Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.7 KB, 28 trang )


TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

[\[\



TIỂU LUẬN
Đề tài:


Thực trạng và giải pháp thúc đẩy
quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam
Thực trạng và giải pháp thúc đẩy quá
trình cổ phần hoá ở Việt Nam”.
Chơng I:
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ CỔ PHẦN HOÁ
1.1. Công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng nhau góp vốn, cùng
nhau chia lợi nhuận, cùng nhau chịu lỗ tơng ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm
về các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn của mình góp vào công ty.
Luật công ty nớc ta (bàn hành 21/12/1990) và đợc sửa đổi ngày 22/6/1994 quy định
công ty cổ phần là công ty trong đó:
- Số thành viên gọi là cổ đông phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là bảy.
- Vốn điều lệ của công ty đợc nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ
phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu.
- Cổ phiếu đợc phát hành có thể có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng
lập viên, của thành viên hội đồng quản trị phải là cổ phiếu có ghi tên.
- Cổ phiếu không ghi tên có thể tự do chuyển nhợng. Cổ phiếu có ghi tên chỉ đợc


chuyển nhợng nếu có sự đồng ý của hội đồng quản trị.
1.1.2.Ưu điểm của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trờng.
* Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh huy động tập trung đợc
nhanh số vốn quy mô lớn và hiệu quả cao.
Bằng việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu, công ty cổ phần có thể huy động thu thú
đợc những khoản tiền nhỏ bé, tản mạn nhàn rỗi trong xã hội, tập trung lại thành những
khoản vốn lớn đầu t vào những ngành, lĩnh vực đòi hỏi lợng vốn lớn và dài hạn, mà mỗi cá
nhân hoặc doanh nghiệp không có khả năng tích luỹ đợc. Đây là u điểm lớn nhất của công
ty cổ phần, khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác bởi vì công ty cổ phần là loại
hình doanh nghiệp duy nhất đợc phép phát hành cả cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn.
Thông qua việc mua cổ phiếu và trái phiếu, các nhà đầu t sẽ đợc nhận các cổ tức cao. Các
cổ đông mua cổ phiếu còn đợc quyền tham dự đại hội cổ đông, có quyền biểu quyết các
quyết định phơng hớng hoạt động, quyết định việc phân chia lợi nhuận, bầu và bãi miễn
các thành viên của Hội đồng quản trị và nếu điều kiện và khả năng cho phép có thể đợc đề
cử vào ban lãnh đạo của công ty. Cũng chính vì những lợi ích trên mà việc mua cổ phiếu
hấp dẫn hơn gửi tiền vào quỹ tiết kiệm hoặc các ngân hàng.
* Công ty cổ phần tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế tăng trởng nhanh.
Vốn đợc tập trung từ nhiều ngời với khối lợng lớn không chỉ có điều kiện thuận lợi
đầu t vào những ngành đòi hỏi vốn lớn, những ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao
mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp phải ra sức hoàn thiện tổ chức quản lý cho phù hợp với
sản xuất kinh doanh kiểu mới, tạo đợc uy tín thật sự, gây đợc tin tởng đối với ngời góp vốn.
Xét về cơ cấu kinh tế, công ty cổ phần phát triển cũng sẽ làm biến đổi cơ cấu ấy trên
cơ sở sử dụng đồng vốn, khai thác tiềm năng lao động đất nớc mang lại hiệu quả kinh tế xã
hội tốt nhất, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội năng động nhất.
* Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro, nhằm hạn chế các tác
động tiêu cực về kinh tế xã hội, doanh nghiệp lâm vào tình trạng đình đốn phá sản.
Công ty cổ phần hoạt động theo chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn. Theo chế độ này
thì có sự phân biệt rõ ràng tài sản của công ty và phần vốn của cổ đông. Trách nhiệm tài
chính của công ty giới hạn trong phạm vi tài sản của công ty và phần vốn của cổ đông theo
tỷ lệ đóng góp của mỗi ngời. Điều đó đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại rủi ro,

thua lỗ.
Dới hình thức công ty cổ phần, ngời có nhiều vốn muốn đầu t có thể mua cổ phiếu,
trái phiếu ở nhiều công ty khác nhau, do đó, sự rủi ro và mạo hiểm của đầu t đợc phân tán
vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nhiều công ty, làm giảm bớt đợc thiệt hại của ngời đầu t
góp vốn hơn là tập trung vào một công ty khi công ty bị phá sản. Cơ chế phân bố rủi ro
này sẽ tạo điều kiện cho những ngời có vốn mạnh dạn đầu t theo sự tính toán, cân nhắc lựa
chọn vào nhiều công ty mà họ tín nhiệm, làm cho nền kinh tế phát triển và có xu thế ổn
định.
* Công ty cổ phần thúc đẩy quá trình phân công chuyên môn hoá.
Với khả năng tập trung vốn tơng đối lớn, các công ty cổ phần có thể tranh thủ khoa
học kỹ thuật, công nghệ hiện đại, mạnh dạn đầu t vào các ngành nghề mới, có triển vọng
đạt lợi nhuận cao làm biến đổi cơ cấu nền kinh tế, từ đó tác động đến phân công lao động
xã hội. Cơ cấu đội ngũ công nhân cũng biến đổi không chỉ tăng về số lợng mà còn trình độ
lành nghề, các chức năng của đội ngũ cán bộ quản lý điều hành cũng chuyên sâu và đa
dạng hơn. Trong nội bộ công ty do phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kinh
doanh nên tạo cho những ngời góp vốn tham gia quản lý thật sự công ty và lựa chọn
những giám đốc, những thành viên Hội đồng quản trị có tài năng và tích cực, đủ sức đảm
nhiệm chức trách, bảo đảm đợc quyền lợi, lợi ích trách nhiệm của các chủ sở hữu. Với
hình thức công ty cổ phần, ngời không thông thạo kinh doanh cũng yên tâm vì đồng vốn
của họ đóng góp vào công ty vẫn đem lại thu nhập do đã đợc các nhà chuyên nghiệp sử
dụng.
Nh vậy, qua nghiên cứu về công ty cổ phần trên đây ta có thể thấy công ty cổ phần
có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trờng. Đó là mọi loại hình công ty
có cấu trúc khá phức tạp - một kết cấu kinh tế tách biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng để
chuyên môn hoá kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Đồng thời công ty cổ phần giải
quyết đợc một cách hợp lý vấn đề lợi ích tạo động lực kinh doanh có hiệu quả của các
nhóm thành viên trong công ty: cổ đông, Hội đồng quản trị và ngời quản lý (Ban giám
đốc). Có thể nói công ty cổ phần là kiểu tổ chức kinh doanh tiến bộ văn minh nhất, u việt
nhất của xã hội nhân loại so với các kiểu công ty khác. Và đây là loại hình công ty không
thể thiếu đối với các nớc có nền kinh tế thị trờng. ở Việt Nam, từ khi chuyển sang cơ chế

thị trờng đã hình thành một mạng lới các công ty cổ phần. Tuy số lợng cha phải là nhiều
song loại hình doanh nghiệp này đã tỏ rõ tính hiệu quả của nó. Vì vậy, Đảng và Nhà nớc ta
đã chủ trơng phát triển mạnh hệ thống công ty cổ phần mà một trong các cách để thực hiện
việc đó là cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc.
1.2. Cổ phần hoá.
* Khái niệm và thực chất của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc.
Cổ phần hoá là một khái niệm còn khá mới mẻ ở nớc ta. Về thực chất của cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nớc có ngời cho rằng đó là việc t nhân hoá doanh nghiệp nhà nớc. ý
kiến này chỉ đúng với một số doanh nghiệp nhà nớc nhất định. Khi mà các doanh nghiệp
ấy xét thấy quốc doanh làm không hiệu quả có thể cho t nhân mua lại và nh vậy là t nhân
hoá doanh nghiệp nhà nớc.
Nhng ý kiến đó không đúng ở nhiều điểm:
ã Lẫn lộn khái niệm cổ phần hoá với t nhân hoá. T nhân hoá là biến một tài sản vốn
thuộc sở hữu công thành sở hữu t, có thể diễn ra cả đối với doanh nghiệp nhà nớc và tập
thể. Còn cổ phần hoá là đa sở hữu hoá tài sản, tức là chấp nhận nhiều ngời cùng sở hữu tài
sản - sở hữu hỗn hợp.
ã Phơng pháp t nhân hoá là bán tài sản doanh nghiệp nhà nớc cho t nhân hoặc thậm
chí cho không t nhân tài sản đó. Còn phơng pháp cổ phần hoá là huy động nhiều chủ thể
đầu t thuộc các thành phần khác nhau và cũng có thể là các chủ thể trong một thành phần
kinh tế cùng góp vốn để chuyển từ một chủ sở hữu sang đa sở hữu. Khi đánh giá phần giá
trị tài sản để cổ phần hoá có thể nhà nớc cũng góp cổ phần vào doanh nghiệp vốn của
mình đã cổ phần hoá.
ã Hình thức cổ phần hoá rất đa dạng:
- Bán cho các t nhân khác nhau cùng góp cổ phần thành một công ty cổ phần. Hình
thức này đồng dạng với t nhân hơn nhng lại khác là đa số hơn.
- Tất cả các thành phần kinh tế cùng góp cổ phần để mua doanh nghiệp nhà nớc (kể
cả quốc doanh) để chuyển sang công ty cổ phần. Hình thức này vừa đa sở hữu vừa đa
thành phần, nói đúng hơn là đa sở hữu đa thành phần. Trong hình thức này tuỳ thuộc vào
phần trăm cổ phần trong doanh nghiệp để xác định vai trò của ngời chủ sở hữu chủ yếu.
- Chỉ có nhà nớc và t nhân cùng góp vốn cổ phần để mua lại.

