mạnh của thời đại nhưng cái gốc vẫn là sức mạnh dân tộc, là nội lực, là ý chí và
quyết tâm tự cứu lấy mình.
Có đường lối đúng, được hoạch định trên cơ sở tư duy chính trị, lý luận cách
mạng khoa học và thực tiễn sinh động của xã hội, đất nước là một bảo đảm cho

thắng lợi của cách mạng. Đường lối có được tổ chức thực hiện, cụ thể hoá và
phát triển một cách sáng tạo là thêm sự bảo đảm chắc chắn cho thắng lợi. Đó
cũng là một trong những bài học lịch sử quan trọng và chủ yếu của Cách mạng
tháng Tám năm 1945, rất có ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới của Đảng và
nhân dân ta hiện nay.
IV. Liên hệ thực tiễn:
Trước tiên chúng ta cần phải hiểu Cách mạng vô sản là gì.Cách mạng vô sản:
là một cuộc cách mạng xã hội hoặc/và chính trị mà theo đó giai cấp công nhân
tiến hành lật đổ tư bản. Cách mạng vô sản thường được những người theo chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ủng hộ.
22
Bản chất của Cách mạng vô sản là Bản chất của CMVS là giải phóng con
người khỏi áp bức bóc lột, bất công, xóa bỏ chế độ tư hữu, thành lập chính
quyền mới mà giai cấp công nhân là người lãnh đạo.
Chủ nghĩa Mác cho rằng là bước đầu tiên tiến đến loại bỏ ách áp bức bóc lột
của chủ nghĩa tư bản. Lênin cho rằng : để chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư
bản, đảm bảo cho các dân tộc giành lại được độc lập, thì phải thực hiện sự liên
minh, thống nhất của giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới. Lênin khẳng định rằng, không có sự cố gắng tự nguyện tiến
tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể
quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới, thì
không thể chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản được. Nguyễn Ái Quốc cho
rằng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản.
Để hiểu tại sao Việt Nam đi theo con đường Cách mạng vô sản cần phải dựa
vào điều kiện lịch sử cụ thể trên thế giới và Việt Nam cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ
20. Tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỉ 19 đầu 20:
Từ nửa sau thế kỉ 19 chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nền kinh tế hàng
hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đú chính là nguyên

nhân sâu xa dẫn đến các cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến
phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ hàng hóa, mua
bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế
quốc. Chủ nghĩa đế quốc đã khai thác thuộc địa mức tối đa với mục tiêu lợi
nhuận lớn nhất đem về cho chính quốc. Sự áp bức và thôn tính dân tộc thuộc địa
càng tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa và đế quốc càng gay gắt. Phản
ứng của dân tộc của nhân dân thuộc địa càng quyết liệt. Sự thức tỉnh về ý thức
dân tộc và phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách thực dân, lập
lại độc lập tự do trên thế giới chịu tác động sâu sắc của các chính sách thống trị
của chủ nghĩa thực dân.
Đầu thế kỉ 20, Cách mạng tháng 10 Nga(1917) thành công. Đối với Nga đó
là cuộc Cách mạng vô sản nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc
Nga thỡ đú còn là 1 cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trước cách mạng
“Nga là nhà tù của cỏc dõn tộc”. Cách mạng vô sản Nga thành công đó nờu tấm
gương sáng về sự giải phóng các dân tộc bị áp bức, đã mở ra trước mắt họ thời
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Nó làm cho cách mạng
vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc
đấu tranh chống kẻ thù chung đế quốc.
23
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc tế
cộng sản/1920, Sơ thảo lần 1 những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa
của Lên nin được công bố. Luận cương mới này đã chỉ ra hướng đấu tranh giải
phóng dân tộc bị áp bức. Với thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga và sự ra
đời của Quốc tế Cộng sản, nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới đã ra đời.
Tình hình thế giới đầy biến động này đã tác động mạnh mẽ đến Việt Nam về
mọi mặt, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
Sau khi Pháp xâm lược, nền kinh tế Việt Nam kết hợp 2 phương thức bóc lột
tư bản và phong kiến để đế quốc thu lợi nhuận siêu ngạch nên kinh tế Việt Nam
không phát triển lên chủ nghĩa tư bản bình thường mà bị kìm hãm trong vòng

lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào Pháp. Về chính trị, Pháp tiến hành chính sách
chuyên chế bởi bộ máy đàn áp nặng nề. Chúng bóp nghẹt tự do dân chủ, thẳng
tay đàn áp, dỡm cỏc cuộc đấu tranh trong biển máu. Tiêu biểu là các là các cuộc
đấu tranh của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh như đã tìm hiểu (phần b). Về
văn hóa, Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gõy tõm lớ tự ti,
vong bản, khuyến khích mê tín, đồi phong bại tục, ngăn cản ảnh hưởng tiến bộ
của văn hóa thế giới vào Việt Nam. Về xã hội, Việt Nam thời kì này hình thành
các giai cấp: Địa chủ phong kiến, tư sản, nông dân, công nhân. Địa chủ phong
kiến chiếm số ít và chỉ có một bộ phận nhỏ có ý thức đấu tranh, phần lớn còn lại
là tay sai cho Pháp. Tư sản số lượng ít, thế lực yếu, bị Pháp chèn ép nhiều.
Đông nhất là tư sản dân tộc chủ yếu là tư sản vừa và nhỏ. Tư sản dân tộc và tiểu
tư sản có ý thức đấu tranh là một bộ phận quan trọng của cách mạng. 2 giai cấp
còn lại là trọng yếu trong công cuộc đấu tranh sau này.
Giai cấp nông dân Việt Nam chiếm khoảng 90% dân số, bị đế quốc, phong
kiến và tư sản áp bức bóc lột nặng nề. Ruộng đất của nông dân bị tư sản chiếm
đoạt. Chính sách kinh tế của đế quốc là mua rẻ bán đắt, tô thuế cao đã đẩy nông
dân vào con đường bần cùng hóa không lối thoát. Một số ớt lờn thành phố lao
động, làm thuê cho các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu tại
các thuộc địa khác của Phỏp. Cũn phần đông vẫn gắn chặt vào ruộng đồng và
gánh chịu sự bóc lột vô cùng nặng nề. Vì bị cướp nước và mất ruộng đất nên
nông dân có mâu thuẫn vô cùng sâu sắc với phong kiến và đế quốc, đặc biệt là
đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có yêu cầu về ruộng đất song yêu cầu
về độc lập là bức thiết nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp công
nhân khi được tổ chức lại và có sự lãnh đạo của 1 đội tiên phong cách mạng sẽ
phát huy vai trò quan trọng của mình trong công cuộc đấu tranh vì độc lập dân
tộc. Giai cấp đi tiên phong đú chớnh là giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân Việt nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác
thuộc địa Pháp. Giai cấp công nhân Việt Nam xuất hiện vào cuối thế kỉ 19, tuy
mới hình thành còn non trẻ, chiếm 1% dân số, trình độ học vấn, kĩ thuật thấp
nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, trung tâm công nghiệp, đồn điền.

24
Giai cấp công nhân Việt Nam cũng phải chịu 3 tầng áp bức đế quốc, phong
kiến, tư sản bản xứ; phần lớn xuất thân từ nông dân bần cùng hóa nên có quan
hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực
lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ, có ý thức
tổ chức, kỉ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để lại mang bản chất quốc tế,
họ là 1 động lực cách mạng mạnh mẽ và khi liên minh được với giai cấp nông
dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc
trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức lại, được Đảng tiên
phong Cách mạng lãnh đạo lại được trang bị học thuyết cách mạng triệt để là
chủ nghĩa Mỏc-Lờnin thì giai cấp công nhân trở thành người lãnh đạo cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc này.
Như vậy có thể thấy rằng, dựa vào tình hình thực tế ở Việt Nam và các tác
động tích cực trên thế giới, Người nhận thấy rằng để đi đến thắng lợi độc lập tự
do dân chủ chúng ta không còn con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản và
Cách mạng vô sản trong thời đại mới phải do giai cấp vô sản lãnh đạo chính là
giai cấp công nhân dưới sự dẫn dắt của 1 Đảng cách mạng. Ngày 3/2/1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Ở Việt Nam , vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng
đã sớm được khẳng định cả về lý luận cũng như trong thực tiễn. Đó là một trong
những bài học hàng đầu của mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Lịch sử đã
trao quyền lãnh đạo cách mạng cho giai cấp công nhân mà Đảng cộng sản Việt
Nam là đại biểu.
Cách mạng trước hết phải có Đảng: Trong tác phẩm "Đường Cách Mệnh",
Hồ Chí Minh khẳng định: "Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận
động, tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi. Đảng cú vững,cỏch mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thì thuyền mới chạy "(Hồ Chí Minh :Toàn tập ,t.2 , tr.267,267-
278) .
Đảng Cộng Sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất :

- Đầu năm 1930, Hồ Chí Minh sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam – một
chính Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác -
Lê nin "làm cốt", có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật thiết liên hệ
với quần chúng.
- Theo Hồ Chí Minh: Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trong các cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược, Hồ Chí Minh lấy nhân dân là nguồn sức mạnh.
- Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mạng tiên phong, phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng
25

×