Danh mục các từ viết tắt:
+Bộ NN-PTNT:Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
+Bộ KH&ĐT:Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
+TDMNBB:Trung du Miền núi Bắc Bộ
+BTB:Bắc Trung Bộ
+DHNTB:Duyên hải Nam Trung Bộ
+TN:Tây Nguyên
+ĐNB:Đông Nam Bộ
+ĐBSCL:Đồng bằng Sông Cửu Long.
+TMN:Tấn mía/ngày.
+DT:Diện tích
+NS:Năng suất
+SL:Sản lượng
+USD/T:USD/Tấn
+NMĐ:Nhà máy đường.
+NHTM và QHTPT:Ngân hàng Thương mại và Quỹ Hỗ trợ phát triển.
+CSTK:Công suất Thiết kế.
1
Lời mở đầu
Ta biết rằng,nước ta vẫn đang là 1 nước Nông nghiệp,đang trong quá trình Hiện đại và
Công nghiệp hóa.Mặt khác,với những yếu tố điều kiện tự nhiên thuận lợi,rất phù hợp đối
với phát triển Nông nghiệp.Vì vậy,Nông nghiệp vẫn là 1 nghành cần được ưu tiên đầu tư
từ trước đến nay.
Với những điều kiện tự nhiên thuận lợi ở nước ta,nghành Mía đường là 1 trong những
nghành có thuận lợi để phát triển và ưu tiên đầu tư hàng đầu.Đầu tư vào Mía đường,thứ
nhất để đáp ứng trước mắt nhu cầu tiêu thụ đường trong nước đang dẫn được nâng cao
theo điều kiện mức sống của người dân ngày càng được nâng lên.Thứ hai là để phục vụ
cho xuất khẩu đường ra thế giới thu hút thêm lợi nhuận cho Quốc gia.
Tuy nhiên trên thực tế thì nghành Mía đường vẫn còn 1 số thực trang và tồn tại cần
đáng lưu tâm,ảnh hưởng đến phát triển của nghành Mía đường nói riêng và của cả nền
Nông nghiệp nước ta nói chung.Những tồn tại đó có thể là trong công tác phát triển,trong
quản lý,trong kỹ thuật trồng và sản xuất đường,…
Trong những năm 90,nghành Mía đường ở Việt Nam chưa thực sự phát triển,với nhu
cầu tiêu thụ trước mắt,và xuất khẩu lâu dài sau này,Nhà nước và Chính phủ đã chỉ đạo
thực hiện chương trình “1 triệu tấn đường”.Sau chương trình được hoàn thành,nước ta
nói chung đã đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước,rất nhiều nhà máy đường được
mọc lên,tuy nhiên sau đó,đã có khá nhiều nhà máy làm ăn thua lỗ,dường như nghành
Mía đường đã có thời gian bị chững lại.Hơn nữa,sau “chương trình 1 triệu tân
đường”,nói chung,các nội dung đầu tư chủ yếu vào nghành Mía đường là đầu tư cải tiến
kỹ thuật,máy móc thiêt bị,hầu như không có 1 sự đầu tư mới nào cho việc phát triển Mía
đường.
Vì vậy,việc nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa việc Đầu tư
phát triển nghành Mía đường sẽ có ý nghĩa to lớn trong lý luận thực tiễn,đáp ứng cho
việc nâng cao sự phát triển và tồn tại cũng như những đóng góp của nghành Mía đường
cho nền Kinh tế Quốc dân.
Xuất phát từ những nhận thức trên cùng với những nghiên cứu tại đơn vị thực tập là
Vụ Kinh tế Nông nghiệp-Thuộc Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư,em quyết định chọn Đề
tài:”Thực trạng và giải pháp Đầu tư phát triển nghành Mía đường ở Việt Nam trong
2
thời gian qua”,nhằm đưa ra 1 số giải pháp cần thiết cho sự phát triển bền vững nghành
Mía đường của Việt Nam trong thời gian tới.
Nội dung của Bài Chuyên đề thực tập tốt nghiệp ngoài phần Mở đầu và Kết luận,bài
viết của em được bao gồm 2 phần:
Chương I:Thực trạng Hoạt động Đầu tư phát triển của Nghành Mía đường ở Việt
Nam trong thời gian qua
Chương II:Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động Đầu tư phát triển nghành Mía
đường ở Việt Nam trong thời gian tới.