- Tập thể và t nhân cùng góp cổ phần để mua lại.
- Các doanh nghiệp khác cùng nhauu góp cổ phần để mua lại, nhà nớc cũng có thể
tham gia một phần.
- Các doanh nghiệp khác nhau cùng góp cổ phần để mua lại.
- Công nhân vốn của doanh nghiệp ấy đứng ra góp vốn để mua lại doanh nghiệp để
cổ phần hoá, hoặc Nhà nớc cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp ấy và chia cổ phần
cho công nhân.
- Nhà nớc cùng các công ty nớc ngoài cùng góp vốn để cổ phần hoá.
- Bán hẳn cho các công ty nớc ngoài góp vốn mụa để thành công ty cổ phần
Nh vậy, không thể quan niệm cổ phần hoá thực chất là t nhânhoá. Mà cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nớc nên đợc hiểu là quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nớc thành công
ty cổ phần với hai nội dung là chuyển toàn bộ hay một phần vốn và tài sản thuộc sở hữu
Nhà nớc và các lĩnh vực lâu nay nhà nớc độc quyền cho các cổ đông.
1.3. Những nguyên nhân dẫn đến phải tiến hành cổ phần hoá.
- Tình trạng hoạt động thiếu hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nớc. Đây là nguyên
nhân quan trọng khiến hầu hết các chính phủ đi đến quyết định cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nớc. Do đâu mà có tình trạng này? Một điều dễ nhận thấy là ngay cả những
điều kiện thuận lợi thì hiệu quả của các xí nghiệp quốc doanh cũng chỉ đạt mức thấp hơn
nhiều so với mức trung bình của khu vực t nhân. Những doanh nghiệp nhà nớc thờng có vị
thế độc quyền, đợc nhà nớc bảo hộ và không có sự cạnh tranh với hàng nhập khẩu, mặc dù
về quản lý đã đợc điều hành không có hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nớc trong bản
thân sở hữu nhà nớc với sự điều tiết trực tiếp của nhà nớc ở các doanh nghiệp này. Đó là:
+ Hệ thống kế hoạch và tài chính cứng nhắc không có tính chất thích ứng với cơ chế
thị trờng vì đợc quản lý theo hệ thống chính sách từ trên xuống với nhiều cấp trung gian.
Nguồn tài chính đợc sử dụng hoàn toàn theo kế hoạch đợc duyệt từ đầu năm, không có sự
chuyển đổi linh hoạt nhằm sử dụng hợp lý nguồn vốn và cũng không đợc chuyển sang cho
năm sau. Điều này làm cho các kế hoạch tài chính của doanh nghiệp không có động cơ tiết
kiệm vì vậy không hợp lý hoá đợc sản xuất và giá thành luôn luôn phải cộng nhiều chi phí
so với các doanh nghiệp t nhân.
+ Tính tự chủ trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

nhà nớc bị hạn chế vì nhiều qui chế liên quan đến quyền sở hữu của nhà nớc, do đó gây ra
những yếu tố làm cản trở đến hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp. Chẳng hạn, việc bổ
nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp nhà nớc đợc quyết định từ cơ quan cấp trên, nên sẽ xuất hiện
xu hớng là các nhà quản lý cao cấp cố gắng thiết lập các mối quan hệ thân thiện với cấp
trên hoặc các nhà hoạt động chính trị và tranh thủ tìm những doanh nghiệp ở những vị trí
béo bở hơn là tìm cách nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp hoặc là vì nhà nớc
là chủ sở hữu các doanh nghiệp nên các quyết định kinh doanh về đầu t, giá cả thị trờng
cung ứng và tiêu thụ của doanh nghiệp lại do hệ thống phức tạp của chủ thể cấp trên điều
tiết vừa thiếu thống nhất và không rõ ràng về trách nhiệm với các quyết định của mình,
gây trở ngại tới hiệu quả công việc của các doanh nghiệp nhà nớc.
+ Tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nớc trên thị trờng đợc pháp luật
của nhà nớc củng cố đã đánh mất những động lực nâng cao hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp này, đa đến tình trạng xã hội buộc phải chấp nhận tiêu dùng các hàng hoá và
dịch vụ cho chúng sản xuất ra với chất lợng ít đợc cải tiến nhng giá cả ngày càng tăng
không hợp lý và nếu không tăng giá thì nhà nớc phải chịu những gánh nặng trợ cấp ngày
càng lớn.
+ Các doanh nghiệp nhà nớc đợc thành lập nhờ nguồn vốn của nhà nớc, không đợc
phép phá sản và đợc che chắn từ các khoản trợ cấp từ ngân sách hoặc đợc sử dụng các
nguồn vốn nội bộ với lãi suất thấp hoặc đợc u tiên tiếp cận với các nguồn tài chính nớc
ngoài. Vì vậy các doanh nghiệp nhà nớc không có các yếu tố kích thích phải nâng cao hiệu
quả để tồn taị trong cạnh tranh đối với các doanh nghiệp t nhân.
+ Động cơ hoạt động của các doanh nghiệp nhà nớc chỉ nhằm củng cố tránh né sự
thẩm xét của các cơ quan cấp trên trớc những sản phẩm và dịch vụ đối với ngời tiêu dùng
cũng nh tránh né sự xung đột trong nội bộ, tránh né những sự cải tổ đổi mới tổ chức quản
lý để nâng cao hiệu quả, đảm bảo cho xí nghiệp có điều kiện hoạt động dễ chịu và ổn định.
Do đó, mua sắm trang thiết bị ngày càng d thừa, biên chế ngày càng phình to dẫn đến chi
phí quá mức so với nguồn thu. Đó là cha kể đến “chi phí chính trị” to lớn để trốn tránh
những cuộc kiểm tra của các cơ quan cấp trên nh quốc hội hoặc bộ chủ quản. Tình trạng
này đã gây ra những ảnh hởng tiêu cực đến việc tiết kiệm các nguồn lực và nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp.

Chơng II:
THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NỚC Ở
NỚC TA HIỆN NAY.
2.1. Thực trạng các doanh nghiệp nhà nớc trong nền kinh tế nớc ta.
2.1.1. Sự ra đời của doanh nghiệp nhà nớc và hoạt động của nó trong cơ chế cũ.
Hệ thống doanh nghiệp nhà nớc ta đã có hơn 40 năm xây dựng và phát triển. Trong
thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta, các xí nghiệp quốc doanh (doanh
nghiệp nhà nớc) là lực lợng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chúng đợc hình thành từ
3 nguồn sau:
Thứ nhất, xây dựng bằng nguồn vốn của ngân sách nhà nớc, nguồn viện trợ hoặc đi
vay (của Liên xô cũ, Trung Quốc và các nớc XHCN khác trong thời kỳ đó).
Thứ hai, quốc hữu hoá xí nghiệp của các nhà t sản mại bản, t sản dân tộc đã bỏ ra nớc
ngoài hoặc xí nghiệp nhà nớc của chế độ cũ. Hình thức này đợc áp dụng rộng rãi trong
những năm 50, 60 đợc tiếp tục trong những năm 70 và đỉnh cao vào năm 1975, 1976.
Thứ ba, biến các xí nghiệp t nhân của các nhà t sản dân tộc thành các xí nghiệp công t
hợp doanh và sau đó thành các xí nghiệp quốc doanh.
Cũng giống các nớc theo nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khác Việt Nam đã vận dụng
học thuyết Mác - Lênin để thực hiện chế độ công hữu về t liệu sản xuất, coi chế độ công
hữu là nền tảng kinh tế để xoá bỏ sự phân hoá giàu nghèo, bất công xã hội do nền kinh tế
thị trờng và chế độ t hữu gây ra, để xây dựng một chế độ công hữu do nhân dân lao động
làm chủ. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nớc ta đã nhấn mạnh vào nhiệm vụ và
vai trò của kinh tế nhà nớc, coi đó là hiện thân của chế độ công hữu có sức mạnh toàn
năng trong việc tổ chức mọi hoạt động kinh tế của xã hội đồng thời phủ nhận vai trò của
thị trờng, của kinh tế t nhân.
Vì vậy nền kinh tế quốc dân ở nớc ta không phải là một nền sản xuất hàng hoá mà là
một nền kinh tế hiện vật và xã hội hoá đợc quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu, bao cấp: Nhà nớc XHCN vừa tập trung quyền lực chính trị vừa là chủ sở hữu
duy nhất và thống nhất đối với tuyệt đại đa số các t liệu sản xuất của xã hội. Và nhà nớc
vừa là ngời chỉ huy, vừa là ngời tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh.
Ở nớc ta, trong thời gian dài trớc đại hội Đảng lần thứ VI (12 - 1986) doanh nghiệp

nhà nớc đã hình thành và phát triển với một cơ cấu tơng đối hoàn chỉnh, ở tất cả các lĩnh
vực, các ngành kinh tế quốc dân nh hàng không, hàng hải, bu điện, đờng sắt, nông nghiệp,
lâm nghiệp, đánh cá đến các dịch vụ đơn giản. Doanh nghiệp nhà nớc giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân và nắm 100% các ngành then chốt nh điện, khai khoáng, luyện
kim, chế tạo máy công cụ, hoá chất, nhiên liệu, xi măng, bu điện viễn thông, giao thông
đờng sắt, đờng thủy, ngoại thơng, ngân hàng, quốc phòng và an ninh. Trong công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, lực lợng doanh nghiệp nhà nớc cũng chiếm
tỉ trọng tuyệt đối lớn hoặc phần lớn đối với các sản phẩm chủ yếu nh: 100% hàng dệt kim,
thuốc chữa bệnh, bia, 90% quạt điện, 85% giấy viết, 85% vải mặc, 70% xe đạp hoàn chỉnh.
Các doanh nghiệp nhà nớc chiếm khoảng 85% vốn cố định của nền kinh tế, 90% lao
động có kỹ thuật, cán bộ khoa học và quản lý đợc đào tạo của cả nớc. Nhà nớc cũng u tiên
dành nhiều nguồn lực để phát triển các doanh nghiệp nhà nớc. Chỉ tính riêng trong khoảng
mời năm, từ 1976 đến 1985, nhà nớc đã phân bố từ 60 - 70% vốn đầu t của toàn bộ nền
kinh tế và trên 90% vốn tín dụng với lãi suất u đãi cho các doanh nghiệp nhà nớc.
Hàng năm các doanh nghiệp nhà nớc đóng góp khoảng 30 - 40% tổng sản phẩm xã
hội và 28 - 30% thu nhập quốc dân. Phần thu của doanh nghiệp nhà nớc từ doanh nghiệp
nhà nớc thông qua doanh nghiệp nhà nớc là phần thu lớn nhất, dao động hàng năm trong
khoảng 60 - 70%.
Do chúng ta duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp trong
khu vực doanh nghiệp nhà nớc nên khu vực kinh tế này đã bộc lộ những yếu kém nghiêm
trọng. Đó là:
- Năng suất, chất lợng và hiệu quả rất thấp. Toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nớc
không vợt qua ngỡng cửa tái sản xuấta giản đơn. Tính chung trong vòng mời năm 1976 -
1985 tỉ lệ chi của nhà nớc và thu của doanh nghiệp nhà nớc là 3:1.
- Doanh nghiệp nhà nớc hoạt động theo cơ chế thực thanh - thực chi, giao đủ nộp đủ.
Nhà nớc bao cấp và quyết định giá đầu vào, đầu ra, nên doanh nghiệp không phải tính toán
hiệu quả kinh doanh. Hoạt động thua lỗ có nhà nớc gánh chịu.
- Sự phân phối thu nhập trong doanh nghiệp theo cách bình quân đã làm suy yếu
động lực kích thích lao động, làm việc có năng suất, chất lợng và hiệu quả.
- Bộ máy doanh nghiệp cồng kềnh, nhiều cấp trung gian với chức năng chồng chéo.

Các cơ quan quản lý thờng can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh ngày ngày của
doanh nghiệp.
2.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng nớc ta hiện
nay.
Trong một thời kỳ dài chúng ta đã mắc sai lầm quá sùng bái kinh tế quốc doanh, đã
thành lập tràn lan các doanh nghiệp nhà nớc. Trong cơ chế cũ các doanh nghiệp nhà nớc
đã bộc lộ các yếu kém nh đã trình bày ở phần trên.
Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng có sự quản
lý của nhà nớc, hệ thống kinh tế quốc doanh vẫn đợc xác định vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân cần phải củng cố và phát triển nhất là trong ngành và lĩnh vực then chốt,
quan trọng, có tác dụng mở đờng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát
triển.
Doanh nghiệp nhà nớc có vai trò chủ đạo theo nghĩa là công cụ điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Vai trò chủ đạo của nó gắn liền với vai trò quản lý của Nhà nớc đối với nền kinh tế
thị trờng. Đây là yêu cầu có tính quy luật chung của sự phát triển kinh tế xã hội, vì bản
thân nền kinh tế thị trờng chứa đựng những khuyết tật mà muốn khắc phục nhất thiết phải
có sự quản lý của nhà nớc.
Các doanh nghiệp nhà nớc bao gồm các các doanh nghiệp hoạt động hoạt động kinh
doanh và các doanh nghiệp hoạt động công ích đợc củng cố và phát triển trong các ngành
và lĩnh vực then chốt, tạo cơ sở hạ tầng và tiền đề tốt cho sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Thông qua doanh nghiệp nhà nớc, nhà nớc tạo ra nguồn dự trữ đủ mạnh
để có thể can thiệp vào thị trờng, thực hiện điều chỉnh các cân đối cơ bản của nền kinh tế.
Doanh nghiệp thực hiện việc đầu t có định hớng để khắc phục bản chất “vô chính phủ” của
nền kinh tế thị trờng, duy trì môi trờng cạnh tranh lành mạnh, chống xu hớng độc quyền
của tập đoàn t nhân, đi đầu trong đổi mới công nghệ thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo
xu hớng năng suất - chất lợng - hiệu quả.
Nh vậy, vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nớc xuất phát từ yêu cầu khách quan
của nền kinh tế thị trờng nớc ta và đợc ghi thành chủ trơng, chính sách và pháp luật của
nhà nớc. Vai trò luật định này là yếu tố quan trọng chi phối sự điều chỉnh pháp lý đối với
tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nớc. Để thực hiện đợc vai trò đó trớc hết phải

kiên quyết đổi mới hệ thống doanh nghiệp này. Việc đổi mới phải đợc đặt trong sự phát
triển tổng thể nền kinh tế quốc dân và phải xuất xứ từ thực trạng doanh nghiệp nhà nớc ở
nớc ta.
2.1.3. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nớc ta hiện nay.
Trong cơ chế cũ, ở nớc ta doanh nghiệp nhà nớc tồn tại với một số lợng khổng lồ.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, tính đến ngày 1 - 9 - 1990 cả nớc có 12.084 doanh
nghiệp trong tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và do nhiều cấp quản
lý. Sau khi thực hiện việc tổ chức sắp xếp lại theo quyết định 315/HĐBT ngày 1 - 9 - 1990
và thành lập lại các doanh nghiệp nhà nớc theo nghị định 388/ HĐBT và ngày 20 - 11 -
1991 và sau hàng loạt cải cách, đến nay doanh nghiệp nhà nớc vẫn còn khoảng 5800
doanh nghiệp (theo số liệu của vụ đăng ký kinh doanh - Bộ kế hoạch đầu t). Trong đó có
khoảng 30% là doanh nghiệp nhà nớc do các bộ ngành trung ơng quản lý và khoảng 70%
doanh nghiệp do uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng quản lý.
Đến năm 1995, số lợng các doanh nghiệp nhà nớc vẫn chiếm tỷ trọng lớn so với các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh: trong lĩnh vực công nghiệp là 78,8%; Xây dựng cơ bản:
49%; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: 99,6%, giao thông vận tải, bu điện: 54%; thơng
nghiệp, vật t: 46,5%.
Sau 5 năm đổi mới và điều hành, số lợng các doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta giảm
gần song nh vậy vẫn còn quá nhiều. Các doanh nghiệp nhà nớc hiện nay vẫn còn tồn tại ở
hầu hết các ngành, các lĩnh vực, điều đó là không cần thiết. Hơn nữa với số lợng doanh
nghiệp nhà nớc nhiều nh vậy làm vợt quá khả năng nguồn lực về vốn và cán bộ quản lý
của nớc ta hiện có.
Hệ thống doanh nghiệp nhà nớc phân bố còn nhiều bất hợp lý. Các doanh nghiệp nhà
nớc chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn nh Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, thành phố
Hồ Chí Minh. Nhiều vùng của đất nớc có nguồn tài nguyên phong phú, lao động dồi dào ở
miền núi phía Bắc hầu nh không có doanh nghiệp nhà nớc. Sự phân tán của các doanh
nghiệp nhà nớc ở các ngành các lĩnh vực dẫn đến các tình trạng trên cùng một địa bàn lãnh
thổ doanh nghiệp nhà nớc của Trung ơng, địa phơng hoạt động chồng chéo, cạnh tranh lẫn
nhau một cách vô tổ chức, gây khó khăn cho nhau trong việc sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp nhà nớc ta có quy mô nhỏ và hoạt động kém

hiệu quả.
Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, tổng số vốn Nhà nớc tại các doanh nghiệp
nhà nớc là 70.184 tỷ đồng, bình quân một doanh nghiệp là 11,6 tỷ đồng tơng đơng với vốn
một doanh nghiệp loại nhỏ ở các nớc nh Thái Lan, Inđônêxia, Malaysia.
Đến nay vẫn còn 46,1% doanh nghiệp nhà nớc có số lao động dới 100 ngời và gần
50% doanh nghiệp nhà nớc có mức vốn dới 1 tỷ đồng, trong đó gần một nửa số vốn dới
500 triệu đồng. Các doanh nghiệp có số vốn lớn từ 100 tỷ trở lên chỉ chiếm 1,5% tổng số
doanh nghiệp. Số doanh nghiệp có từ 1000 lao động trở lên chỉ chiếm 4% trong tổng số
doanh nghiệp.
Vốn thực tế hoạt động của doanh nghiệp nhà nớc chỉ bằng 80% vốn hiện có do kinh
doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, tài sản mất mát, kém phẩm chất cha đợc xử lý. Riêng vốn
lu động có 14.239 tỷ đồng và chỉ có 50% đợc huy động vào kinh doanh, 50% còn lại nằm
ở lỗ, công nợ khó đòi.
Các doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta hiện nay, do quy mô nhỏ, vốn ít không có khả
năng đầu t trang thiết bị hiện đại, mở rộng sản xuất kinh doanh nên yếu sức cạnh tranh trên
thị trờng.
Trình độ kỹ thuật, công nghệ cũng ảnh hởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của hệ
thống doanh nghiệp nhà nớc. Trừ một số rất ít (18%) doanh nghiệp nhà nớc mới đợc đầu t
(sau năm 1986) còn chủ yếu đợc thành lập từ lâu có trình độ kỹ thuật thấp, công nghệ lạc
hậu. Giá trị còn lại của tài sản cố định trong doanh nghiệp nhà nớc là 61,4% so với
nguyên giá.
Theo đánh giá của Bộ khoa học và công nghệ và môi trờng: máy móc thiết bị của
doanh nghiệp nhà nớc lạc hậu với thế giới từ 10 - 20 năm. Theo điều tra của Tổng cục
thống kê: thiết bị của doanh nghiệp nhà nớc lạc hậu từ 2 - 3 thế hệ. Các doanh nghiệp TW
có tới 54,3% trình độ thủ công, 41% trình độ cơ khí và 3,7% trình độ tự động. Doanh
nghiệp địa phơng còn lạc hậu hơn; chỉ có 2% trình độ tự động, 24% trình độ cơ khí và
74% trình độ thủ công.
Nhiều thiết bị trong các doanh nghiệp nhà nớc sau 14 - 15 năm mới đợc thay đổi,
thậm chí trong một số ngành vẫn sử dụng thiết bị từ năm 1938 - 1940 trong khi đó thời
gian đổi mới thiết bị ở các nớc khác trung bình là 5 năm. Các báo cáo về tình hình hoạt