Đề tài này đã được hoàn thành dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô,cán bộ tại đơn
vị thực tập và bạn bè.Em xin chân thành cám ơn sự giúp đõ của mọi người.
3
Chương I:
Thực trạng hoạt động Đầu tư phát triển nghành mía đường ở Việt
Nam trong thời gian qua
I.Vài nét chung về nghành mía đường ở Việt Nam
1.Về sản xuất mía của Việt Nam
1.1.Về điều kiện khí hậu
Ta biết cây mía là cây trồng nhiệt đới,phát triển tốt trong phạm vi từ 35° vĩ tuyến Bắc
đến 35° vĩ tuyến Nam.Cây mía là cây không kén đất,có thể trồng được trên nhiều loại
đất từ cất đến sét nặng.Mía sinh trưởng và phát triển tốt ở nhiệt độ từ 21°C-35°C,thời kì
mía chín nhiệt độ thấp từ 14°C-25°C là thích hợp nhất để tích lũy đường trong thân.Cây
mía thích ứng rất rộng từ vùng khô có lượng mưa từ 800-900mm/năm đến những vùng
mưa nhiều từ 2000-3000 mm/năm.Tuy nhiên,mía là một cây ưa nắng,thông thường
khoảng thời gian nắng từ 2400 giờ trở lên trong 1 năm mới đut để cây mía phát triển hết
tiềm năng cuả nó.
Việt Nam nằm ở vị trí từ 8°-23° vĩ tuyến Bắc nên hoàn toàn thích hợp cho cây mía
sinh trưởng và phát triển.Theo đánh giá của các chuyên gia thì “Việt Nam có điều kiện
nông nghiệp trên mức trung bình thế giới nếu đảm bảo đủ tưới” để phát triển mía
cây.Căn cứ vào 4 yếu tố khí hậu chính ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây
mía là:nhiệt độ,thời gian nắng,biên độ nhiệt và lượng mưa hàng năm,có thể xác định như
sau:
-Các vùng thuận lợi nhất để phát triển cây mía ở Việt Nam là Duyên hải Nam Trung
Bộ(DHNTB),Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ;
-Các vùng có tiềm năng để phát triển cây mía là Thanh Hóa-Nghệ An,Đồng bằng Sông
Cửu Long(ĐBSCL)
-Các vùng có tiềm năng hạn chế là Đồng Bằng Sông Hồng(ĐBSH),Hà Tĩnh-Quảng
Bình-Thừa Thiên Huế,trung du và miền núi phía Bắc.
Điều kiện khí hậu cũng quyết định đến tiềm năng thời gian vụ ép và lượng đường
mía.Các vùng như Duyên hải Nam Trung Bộ,Tây Nguyên,Đông Nam Bộ,ĐBSCL,Thanh
4
Hóa-Nghệ An và Trung du Bắc Bộ có tiềm năng tốt về thời gian ép mía(>150 ngày/năm)
và chữ đường(>10 CCS)².
Tính chung cả tiềm năng về năng suất,chữ đường và thời gian ép thì các vùng phù hợp
nhất với trồng mía là Duyên hải Nam Trung Bộ,Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.Các vùng
ĐBSCL và Thanh Hóa-Nghệ An có tiềm năng khá.Trong khi đó,các vùng ĐBSH,Hà
Tĩnh-Quảng Bình-Thừa Thiên Huế và miền núi-trung du phía Bắc không thực sự có điều
kiện tự nhiên-khí hậu thích hợp để phát triển cây mía với quy mô lớn.
1.2.Tình hình sản xuất mía
a.Giai đoạn 1980-1994.
Vào đầu những năm 80,diện tích mía của cả nước tăng đạt 162.000 ha vào năm 1984.Sau
đó diện tích mía giảm dần,chủ yếu là do giá đường thế giới giảm mạnh,đường nhập khấu
nhiều và thậm chí có lúc vượt quá nhu cầu tiêu dùng trong nước,làm giá đường và giá
mía trong nước giảm mạnh.Vì vậy,nhiều nông dân đã giảm diện tích trồng mía.Tốc độ
tăng diện tích mía bình quân trong 10 năm 1980-1990 là 1,77%/năm.