động của doanh nghiệp nhà nớc cho thấy chỉ có khoảng 15% sản phẩm công nghiệp của ta
đạt tiêu chuẩn xuất khẩu: 65% số sản phẩm đạt mức dới trung bình để tiêu dùng nội địa,
20% số sản phẩm kém chất lợng. Hiện tợng hàng hoá ứ đọng với khối lợng lớn và chiếm
hơn 10% số vốn lu động của toàn xã hội. Chính do công nghệ lạc hậu nên năng suất, chất
lợng sản phẩm của doanh nghiệp nhà nớc kém. Theo kết quả điều tra xét về mặt hiện vật,
năng suất lao động của ta về chế biến dầu thực vật chỉ bằng 10% mức thế giới, về sản xuất
các sản phẩm dệt, giấy, may chỉ bằng 30% đến 40% mức của thế giới, về thi công cầu
đờng chỉ bằng 1/20 mức của Pháp.
Hiện nay, việc quản lý của Nhà nớc đối với doanh nghiệp nhà nớc cha hợp lý. Một
mặt các cơ quan chủ quản vẫn can thiệp khá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, mặt khác trong nhiều lĩnh vực hoạt động đặc biệt là quản lý tài chính lại bị
buông lỏng. Điều này hạn chế quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đồng thời làm cho Nhà nớc mất vai trò thực sự là ngời chủ sở hữu và tạo cơ hội cho nhiều
cá nhân lạm dụng, chiếm đoạt tài sản công để làm giàu cá nhân, hoặc làm ăn phi pháp.
Trong một số doanh nghiệp nhà nớc, đội ngũ cán bộ chủ chốt có trình độ chuyên môn và
tổ chức quản lý cha đủ tiêu chuẩn vì không đủ sức giải quyết các vấn đề phát sinh trong
sản xuất kinh doanh. Nhiều giám đốc, kế toán trởng đã phải vào tù vì tham ô tài sản của
Nhà nớc, vi phạm chế độ quản lý tài chính.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nớc còn thấp. Mấy năm gần đây,
sản xuất trong các doanh nghiệp nhà nớc bắt đầu đợc phục hồi và phát triển, nhng nhìn
chung hiệu quả vẫn còn thấp, thấp nhất là ở các ngành sản xuất vật chất. Trong các doanh
nghiệp nhà nớc đang hoạt động chỉ có 11,28% doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận từ
15%/năm trở lên trong ngành sản xuất vật chất và 4,3% doanh nghiệp nhà nớc có tỷ suất
lợi nhuận từ 20%/năm trong các ngành dịch vụ.
Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà nớc
cao gấp 2 lần so với kinh tế t nhân. Hệ số sinh lời của khu vực doanh nghiệp nhà nớc rất
thấp. Hệ số sinh lời của vốn lu động tính chung chỉ đạt 7%/năm trong đó ngành giao thông
vận tải 2%/năm, ngành công nghiệp khoảng 3%/năm, ngành thơng nghiệp đạta 22%/năm.
Các doanh nghiệp nhà nớc hoạt động thu lỗ chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể ở thời điểm
1997 chỉ có 76% hoạt động có lãi ở mức thấp, 22% doanh nghiệp bị thua lỗ, bình quân

mỗi doanh nghiệp lỗ 0,6 tỷ đồng/năm, 2% doanh nghiệp hoạt động không thua lỗ, nhng
không có lãi. Các số liệu đó cho thấy việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nớc đã
gây ra tổn thất lớn cho ngân sách nhà nớc và là một trong những nguyên nhân đa đến việc
bội chi ngân sách.
Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế đã thực sự bớc sang hoạt động theo cơ chế thị
trờng. Các chính sách kinh tế, tài chính đối với doanh nghiệp nhà nớc đã đợc thay đổi theo
hớng tự do hoá giá cả, chi phí ngân sách nhà nớc cho bù lỗ, bù giá, bổ sung vốn lu động
cho khu vực này đã giảm đáng kể. Nhng t tởng bao cấp trong đầu t vẫn còn nặng nề. Hàng
năm 85% vốn tín dụng với lãi suất u đãi đợc dành cho doanh nghiệp nhà nớc vay. Hầu hết
các doanh nghiệp nhà nớc không bảo toàn đợc nguồn vốn nhà nớc đầu t. Theo báo cáo của
Tổng cục thống kê, nhìn chung các doanh nghiệp nhà nớc mới chỉ bảo toàn đợc vốn lu
động, còn vốn cố định thì mới bảo toàn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. Hai ngành
chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thơng nghiệp (72,52%) lại là ngành có tỷ lệ thất
thoát vốn lớn nhất (16,41% và 14,95%). Vấn đề nợ nần vòng vo mất khả năng thanh toán
còn diễn ra khá nghiêm trọng do tình trạng quản lý của nhà nớc về tài chính còn lỏng lẻo,
từ đó nạn tham nhũng lãng phí diễn ra mức báo động.
Từ sự phân tích trên ta có thể rút ra kết luận về thực trạng của doanh nghiệp nhà nớc
ở nớc ta hiện nay.
- Số lợng các doanh nghiệp quá nhiều và bố trí không hợp lý.
- Quy mô của doanh nghiệp nhà nớc còn nhỏ bé.
- Kỹ thuật và công nghệ ở các doanh nghiệp nhà nớc còn lạc hậu.
- Việc quản lý đối với hệ thống doanh nghiệp nhà nớc còn yếu kém.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nớc còn thấp.
Từ bản chất cũng nh thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nớc, chúng ta có thể
thấy một vấn đề lớn trong cơ chế quản lý hiện nay làm cho doanh nghiệp nhà nớc hoạt
động cha có hiệu quả là:
Cơ chế thực hiện quyền sở hữu toàn dân trong các doanh nghiệp nhà nớc là cha rõ
ràng. Ngời đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nớc cha đợc xác định cụ thể do đó
dẫn đến tình trạng vô chủ hoặc quá nhiều chủ trong các doanh nghiệp Nhà nớc. Do không
có sự phân biệt đầy đủ quyền sở hữu Nhà nớc và quyền quản lý kinh doanh của giám đốc

và tập thể ngời lao động trong doanh nghiệp nên tài sản của doanh nghiệp Nhà nớc không
đợc sử dụng có hiệu quả. Ngời lao động cha thực sự gắn bó, làm việc hết sức vì doanh
nghiệp. Một số nhà quản lý doanh nghiệp đã lợi dụng chức quyền bòn rút tài sản của Nhà
nớc làm giàu cho cá nhân.
2.2. Chủ trơng của nhà nớc ta về quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà
nớc.
Xuất phát từ tình trạng hoạt động yếu kém của hệ thống doanh nghiệp Nhà nớc và
những đòi hỏi cấp bách phải có một giải pháp thích hợp cho khu doanh nghiệp Nhà nớc.
Đây là một chủ trơng lớn của Đảng và Nhà nớc ta trong lĩnh vực cải cách doanh nghiệp
Nhà nớc.
Giải pháp chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần lần đầu đợc đề cập
trong Quyết định số 143 - HĐBT ngày 10 - 5 - 1990 của Hội đồng bộ trởng về việc tổng
kết thực hiện Quyết định 217 - HĐBT ngày 14 - 11 - 1987, các nghị định 50 - HĐBT ngày
22 - 3 - 1988 về làm thử việc tiếp tục đổi mới quản lý xí nghiệp quốc doanh. Văn bản này
đề cập việc nghiên cứu và làm thử về mô hhình chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công
ty cổ phần. Việc chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần trong giai đoạn này
là hết sức mới mẻ ở nớc ta vì lúc đó luật công ty cha đợc ban hành. Quyết định 143 -
HĐBT ngày 5 - 10 - 1990 chỉ quy định một vài vấn đề liên quan đến cổ phần hoá hoá
doanh nghiệp nhà nớc nh: mục đích của việc làm thử, điều kiện các xí nghiệp quốc doanh
đợc chọn để tổ chức thành công ty cổ phần. Có thể nói chủ trơng của Đảng và Nhà nớc ta
về cổ phần hoá các doanh nghiệp đã có từ rất sớm, chỉ sau vài năm khi nớc ta chuyển sang
cơ chế thị trờng. Nó chứng tỏ sự nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nớc ta về vai trò
của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trờng, đánh giá đúng thực trạng hoạt động của
các doanh nghiệp quốc doanh và chọn đúng hớng đi đúng trong việc cải cách các doanh
nghiệp này. Chủ trơng đó còn đợc thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 - Ban
hành Trung ơng khoá VII (11/1991):”Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều
kiện thành công ty cổ phần và thành một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí
điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trớc khi mở rộng trong phạm vi thích hợp.
Ngày 8 - 6- 1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng (nay là Thủ tớng Chính phủ) ban hành
quyết định 202/CT về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nớc

thành công ty cổ phần áp dụng tại các doanh nghiệp đợc chọn làm thí điểm. Quyết định và
đề án này sẽ quy định tơng đối rõ vè mục tiêu, đối tợng, cách thức tiến hành cổ phần hoá
cũng nh cách thức xác định giá trị doanh nghiệp, quyền lợi của ngời lao động trong doanh
nghiệp cổ phần hoá. Cũng trong ngày 8 - 6 - 1992, Chủ tịch HĐBT đã ban hành quyết định
203/CT kèm theo danh sách của 7 doanh nghiệp nhà nớc đợc chọn để Chính phủ chỉ đạo
thực hiện thí điểm cổ phần hoá. Theo điều 2 QĐ 202/CT, Chủ tịch HĐBT uỷ quyền cho
Bộ trởng Tài chính xem xét và ra quyết định về danh sách các doanh nghiệp nhà nớc đợc
phép làm thí điểm cổ phần hoá do các bộ và uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ơng đề nghị. Tuy nhiên, quyết định 202/CT và chỉ thị 84/TTg của Thủ tớng chính
phủ cha có những quy định hợp lý về quyền lợi của ngời lao động và doanh nghiệp đợc
tiến hành cổ phần hoá cũng nh cha có quy định rõ ràng chặt chẽ về quy trình thực hiện. Để
khẳng định quyết tâm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, các văn kiện của Đảng ban hành
trong các năm 1994, 1995, 1996, 1997 đều đề cập đến vấn đề này. Cụ thể: Nghị quyết hội
nghị toàn quốc ban chấp hành TW khoá II, Nghị quyết số 10 NQ/TW của Bộ chính trị đều
khẳng định tầm quan trọng của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc. Đặc biệt, Nghị quyết
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 7/1996) khẳng định: “Tổng kết kinh
nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý để triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nớc nhằm tạo thêm động lực mới trong quản lý, huy động vốn thêm
cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nớc. Trong quá trình cổ
phần hoá, tiền thu đợc do bán cổ phần của doanh nghiệp phải đầu t lại để mở rộng sản xuất
kinh doanh”.
Các văn kiện của đảng nêu trên đã thể hiện quyết tâm đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc với quy mô và trên lĩnh vực rộng lớn hơn. Để đáp ứng nhu cầu cấp
thiết đó, ngày 7/5/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/CP về việc chuyển một số
doanh nghiệp nhà nớc sang công ty cổ phần. Có thể nó Nghị định 28/CP là một mốc quan
trọng đánh dấu bớc chuyển từ giai đoạn thí điểm sang giai đoạn thực sự triển khai chong
trình cổ phần hoá. Và mới đây chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 về
chuyển doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần thay thế cho Nghị định 28/CP, trong
đó các vấn đề nh mục tiêu cổ phần hoá, điều kiện để lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá,
nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, hình thức cổ phần hoá, việc tổ chức thực hiện

đã quy định rõ ràng và cụ thể hơn Nghị định 28/CP trớc đó.
2.3. Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc và kết quả bớc đầu.
Quá trình cổ phần hoá ở nớc ta về cơ bản có thể chia làm hai giai đoạn:
2.3.1. Thời kỳ thí điểm cổ phần hoá (6/1992 đến hết năm 1996)
Thực hiện Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng (nay
là Thủ tớng Chính phủ) về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nớc
thành công ty cổ phần, các Bộ, ngành đã hớng dẫn doanh nghiệp nhà nớc đăng ký thực
hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Trên cơ sở số lợng doanh nghiệp nhà nớc đã
đăng ký, Chủ tịch hội đồng Bộ trởng (nay là Thủ tớng chính phủ) đã chọn 7 doanh nghiệp
nhà nớc do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần, đó là:
1. Nhà máy xà phòng Việt Nam (Bộ công nghiệp)
2. Nhà máy diêm Thống nhất (Bộ công nghiệp)
3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Bộ Nông nghiệp).
4. Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long bình (Bộ nông nghiệp),
5. Công ty vật t tổng hợp Hải Hng (Bộ Thơng mại).
6. Xí nghiệp sản xuất bao bì (thành phố Hà Nội).
7. Xí nghiệp dệt da may Lagamex (thành phố Hồ Chí Minh).
Sau một thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp nhà nớc đợc Chính phủ chọn làm thí điểm
đều xin rút lui, hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá nh Legamex, nhà máy
xà phòng Việt Nam
Hơn 30 doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ tài chính để thí điểm thực hiện cổ phần hoá
và 3 doanh nghiệp nhà nớc xin chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị
84/TTg. Có 5 doanh nghiệp nhà nớc đợc phép chuyển sang công ty cổ phần, đó là:
1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ giao thông).
2. Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (TP Hồ Chí Minh)
3. Công ty cổ phần giầy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp).
4. Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An)
5. Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ công nghiệp).
Trong một thời gian thực hiện thí điểm cổ phần hoá, tuy số lợng các doanh nghiệp
nhà nớc chuyển thành công ty cổ phần còn ít song giai đoạn thí điểm đã đem lại một số kết

quả đáng chú ý:
ã Quá trình thí điểm cổ phần hoá đã huy động đợc một lợng vốn quan trọng trong
nhân dân. Qua bán cổ phiếu, nhà nớc đã thu đợc 14,165 tỷ đồng tiền mặt nộp vào ngân
sách. Đây là số vốn quan trọng làm tăng tài sản thuộc sở hữu nhà nớc để đầu t vào chiều
sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp nhà nớc.
ã Tại các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, 100% cán bộ công nhân viên tham gia mua
cổ phiếu. Khi ngời lao động có vốn trong công ty, lợi ích của họ gắn với lợi ích công ty vì
vậy họ làm việc với trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình; mặt khác họ cũng yêu cầu hội
đồng quản trị và giám đốc điều hành phải chỉ đạo và tổ chức để công ty hoạt động có hiệu
quả.
ã Hiệu quả của các công ty này tăng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu kinh tế nh doanh thu tăng
bình quân 56,9%/năm; lợi nhuận tăng 70,2%; nộp ngân sách tăng 89%/năm; tỷ suất lợi
nhuận trên doanh thu là 14,10%.
ã Vốn của các doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Tính bình quân vốn của các doanh
nghiệp mỗi năm tăng 45%.
ã Ngời lao động trong các doanh nghiệp này tăng 46,8%, thu nhập của ngời lao động
tăng 20%/năm.
ã Nhà nớc vẫn giữ đợc vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nhờ duy trì tỷ lệ cổ phiếu chi
phối, giám sát các hoạt động bằng luật pháp và nội dung các điều lệ hoạt động phù hợp với
quy định của nhà nớc.
Tính đến hết thời gian thí điểm cổ phần hoá (hết năm 1996) tổng số doanh nghiệp nhà
nớc đợc chuyển sang công ty cổ phần là 12 doanh nghiệp.
Dới đây là danh sách các doanh nghiệp và một số chỉ tiêu tài chính của các doanh
nghiệp đó sau thời gian cổ phần hoá.
Sau đây là tình hình hoạt động kinh doanh cụ thể ở một số doanh nghiệp thí điểm cổ
phần hoá:
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển GEMADEPT
Chỉ tiêu ĐVT Trớc CPH Sau CPH
1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 11.120 16.530 24.134 47.538 65.046

2. Nộp NS Tr.đồng 3.336 3.750 8.700 16.530 25.117
3. Lãi Tr. đồng 3.400 3.700 8.800 15.200 23.000
4. Thu nhập
bình quân
ngời/tháng
1000 đồng 850 900 1.200 1.400 2.000
5. Lao động Ngời 56 320
Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính.
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển chuyển làm dịch vụ vận chuyển từ kho của ngời
gửi đến kho cuả ngời nhận bằng các phơng tiện đờng bộ, đờng thuỷ, đờng biển tới các
cảng quốc tế. Công ty là một trong những doanh nghiệp đầu tiên ở nớc ta đợc tiến hành
thí điểm cổ phần hoá. Doanh nghiệp này đợc chính thức chuyển sang công ty cổ phần vào
ngày 01/07/1993. Tổng số vốn điều lệ của công ty sau cổ phần hoá là 6.207.655.000 đồng
đợc chia thành 31.038 cổ phiếu với mệnh giá 200.000; trong đó tỷ lệ cổ phần của nhà nớc
là 18%, của cán bộ công nhân viên chức trong công ty là 77%, của cổ đông ngoài là 5%.
Sau 3 năm hoạt động kể từ ngày chuyển sang công ty cổ phần, số lao động của công ty
tăng từ 56 ngời (năm 1993) lên 320 ngời (năm 1996). Doanh thu năm 1996 tăng gấp gần 4
lần so với năm 1993, nộp ngân sách của công ty cũng tăng từ 3.750 (1993) lên 25.117
(1996) tức khoảng 6,6 lần, thu nhập ngời lao động tăng từ 900.00 (năm 1993) lên 2.
000.000 (năm 1996).
Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE).
Công ty điện lạnh đợc thành lập năm 1987 trên cơ sở công ty liện hợp thiết bị lạnh
trực thuộc Sở công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ mới thành lập, công ty đã tổ
chức lại bộ máy gọn nhẹ, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán duy nhất, năng động trong
quản lý sản xuất kinh doanh. Công ty đã mạnh dạn nhập các thiết bị lạnh với phơng thức
trả chậm, tiêu thụ nhanh hàng nhập, thanh toán kịp thời và đầy đủ phần nợ trả chậm cho
bên nớc ngoài. Cũng chính từ thành công trong hoạt động ngoại thơng, tích tụ và tập trung
t bản đợc hình thành, công ty đã thành lập 2 công ty liên doanh:
Công ty liên doanh CERVICO (liên doanh với công ty MEKONG - một công ty Việt
kiều ở Đức) nhằm lắp ráp thiết bị lạnh trong nớc, vốn đầu t là 820.000 USD.