Đầu thập niên 90,sản xuất mía đã được phục hồi dần và có tốc độ phát triển khá hơn
giai đoạn trước,những năm 1990-1994 đạt tốc độ tăng diện tích bình quân hàng năm là
6,23%.Năm 1994,cả nước có 166,6 nghìn ha,tập trung chủ yếu ở các vùng như:đồng
băng Sông Cửu Long,Duyên hải miền Trung,khu 4 cũ và Đông Nam Bộ.
Trước năm 1994,bộ giống mía trồng ở nước ta hầu hết là giống mía cũ,đã thoái
hóa,năng suất thấp.Trong giai đoạn 1980-1990,năng suất mía bình quân cả nước chưa
bao giờ vượt quá mức 40 tấn/ha,tốc độ tăng năng suất thâp,ở mức 0,4%.Từ năm 1990
đến 1994,năng suất mía trung bình của cả nước cải thiện đáng kể,tăng từ 41,3 tấn/ha lên
45,1 tấn/ha với tốc độ tăng là 2,3%.Tuy nhiên ở những vùng đất xấu,năng suất mía cây
vẫn chỉ đạt là 30-32 tấn/ha.Do kĩ thuật canh tác lạc hậu,trình độ thâm canh thấp,chất
lượng mía kém,chữ đường thấp(dưới 9 CCS)
Trong giai đoạn 1980-1990,sản lượng mía của cả nước tăng thấp,bình quân
2,18%/năm.Sau đó sản lượng mía tăng nhanh hơn trong những năm từ 1990-1994,bình
quân 8,71%/năm,chủ yếu nhờ tăng diện tích hơn năng suất.Năm 1994,sản lượng mía cả
nước đạt 7,5 triệu tấn.
b.Giai đoạn từ năm 1995 đến nay
5
Trong 5 năm thực hiện Chương trình 1 triệu tấn đường,diện tích và năng suất mía trên cả
nước đã có tốc độ tăng vọt.Nếu như năm 1994,cả nước chỉ có xấp xỉ 170 nghìn ha thì
đến niên vụ mía năm 1999/2000,diện tích mía của cả nước lên tới 344,2 nghìn ha,tăng
bình quan 15,2%/năm.Năng suất mía bình quân cả nước đạt 51,6 tấn/ha vào năm cuối
cùng của Chương trình mía đương,tăng đáng kể với mức xấp xỉ 45 tấn/ha của năm 1994.
Nhờ tăng trưởng nhanh cả về năng suất và diện tích,sản lượng mía cây tăng đột biến
đạt 17,8 triệu tấn vào niên vụ 1999/2000,gấp 2,4 lần sản lượng cao nhất trước khi có
chương trình mía đượng.Tốc độ tăng sản lượng bình quân đạt 18,8 %/năm,thấp hơn đôi
chút so với bông(19,7%/năm),nhưng cao hơn nhiều so với lạc(1,6 %) và đậu
tương(3,1%).So với các cây công nghiệp lâu năm,tốc độ tăng sản lượng mía cây cũng
chỉ thấp hơn so với cà phê(22%),nhưng cao hơn nhiếu so với cây cao su(10,8%) và
chè(9%).
Tuy nhiên,sự tăng trưởng này là không bền vưng.Trong ba niên vụ mía sau khi kết thúc
Chương trình mía đương,diện tích trồng mía giảm xuồng 300 nghìn ha trong năm
2000/2001,tiếp tục giảm xuông 291 nghìn ha trong niên vụ 2001/2002 và chỉ tăng đôi
chút lên 315 nghìn ha trong vụ 2002/03.Năng suất mía cây cũng có xu hướng chững lại
trong 3 niên vụ vừa qua,chỉ đạt 49,8 tấn/ha vào năm 2000,49,2 tần/ha trong năm 2001 và
49,8 tấn/ha trong niên vụ 2004/2005.Trong trong các vùng nguyên liệu được quy hoạch
và chăm sóc tốt hơn của các nhà máy chế biến đương,năng suất mía bình quân vẫn còn
rất thấp.Niên vụ 2002/2003,năng suất mía trong vùng quy hoạch của Công ti mía đường
Lam Sơn đạt mức cao nhất cả nước là 60 tấn/ha.Phần lớn vùng mía quy họch của các
nhà máy đường như Bình Thuân,Trị An,Quảng Nam,Quảng Bình có năng suất mía bằng
và mía 40 tấn/ha.