Công ty liên doanh REEYOUNG (liên doanh với công ty BOUYONG của Nam
Triều Tiên) chuyên sản xuấta túi sách xuất khẩu, vốn đầu t 1.600.000 USD.
Trong những năm trớc cổ phần hoá, công ty hoạt động thực sự có hiệu quả. Công ty
luôn dự đoán đúng nhu cầu của thị trờng trong nớc nên đã tạo đợc một số lợng hàng hoá,
thiết bị vật t dự trữ đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, tạo đợc niềm tin và giữ đợc
uy tín với khách hàng.
Tháng 11/1993 theo quyết định số 1707/QĐ - UB của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh, công ty cơ điện lạnh chính thức đợc chuyển sang công ty cổ phần. Tổng số vốn
điều lệ mới thành lập của công ty là 16 tỷ đồng đợc chia thành 160.000 cổ phần với mệnh
giá một cổ phiếu là 100.000 đồng, nhà nớc chiếm tỷ lệ cổ phần là 30% (gồm 4 đại diện cổ
đông), cán bộ công nhân viên chức trong công ty là 50% (gồm 212 cổ đông), các cổ đông
ngoài công ty là 20% (gồm 238 cổ đông). Cổ đông là cán bộ công nhân công ty đợc mua
không quá 5% tổng số cổ phiếu, cổ đông ngoài công ty không đợc mua quá 0,5% tổng số
cổ phiếu. Nh vậy cổ đông là cán bộ công nhân viên công ty không đợc mua cổ phần quá
800 triệu đồng, cổ đông ngoài công ty không đợc mua cổ phần quá 800 triệu. Ngoài ra, các
cổ đông là nhân viên công ty còn đợc vay tiền với lãi suất u đãi, đợc chia quỹ khen thởng
và phúc lợi còn lại để có thể mua cổ phiếu.
Ba năm sau khi cổ phần hoá, tổng số vốn của công ty tăng từ 16 tỷ đồng (năm 1993)
lên 30 tỷ đồng (năm 1996), doanh thu năm 1996 tăng gấp 5 lần so với năm 1993. Số lao
động năm 1996 tăng hơn 3 lần so với những năm công ty cha đợc cổ phần hoá. Tổng thu
nhập của ngời lao động đạt 1.800.000/cổ phần. Công ty đang nghiên cứu sẽ bán tiếp cổ
phần u đãi cho 2/3 số công nhân mới đợc tuyển vào làm, nhằm thu hút thêm số ngời có tay
nghề cao. Năm 1996, công ty đợc nhà nớc cho phép phát hành thử trái phiếu chuyển đổi
bằng ngoại tệ và bán cho các nhà đầu t nớc ngoài với tổng giá trị 5 triệu USD, lãi suấta
4,5%/năm. Các trái phiếu đợc chuyển đổi thành cổ phiếu trong quý 3/1996, trái chủ đợc
chuyển thành cổ đông sẽ không đợc tham gia Hội đồng quản trị.
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trớc CPH Sau CPH
1992 1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 42.000 45.000 77.000 214.000 277.000
2. Nộp NS Tr. đồng 2.570 54.370 13.126 48.000 61.000

3. Lãi Tr. đồng 6.800 7.300 11.300 21.300 5.000
4. Thu nhập
bình quân
1000đồng 774 1.200 1.400 1.500 1.800
ngời/tháng
5. Lao động Ngời 200 800
Nguồn: Ban cổ phần hoá Bộ Tài chính
Công ty cổ phần giầy Hiệp An.
Công ty giầy Hiệp An là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại giày dép phục vụ thị
trờng trong nớc và xuất khẩu. Công ty đợc chuyển sang công ty cổ phần tháng 8/1994 với
tổng giá trị doanh nghiệp là 4,793 tỷ đồng. Trong đó nhà nớc giữ 30% vốn cổ phần, cán bộ
công nhân công ty giữ 35,5%, cổ đông ngoài doanh nghiệp giữ 34,8%. Doanh thu năm
1996 tăng xấp xỉ gấp 2 lần với năm 1993, nộp ngân sách năm 1996 tăng 5,3 tỷ đồng so với
năm 1993. Thu nhập ngời lao động tăng từ 420.000đ/ngời/tháng lên 1.200.000/ngời/tháng.
Dới đây là một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của công ty.
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trớc CPH Sau CPH
1993 1994 1995 1996
1. Doanh thu Tr. đồng 11.200 13.493 18.624 25.639
2. Nộp ngân sách Tr. đồng 2.100 2.800 5.200 8.100
3. Lãi Tr. đồng 2.718 3.152 5.412 7.918
4. Thu nhập bình
quân ngời/tháng
1000 đồng 420 470 850 1.200
5. Lao động Ngời 380 400
Nguồn: Ban cổ phần Bộ tài chính
2.3.2. Thời kỳ sau thí điểm (từ cuối năm 1996 đến nay)
Thực hiện Nghị định 28/CP (7/5/1996) về chuyển các doanh nghiệp nhà nớc sang
công ty cổ phần, thời kỳ sau thí điểm cổ phần hoá (từ cuối năm 1996 đến tháng 2 năm
1999) đã có 134 doanh nghiệp đợc chuyển sang công ty cổ phần, tính chung cả thời kỳ thí
điểm hiện nay có tất cả 146 doanh nghiệp (theo báo cáo của Ban cổ phần hoá, bộ tài chính).

Từ bảng danh sách (phụ lục), chúng ta thấy tốc độ cổ phần hoá diễn ra còn chậm, số các
doanh nghiệp nhà nớc chuyển sang công ty cổ phần “nhỏ giọt” trong các năm 1993 - 1997,
cụ thể năm 1993: 2 donah nghiệp; năm 1994: 1 doanh nghiệp; năm 1995: 2 doanh nghiệp;
năm 1996: 7 doanh nghiệp và năm 1997: 4 doanh nghiệp. Sang năm 1998 đã có sự tiến bộ:
102 doanh nghiệp. Nh vậy số doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần năm 1998 lớn
hơn nhiều so với số doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần của các năm trớc công lại.
Song kế hoạch đề ra: thực hiện cổ phần hoá thành công 150 doanh nghiệp trong năm 1998
thì con số 102 công ty cổ phần cha đạt đợc mục tiêu đề ra.
Bớc sang năm 1999, Chính phủ đặt ra kế hoạch sẽ thực hiện cổ phần hoá thêm
khoảng 400 doanh nghiệp. Theo Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ơng thì từ đầu
năm đến nay đã có thêm 42 doanh nghiệp nhà nớc chuyển sang công ty cổ phần với tổng
số vốn điều lệ gần 180 tỷ đồng. Trong số đó có gần 23 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
xây dựng, 10 doanh nghiệp dịch vụ thơng mại, 3 doanh nghiệp giao thông vận tải và 5
doanh nghiệp nông - lâm - thuỷ sản. Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chỉ
có 3 doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên là công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn
thuộc Tổng công ty xi măng (38 tỷ đồng), công ty cổ phần điện cơ thuộc Tổng công ty
điện lực Việt Nam (25 tỷ đồng) và công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tân Định thuộc thành
phố Hồ Chí Minh (10 tỷ đồng). Các địa phơng và ngành triển khai cổ phần hoá tích cực
nhất là tỉnh Bình Định (4 doanh nghiệp), thành phố Hồ Chí Minh (4 doanh nghiệp), Tổng
công ty cà phê (3 doanh nghiệp), Tổng công ty xi măng Việt Nam (2 doanh nghiệp)
Trong số 34 doanh nghiệp hoàn thành thủ tục bán cổ phiếu đã có 12 doanh nghiệp không
có cổ phần của Nhà nớc và 27 doanh nghiệp có cổ phần của cổ đông ngoài doanh nghiệp.
Nh vậy, theo kế hoạch đặt ra cho năm 1999 là sẽ cổ phần hoá từ 400 - 600 doanh nghiệp
thì con số 42 doanh nghiệp nhà nớc mới đợc cổ phần hoá từ đầu năm đến nay chỉ bằng
1/10 kế hoạch. Và từ giờ đến cuối năm, chúng ta phải cổ phần hoá thêm hơn 300 doanh
nghiệp nữa.
Kết quả bớc đầu.
ã Về phía doanh nghiệp, nhìn chung hoạt động của công ty cổ phần sau khi cổ phần
hoá đều có hiệu quả, các chỉ tiêu tăng nhiều lần so với khi còn là doanh nghiệp nhà nớc,
biểu hiện trên cả 3 mặt lợi ích của: lao động - doanh nghiệp - Nhà nớc. Việc huy động vốn

của công ty cổ phần chủ yếu đầu t chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng suất, hiệu quả
sản xuất kinh doanh cao hơn trớc, đem lại lợi nhuận cao hơn.
Cơ câú vốn sở hữu trong các công ty cổ phần, tỷ lệ vốn sở hữu nhà nớc chiếm tỷ lệ
cao nhất so với các sở hữu khác. Nhà nớc nắm từ 18% đến 51% (Bình quân 41%) cổ phần
công ty; cổ đông là ngời lao động từ 18% đến 50% cá biệt có doanh nghiệp trên 70% (bình
quân 30%) cổ phần công ty; số cổ phần còn lại là thuộc cổ đông ngoài xã hội nắm giữ
(bình quân 29%).
ã Về phía nhà nớc, ngoài việc nhà nớc tăng thu các khoản thu từ doanh nghiệp nh
thuế lợi tức do doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nhà nớc còn thu đợc một lợng vốn từ các
nguồn phát sinh trong quá trình cổ phần hoá nh số thu về tiền bán cổ phiếu. Ví dụ số thu
về cổ phần hoá tính đến hết năm 1997 nh sau:
Tiền thu về bán cổ phiếu: 30. 207 triệu đồng
Lợi tức của Nhà nớc tại các công ty cổ phần: 6.995 triệu đồng
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần Nhà nớc: 522 triệu đồng.
Tổng công: 37. 724 triệu đồng.
ã Về phía ngời lao động: ngời lao động đã gắn đợc kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình với lợi ích của bản thân, của doanh nghiệp, đồng thời đợc tạo điều kiện
làm chủ doanh nghiệp.
Thu nhập của ngời lao động cao hơn khi còn là doanh nghiệp nhà nớc từ 1,5 - 2 lần,
bên cạnh đó ngời lao động còn nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22% - 24%/năm.
Việc làm của ngời lao động đợc đảm bảo, hơn thế ngoài số lao động cũ, các công ty
cổ phần còn thu hút thêm nhiều lao động ngoài xã hội vào làm việc.
Trong một số công ty cổ phần, ngời lao động đã đề cử đại diện của mình tham gia
quản lý điều hành doanh nghiệp. Theo kết quả khảo sát của chơng trình hỗ trợ phát triển
dự án Mêkông (Mekong Project Development Facility - MPDF) năm 1998 trong 13 doanh
nghiệp đợc khảo sáta đã thành lập Hội đồng quản trị; 3 công ty ngời ngoài đại diện cho
cán bộ công nhân viên đảm nhận chủ tịch hội đồng và giám đốc điều hành, 2 công ty khác
giữ 1 trong 2 trọng trách trên.
2.2. Những thuận lợi, những vấn đề còn tồn tại của quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp ở nớc ta.

2.2.1. Về các yếu tố thuận lợi.
- Điều kiện và môi trờng pháp lý về cơ bản đợc xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp
hoạt động theo cơ chế thị trờng. Việc thực hiện “thơng mại hoá” các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng
bớc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc.
- Chính phủ đã nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nớc và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật
và dới luật nhằm thực hiện chơng trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, nh luật công ty,
quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế nhà nớc, Nghị định
388 - HĐBT về thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nớc, đặc biệt là Quyết định 202 -
HĐBT và chỉ thị 84 - TTg của Thủ tớng chính phủ về thí điểm cổ phần hoá một số doanh
nghiệp nhà nớc Ngoài ra, còn có các quyết định, thông t của các bộ và liên bộ để cụ thể
hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phơng hớng
chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.
- Tình hình kinh tế đất nớc đã có nhiều biến đổi theo hớng tích cực. Giá cả thị trờng
đã đợc duy trì tơng đối ổn định, mức lạm phát đã đợc kiềm chế đồng tiền Việt Nam đã giữ
đợc giá, lãi suất ở mức khuyến khích các hoạt động đầu t vào sản xuất kinh doanh. Điều
này tạo cho điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi ngời muốn đầu t thông qua hình thức
mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp nhà nớc đợc cổ phần hoá.
- Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
của nhà nớc mấy năm qua, thu nhập của dân c đợc nâng cao. Số ngời khá giả ở thành thị
và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lợng cầu tiềm năng cần phải đáp ứng cho các chứng
khoán phát hành ở những doanh nghiệp đợc cổ phần hoá.
- Hoạt động trong cơ chế thị trờng với thời gian cha lâu nhng đã xuất hiện đội ngũ các
nhà quản lý doanh nghiệp đã thích ứng đợc về ý thức tác phong và hiệu quả công việc
trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lợng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho ngời
đầu t yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc.
- Với luật đầu t nớc ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh
của nớc ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trờng và điều kiện thuận lợi để các nhà
đầu t nớc ngoài đầu t bằng cổ phiếu vào các doanh nghiệp nhà nớc sẽ đợc tiến hành cổ

phần hoá.
Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nớc trên thế giới trong
quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để Nhà
nớc tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện công việc cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nớc ở Việt Nam.
2.2.2. Về các yếu tố khó khăn và cản trở.
Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình t nhân hoá và cổ phần hoá ở nhiều nớc
đang phát triển và Đông Âu là khu vực t nhân nhỏ bé và yếu ớt. đối với Việt Nam cũng nh
vậy, khi hàng chục năm khu vực này đợc coi là đối tợng cải tạo XHCN. Sự nhỏ bé và yếu
ớt của khu vực kinh tế t nhân phản ánh trình độ chậm phát triển kinh tế thị trờng trong đó
hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty
cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi ngời. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả ngời
đầu t lẫn ngời sử dụng vốn đầu t dới hình thức cổ phiếu do đó làm cho việc tiến hành
chơng trình cổ phần hoá ở nớc ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự
hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng nh xác lập môi trờng pháp lý tơng
ứng.
- Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế t nhân là sự thiếu vắng một thị
trờng tài chính thực sự trong đó có thị trờng chứng khoán. Nh trên đã trình bày, thị trờng
chứng khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong một
nền kinh tế thị trờng: nó vừa là điều kiện vừa là tấm gơng phản chiếu sự ra đời và hoạt
động của các công ty cũng nh huy động vốn trên thị trờng tài chính.
2.2.3. Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp.
Việc xác định mục tiêu của các cổ phần hoá có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra
các hình thức cổ phần hoá, quy hoạch đối tợng cổ phần hoá, mức độ cổ phần hoá cũng nh
các bớc tiến hành. Tuỳ t heo tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi nớc mà mục tiêu
cổ phần hoá, t nhân hoá ở các nớc khác nhau đợc xác định khác nhau.
Ở nớc ta, mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc khác nhiều so với các nớc.
Điều này bắt nguồn từ các nguyên tắc chi phối quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nớc dới đây:
Thứ nhất, việc cổ phần hoá phải góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc

doanh trong nền kinh tế nớc nhà, làm cho tài sản thuộc sở hữu của nhà nớc đợc sử dụng có
hiệu quả.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nớc thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nớc là ngời đại diện
chủ sở hữu. Do vậy, cổ phần hoá phải nằm trong chơng trình tổng thể và quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội do nhà nớc vạch ra chứ không thể do sự chủ động sáng tạo của từng
doanh nghiệp.
Các mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta đợc quy định trong
Quyết định 202/CT ngày 8/6/1992, Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 chỉ giữ lại hai trong
số ba mục tiêu quy định trong Quyết định 202/CT. Theo quy định tại điều 1 Nghị định
44/CP, việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ phần nhằm 2 mục tiêu:
Mục tiêu thứ nhất, huy động vốn của công nhân viên chức trong doanh nghiệp, cá
nhân, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nớc để đầu t đổi mới công nghệ, phát triển doanh
nghiệp.
Hiện nay một vấn đề khó khăn cho doanh nghiệp nhà nớc là thiếu vốn đầu t đổi mới
công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nớc không thể
và cũng không nên cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Do đó, muốn có vốn
đầu t cho phát triển, doanh nghiệp Nhà nớc cần bán cổ phần cho công nhân viên chức, cá
nhân, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nớc và thông qua đó chuyển thành các cổ phần.
Sự thay đổi cơ cấu sở hữu trong các doanh nghiệp Nhà nớc sẽ thu hút các nguồn vốn của
các thành phần kinh tế trong xã hội. Có thể nói đây là mục tiêu cần thiết, tuy nhiên việc
thực hiện ở nớc ta lại khặp rất nhiều khó khăn bởi vì trong thực tế các nhà đầu t chỉ bỏ góp
vốn vào những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lãi còn các doanh nghiệp thuộc các
ngành lĩnh vực không có triển vọng thì khó có thể thu hút đợc các nhà đầu t. Do đó để thu
hút vốn từ các thành phần kinh tế, chúng ta cần xác định và lựa chọn kỹ lỡng các loại hình
doanh nghiệp Nhà nớc và xác định bớc đi cụ thể để cổ phần hoá.
Mục tiêu thứ hai, tạo điều kiện để công nhân viên chức trong doanh nghiệp có cổ
phần, có điều kiện để làm chủ thực sự, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh
doanh có hiệu quả.
Khi mua cổ phiếu của công ty, ngời lao động sẽ trở thành cổ đông ngời chủ thực sự
có quyền và tham gia quản lý doanh nghiệp nh: tham gia dự đại hội cổ đông để bầu các