Do diện tích trồng mía giảm và năng suất mía có dấu hiệu chững lại,tổng sản lượng
mía cây của cả nước đã giảm mạnh xuống xấp xỉ 15 triệu tấn năm 2000/2001,còn 14,3
triệu tấn niên vụ 2003/2004 và tăng lên 15,7 triệu tấn trong niên vụ 2004/2005.
Năm 2006,diện tích mía của cả nước ước đạt 266 nghìn ha,năng suất đạt 55,3
tấn/ha,sản lượng khoảng 14,7 triệu tấn.So với năm 2001,dienẹ tích chỉ bằng 88%,sản
lượng đạt khoảng 98%,năng suất tăng 11%.Diện tích và sản lượng đạt cao nhất năm
2002 với 320 nghìn ha và trên 17 triệu tấn,đạt thấp nhất năm 2001 với 291 tấn và trên
6
14,3 triệu tấn mía.Năng suất năm 2005 cao nhất với 55,3 tấn/ha và năm thấp nhất 2001
là 49,2 tấn/ha.So với 1 số nước trong khu vực như Thái Lan,Philippin,Indonexia thì năng
suất mía của Việt Nam kém từ 8-18 tấn/ha,còn so với Úc,Braxin thì năng suất mía của
Việt Nam chỉ bằng 60-65%.
1.3.Đặc điểm vùng nguyên liệu và giống mía
Trên phạm vi cả nước,mía được trồng tập trung ở 4 vùng chính là:
+Bắc Trung Bộ với diện tích 49,9 nghìn ha(chiếm 17,1% tổng diện tích mía của cả nước)
tập trung ở Thanh Hóa(27,8 nghìn ha),Nghệ An(19,5 nghìn ha);
+Duyên hải Nam Trung Bộ với diện tích 53,2 nghìn ha(chiếm 18,3% tổng diện tích mía
của cả nước) chủ yếu Phú Yên(19,5 nghìn ha),Khánh Hòa(15,9 nghìn ha),Quảng Ngãi và
Bình Định(xấp xỉ 7 nghìn ha);
+Đông Nam Bộ với diện tích 56,8 nghìn ha(chiếm 19,5%) tập trung ở Tây Ninh(30,5
nghìn ha),Đồng Nai(11,8 nghìn ha);
+Đồng bằng Sông Cửu Long với diện tích 76,1 nghìn ha(chiếm 26,1%).Các tỉnh có diện
tích trồng mía lớn như Long An(16,5 nghìn ha),Cần Thơ(15,4 nghìn ha),Bến Tre và Sóc
Trăng(khoảng trên 12 nghìn ha) và Trà Vinh(6,9 nghìn ha)
Sự phân bố các vùng trồng mía cho thấy sản xuất mía ở Việt Nam rải rác ở mọi vùng
trên cả nước kể cả những vùng có điều kiện tự nhiên và khí hậu không thuận lợi cho
trồng mía công nghiệp như ĐBSH hay miến núi phía Bắc cũng có tới hàng nghìn ha
mía.Những vùng trồng mía có tiềm năng lớn nhất đã phần nào tận dụng được lợi thế về
tự nhiên và khía hậu,những năm gần đây tại các vùng này,các vùng nguyên liệu lớn tập
trung đang dần được hình thanh,đặc biệt là 3 vùng như:Thanh Hóa-Nghệ An,Quảng
Ngãi-Bình Định-Phú Yên-Khánh Hòa và Tây Ninh-Long An với diện tích trồng mía
chiếm tới một nửa tổng diện tích mía của cả nước.
Ở Việt Nam,cây mía được trồng ở 3 chân ruộng chính là:
-Đất đồi và ruộng bậc thang thấp.Đất đồi dốc thường là vùng mới canh tác,được khai
hoang,cày bừa theo đường cong,chia thành từng cấp.
-Ruộng trồng lúa.Chân ruộng lúa đã được canh tác không xây dựng kết cấu hạ tầng,kể cả
hệ thống tiêu nước.
-Chân ruộng thấp ở đồng bằng sông Cửu Long.
7
Tính đến năm 2002,diện tích trồng mía chủ yếu là đất đồi và đất ruông.Diện tích đất đồi
chiếm 46%,diện tích đất ruộng chiếm 44%.
Quy hoạch và đặc điểm đất trồng ở các vùng cũng rất khác nhau.Đất đồi dốc thường là
vùng mới canh tác và được khai khoang,cày bừa theo đường cong,chia thành từng cấp và
có hệ thống tiêu.Chân ruộng lúa đã được canh tác không theo quy hoạch,đặc biệt là
thường không có hệ thống tiêu nước.