thành viên của Hội đồng quản trị và thành viên ban kiểm soát, tham gia biểu quyết các
vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Có thể nói cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nớc làm thay đổi phơng thức quản lý trong doanh nghiệp. Những cán
bộ quản lý chủ chốt trong doanh nghiệp không phải chỉ do nhà nớc cử mà do đại hội đồng
bầu ra. Ngời góp vốn có quyền bầu ra những ngời mình cho là xứng đáng thay mặt họ
quản lý doanh nghiệp. Những cán bộ quản lý đợc bầu cũng phải hết sức với công ty để
thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Trong mục tiêu này, vấn đề đáng quan tâm
là thái độ của ngời lao động trong việc thựuc hiện quyền làm chủ thực sự của mình. Trớc
đây trong các doanh nghiệp Nhà nớc chế độ bao cấp đã hình thành một nếp nghĩ phổ biến
rằng ngời lao động là đối tợng đợc Nhà nớc chăm lo, đợc hởng một mức thu nhập nhất
định. Do đó, khi doanh nghiệp Nhà nớc chuyển thành công ty cổ phần, ngời lao động dể
nảy sinh tâm lý no sợ về công ăn việc làm và thu nhập của bản thân. Vì vậy, để đạt đợc
mụctiêu này, Nhà nớc phải có chính sách u đãi, hợp lý cho ngời lao động làm việc trong
doanh nghiệp.
Ngoài hai mục tiêu chính trên đây, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc ở nớc
ta còn góp phần:
- Giải quyết vấn đề ngân sách. Bời vì qua việc cổ phần hoá, một mặt Nhà nớc không
còn phải bao cấp bằng vốn ngân sách cho các doanh nghiệp Nhà nớc yếu kém nữa. Mặt
khác, Nhà nớc bán đợc một số tài sản bằng các cổ phần hoá sẽ có thêm nguồn thu cho
ngân sách và đa các tài đó vào sử dụng có hiệu quả hơn cho xã hội.
- Giảm bớt sự can thiệp quá mức của Nhà nớc và hoạt động của các doanh nghiệp,
phát huy tính chủ động, sáng tạo trong kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển thị trờng chứng khoán ở nớc ta trong
tơng lai.
Chơng III:
GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NỚC Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
3.1. Các giải pháp và kiến nghị
3.1.1. Về t tởng quan điểm cổ phần hoá
Đối với các doanh nghiệp: ngời lãnh đạo (giám đốc, phó giám đốc hầu hết là do chế

độ bổ nhiệm mà có, do vậy khi chuyển sang công ty cổ phần dễ gì giữ đợc chức vụ đó trớc
đại hội cổ đông. Sau khi cổ phần thì những quyền lực quan trọng nhất thuộc về đại hội cổ
đông và Hội đồng quản trị công ty. Giám đốc doanh nghiệp Nhà nớc trớc đây giả sử có tái
cử làm giám đốc điều hành thì chỉ đóng vai trò thực thi của hai tổ chức nói trên mà thôi.
Hội đồng của giám đốc có sự giám sát chặt chẽ của ban kiểm soát (nh đã nên ở trơng một),
của Hội đồng quản trị của công ty. Lẽ đơng nhiên thu nhập của giám đốc sẽ bị giảm xuống,
không còn hẫp dẫn, quyền hành lại bị hạn chế. Chắc chắn trớc ngỡng cửa cổ phần hoá, các
vị giám đốc quốc doanh ít nhiều đều có tâm t mắc mớ, ít nhiệt tình đối với phơng án cổ
phần hoá. Còn với khả năng xấu hơn, vị trí công tác của giám đốc có thể bị thay đổi, thậm
chí có thể bị mất việc thì hậu quả còn tồi tệ hơn.
Chính vì lẽ đó giám đốc các doanh nghiệp nhà nớc thờng có tâm lý không muốn cổ
phần hoá, chuyển đổi sở hữu, mặc dù đã nhận thức đợc khó khăn trong cạnh tranh thị
trờng, và biết rằng doanh nghiệp có thể nguy cơ suy sụp trong cuộc cạnh tranh thị trờng
ngày một gay gắt. Tâm lý chung của các vị giám đốc doanh nghiệp nhà nớc là “còn nớc
còn tát”, tát đợc ngày nào hay ngày đó.
Còn về phía ngời lao động, họ sau khi cổ phần hoá có thể bị mất việc, hoặc quyền lợi
không đợc đảm bảo, đặc biệt là vấn đề mua, mua chịu và đợc cấp cổ phiếu. Thế là từ trên
xuống dới kết thành những mảng trong nhận thức và hành động. Để đảm bảo an toàn và
giữ đợc “ghế”, tránh đợc nguy cơ “đi chệch hớng XHCH”, thợng sách là không sắn tay
vào công tác này.
Làm thế nào để giải toả những vớng mắc về t tởng quan điểm và nhận thức trên đây?
Trớc hết, phải tạo sự thống nhất trong nhận thức về chủ trơng cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nớc.
Một là, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nớc không dẫn đến nguy cơ
chệch hớng XHCN và làm suy yếu kinh tế nhà nớc, bởi lẽ:
Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, nhà nớc vẫn nắm giữ các doanh nghiệp nhà nớc thuộc
các ngành then chốt, trọng yếu tạo nền tảng cho nền kinh tế quốc dân và sức mạnh của nhà
nớc XHCN.
Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tài sản nhà nớc không bị suy giảm mà
còn có khả năng tăng nhờ lợi tức cổ phần của nhà nớc và sự đóng góp của các công ty cổ

phần làm ăn có hiệu quả vào ngân sách nhà nớc.
Quá trình cổ phần hoá đợc tiến hành dới sự lãnh đạo tập trung của Đảng và sự chỉ đạo
chặt chẽ của nhà nớc XHCN.
Hai là, cổ phần hoá không làm ảnh hởng đến quyền lợi và vị trí của mỗi ngời trong
doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào hoạt động của
doanh nghiệp. Đó là một trong những mục tiêu cổ phần hoá mà chúng ta thực hiện.
Để có thể đa những nhận thức đúng đắn trên đây đến tất cả các cơ quan lãnh đạo các
ngành, các cấp, đến từng doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ công nhân viên lao động làm
việc trong doanh nghiệp, Nhà nớc cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền rộng rãi trên
các phơng tiện thông tin đại chúng về chủ trơng, mục tiêu, quan điểm cũng nh lợi ích về sự
cần thiết của cổ phần hoá trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
cơ chế thị trờng.
3.1.2. Về môi trờng pháp lý cho việc cổ phần hoá.
Môi trờng pháp lý của nhà nớc bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật trực tiếp và
gián tiếp liên quan đến cổ phần hoá.
Từ khi chủ trơng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc đợc đề cập lần đầu tiên trong
Nghị quyết định hội nghị lần 2 - Ban chấp hành trung ơng Đảng khoá 7 (tháng 11/1991)
cho đến nay đã có tổng cộng 27 văn bản pháp quy trực tiếp liên quan đến cổ phần hoá.
Về số lợng, tuy các văn bản pháp lý trực tiếp chỉ đạo quá trình cổ phần hoá nh vậy là
khá nhiều, nhng cha có một văn bản pháp lý nào đủ tầm quyết sách để có thể tiến hành
một quá trình cổ phần hoá trên diện rộng nh luật, pháp lệnh. Đối với các văn bản gián tiếp
liên quan đến cổ phần hoá thì còn thiếu mảng luật về chứng khoán, kinh doanh chứng
khoán và thị trờng chứng khoán.
Về chất lợng, một số nội dung trong các văn bản hớng dẫn cha rõ ràng, thiếu cụ thể,
nhiều vấn đề cha đợc khẳng định dứt khoát nh: trách nhiệm của các Bộ, ngành, các địa
phơng trong việc chỉ đạo cổ phần hoá; thẩm quyền của đại diện chủ sở hữu với việc cổ
phần hoá; cổ phần hoá là tự nguyện hay bắt buộc; việc bán cổ phần cho ngời nớc ngoài có
quy định nhng cha có văn bản hớng dẫn cụ thể.
Để giải quyết những vấn đề tồn tại về chính sách pháp luật trên đây, các cơ quan nhà
nớc có thẩm quyền cần phải lắng nghe ý kiến từ phía các doanh nghiệp đã hoàn tất và đang

hoàn tất cổ phần hoá và cả những doanh nghiệp cha tiến hành cổ phần hoá để cụ thể hoá,
chi tiết hoá những điểm còn “chung chung”, ban hành thêm những quy định còn thiếu. Đòi
hỏi sự đồng bộ của hệ thống văn bản pháp quy ngay trong điều kiện hiện nay là điều
không thực tế, song đã đến lúc chúng ta phải có ngay một bộ luật cổ phần hoá hoặc luật
công ty cổ phần bởi vì cha có luật, cha có pháp lệnh thì cha có căn cứ pháp lý để thực hiện,
cha có căn cứ để ban hành các văn bản pháp quy dới luật, và nh vậy việc thực hiện sẽ rất
khó khăn. Bên cạnh đó, việc dự thảo và sớm ban hành luật về chứng khoán, kinh doanh
chứng khoán và thị trờng chứng khoán cũng sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và
việc hình thành thị trờng vốn ở nớc ta.
3.1.3. Hệ thống các cơ quan quản lý công tác cổ phần hoá.
Về tổng thể, bộ mấy quản lý hành chính về cổ phần hoá tổ chức chỉ đạo cha tập trung,
thiếu tính nhất quán giữa trung ơng và địa phơng, giữa các bộ ngành. Ví dụ có những
doanh nghiệp đã làm xong thủ tục nhng chính quyền địa phơng vẫn không cho phép hoạt
động, gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp cổ phần, tạo tâm lý chản nản trong các cổ

×