Bảng 1.1.Phân loại đất trồng mía vùng nguyên liệu các NMĐ
I.Năm 2003-2004
1.Đất ruộng 8512 12.5 11817 14.5 101553 81.7 121882 44.27
2.Đất đồi 44150 66.3 64466 79.1 15040 12.1 126057 45.79
3.Đất bãi 14428 21.2 5216 6.4 7707 6.2 27361 9.94
Tổng cộng 68100 100 81499 100 124300 100 275300 100
II.Dự kiến năm 2006
1.Đất ruộng 21440 18.59 13361 18.69 87568 85.06 113454 40.57
2.Đất đồi 65841 57.1 51597 72.19 9885 9.6 126638 45.29
3.Đất bãi 28020 24.3 6515 9.12 5500 5.34 39535 14.14
Tổng cộng 115301 100 71473 100 102953 100 279627 100
Nguồn:Niên giám thống kê và Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp
Về giống,ngoài các loại giống cũ trong nước thì Việt Nam nhập 1 số giống mới từ một
số nước như Đài Loan,Trung Quốc,Cu Ba,Úc,Ấn Độ và Pháp.Trong những năm
qua,Việt Nam đã nhập nội và chọn lọc được hơn 10 giống có năng suất,có chữ đường
Loại đất
Miền Bắc Miến Trung và
Tây Nguyên
Miền Nam Cả nước
DT(ha) Tỷ
lê(%)
DT(ha) Tỷ
lê(%)
DT(ha) Tỷ
lê(%)
DT(ha) Tỷ
lê(%)
8
cao từ Đài Loan,Trung Quốc,Cuba,Pháp,Thái Lan,Úc và Ấn Độ.Nhiều giống cho thấy
năng suất vượt trội so với các giống mía cũ.Chỉ tính riêng trong 5 năm thực hiện chương
trình mía đường,chúng ta đã nhập và thu thập trên 11.000 tấn với 20 giống mía từ các
nước khác nhau.
Mỗi năm diện tích mía trồng mới khoảng 100.000-110.000 ha(trồng tái canh và trồng
mở rộng).Nhu cầu về giống mỗi năm khoảng 1 triệu tân.Lực lượng sản xuất và cung ứng
giống mía hiện nay bao gồm:
-Các điểm giữ giống mía của các hộ nông dân ở ngay trong vùng nguyên liệu
-13 trại,cơ sở nhân giống mía của các nhà máy đường(như Lam Sơn,Nông Công,Quảng
Ngãi,Bình Định,Tuy Hòa,Bình Thuận,Hiệp Hòa,Bình Dương,Bourbon TN,Thô Tây
Ninh,Nước Trong,La Ngà,Cần Thơ).
-Một số nông lâm trường,trại giống trực thuộc sở NN-PTNT và cơ sở sản xuất của các
tổ chức chính trị xã hội ở trong vùng nguyên liệu
Các cơ sở trên mỗi năm cung cấp 150.000-180.000 tấn giống mía các loại,chỉ đáp ứng
được 15% nhu cầu giống cho sản xuât,trong đó giống mía mới có năng suất chữ đường
cao là 15 đến 20 nghìn tân.
2.Về chế biến đường ở Việt Nam.
2.1.Tăng trưởng của công nghiệp chế biến đường.
a.Trước năm 1995
Tính đến năm 1994,cả nuwocs có 12 nhà máy chế biến đường công nghiệp với tổng
công suất 10.300 tấn mía/ngày(TMN).Một số nhà máy có công suất 1500-2000 TMN do
các doanh nghiệp nhà nước trục thuộc Trung ương quản lý như Lam Sơn,Quảng
Ngãi,Hiệp Hòa,Bình Dương,La Ngà với các máy móc thiết bị tương đối hiện đai.Hầu hết
các nhà máy đường còn lại do doanh nghiệp Nhà nước thuộc các tỉnh quản lý chỉ có
công suất thiết dưới 500 TMN/nhà máy với công nghệ chế biến lạc hậu.
Do vùng nguyên liệu chưa đáp ứng đủ mía cho nhà máy,nên hầu hết các nhà máy chỉ
huy động công suất ép dưới 70%.Công suất ép của những nhà máy công suất nhỏ(dưới
1000 TMN) do địa phương quản lý rất thấp như Việt Trì,Vạn Điểm,Vĩnh Trụ chỉ đạt
dưới 30%.Nguyên nhân chủ yếu là do máy móc thiết bị đã quá cũ,lạc hậu,thiết bị thay
thế thiếu đồng bộ,không có vùng nguyên liệu ổn định,phải thu gom nguyên liệu ở xa.
9
b.Từ năm 1995.
Kể từ khi thực hiện chương trình mía đường vào năm 1995,số lượng các nhà máy chế
biến đường tăng lên một cách nhanh chóng.
Bảng 1.2 – Tình hình xây mới và mở rộng nhà máy đường.
Niên vụ Số nhà
máy mới
Số nhà máy
mở rộng
Tổng số nhà
máy
Tổng công
suất (TMN)
Công suất bình
quân (TMN\ nhà
máy)
1994/95 5 12 12.700 1.058
1995/96 2 14 15.200 1.068
1996\97 10 24 32.600 1.358
1997\98 11 35 51.800 1.480
1998/99 6 1 41 69.050 1.684
1999/00 2 1 43 74.050 1.722
2000\01 1 1 44 78.200 1.777
2001\02 3 44 79.700 1.811
2002\03 2 44 82.950 1.885
Nguồn:Theo Báo cáo của các Nhà máy đường.
Như vậy tính đến niêm vụ 2002/03 cả nước có 44 nhà máy với ttổng công suất thiết kế
là 82.950 TMN, với công suất bình quân đạt xấp xỉ 1900 TMN\ nhà máy. Bên cạnh sự
gia tăng về số lượng nhà máy,quy mô bình quân của các nhà máy mới(hoặc mở rộng)
cũng tăng đáng kể,từ 1086 TMN/nhà máy niên vụ 1995/1996 lên 1885 TMN/nhà máy
như hiện nay.
Các nhà máy chế biến đường chủ yếu sản xuất 2 sản phẩm chính là đường trắng và
đường tinh luyện,trong đó có 40% đường tinh luyện RE.Một số nhà máy sản xuất đường
thô nhưng chỉ là sản phẩm trung gain được dùng làm nguyên liệu chế biến đường tinh
luyện.
Kết thúc vụ 2002/03,các nhà máy đã ép được 11,54 triệu tấn mía,đạt 93% công suất
thiết kế.Đây là niên vụ có hệ số tận dụng công suất thiết kế cao nhất cho đến nay,tăng
đáng kể so với 50% niên vụ 1997/98,64% niên vụ 1998/99 và 70% của 2 niên vụ 00/01
và 01/02.
Sản lượng đường công nghiệp của cả nước trong những năm qua tăng nhanh,đạt mức
tăng trưởng bình quân 32,7% trong giai đoạn 1994-2003,thậm chí đạt 50% trong giai
đoạn 1995-2000.
10
Ta biết,những năm sau khi kết thúc Chường trình mía đường kết thúc vào đầu những
năm 2000,với 44 nhà máy đường thì đến năm 2005 chỉ còn lại 37 nhà máy đường với
tổng công suất trên 80 nghìn TMN do một số nhà máy đã ngừng sản xuất,bán,phá sản
theo quyết định 28/TTg của Thủ tướng Chính phủ.Ngoài ra,có hàng trăm cơ sở sản xuất
đường thủ công ở Nam Trung Bộ,Đồng bằng Nam Bộ với tổng công suất khoảng
250-300 nghìn tấn đường kính/năm.Tính chung tổng công suất chế biến đường cả
nước(công suất và thủ công có thể đạt 1,4 triệu tấn đường kính/năm).
Trong 5 năm qua,sản xuất đường 2005 đạt 1082 nghìn tấn(trong đó đường kính công
nghiệp là 902 nghìn tấn).So với năm 2001,tăng 132 nghìn tấn,riêng đường công nghiệp
thì tăng lên 252 nghìn tấn.Năm 2003 và 2004 là 2 năm tổng sản lượng đạt trên 1,2 triệu
tấn trong đó đường công nghiệp đạt trên 1 triệu tấn.So với chỉ tiêu kế hoạch 2001-2005
trình Đại hội Đảng IX,sản lượng đường thực hiện từng năm từ 2001-2004 đều đạt và
vượt kế hoạch(chỉ năm 2005,đạt 90% so với kế hoạch).Tính chung 5 năm,tổng sản lượng
đường tăng 1,8%,riêng đường công nghiệp tăng 5,9% so với mục tiêu kế hoạch.
Về cơ cấu sản phẩm,các nhà máy đường công nghiệp chủ yếu sản xuất đường kính
trắng(RS) chiếm 80-85%,đường luyện (RE) chiếm từ 15-20%.Chất lượng các loại này
ngày càng đáp ứng theo tiêu chuẩn Việt Nam,được thị trường chấp nhận hơn trước rất
nhiều.
Về các nghành công nghiệp sử dụng phế phẩm phụ liệu của sản xuất đương,đã có một
số nhà máy triển khai như chế biến banh kẹo,cồn,rượu,phân vi sinh,ván ép từ bã mía,…
và rất nhiều nhà máy có nhu cầu phát triển,nhưng thời gian qua do khó khăn về vốn nên
bị chậm lại.
Bảng 1.3. Sản xuất mía đường theo vùng năm 2005 như sau:
Đơn vị:DT:1000ha;NS:tấn/ha;SL:1000 tấn;Công suất:Tấn mía/ngày;
Tổng
số
Tr.Du
&MB
ĐB
SHồng
Bắc
Tr.Bộ
Nam
Tr.Bộ
Tây
Nguyên
ĐNBộ ĐBS
CLong
Tổng DT mía 265.7 21.9 2.49 53.7 51.8 26.5 45.5 64
Năng suất 55 48 51 53 45 45 46 72
Sản lượng mía 14.729 1037 128.3 2856 2320 1198 2566 4628.4
Sản lượng
Đường
1050 40.7 283 201 64 137.6 325
11
Trong
đó:Đường CN
900 40.7 283 141 64 138 235
Đường
TC
150 60 90
Công suất NMĐ 83950 4600 23250 18300 6500 31300 16900
Nguồn:Bộ NN&PTNT
2.2.Cơ sở sản xuất tiểu thủ công
Bên cạnh 37 nhà máy công nghiệp(tính đến năm 2005),Việt Nam còn có các xửơng sản
xuất đường thủ công có mặt ở khắp nơi,đặc biệt tập trung là ở Miền Nam.Sản phẩm
đường thủ công cũng rất đa dạng,gồm:đường bát,đường phèn,đường vàng ly tâm,đường
trằng ly tâm,đường mặt,…
Trong giai đoạn 1997-2003,sản xuất đường thủ công ổn định,ước tính có khoảng
200-260 nghìn tấn(quy về đường trắng) hàng năm.Các lò đường thủ công hoạt động
mạnh trong niên vụ 2003/04 với sản lượng ước tính đạt 300.000 tấn.Tuy nhiên trong
niên vụ 2004/05,sản xuất đường thủ công giảm mạnh so với niên vụ trước,ước tính chỉ
còn xấp xỉ 150.000 tấn,bằng một nửa so với 300.000 nghìn tấn của hai niên vụ trứơc
đây.Nguyên nhân chủ yếu là do giá đường trong nước xuống thấp nên nhiều lò thủ công
đóng cửa hoặc chạy chỉ là để cầm chừng.
Trong niên vụ 1999/00,cả nước sản xuất đước khoảng 1.014.000 tấn đường,lần đầu
tiên vượt mức 1 triệu tấn đường,gồm 474.000 tấn đường trắng(chiếm khoảng 46,7%) ,
290.000 tấn đường luyện(28,6%) và 250.000 tấn đường thủ công(chiếm khoảng
24,7%).Trong niên vụ 2001/02,tổng sản lượng đường cả nước đạt khoảng 1.073 nghìn
tấn,tăng 59 nghìn tấn hay 5,8% so với niên vụ trước đó.Trong đó,đường công nghiệp đạt
773 nghìn tấn,chiếm khoảng 72%,đường thủ công đạt 300 nghìn tấn,chiếm 28% tổng sản
lượng cả nước.Trong niên vụ 2004/05,tổng sản lượng đường cả nước ước tính đạt được
1,4 triệu tấn,trong đó đường công nghiệp chiếm tới 87%.
3.Thị trường tiêu thụ đường.
3.1.Thị trường nội địa.
Ta biết,nhu cầu tiêu thụ đường của một quốc gia thường chụi tác động của một số nhân
tố chính như độ co giãn của cầu theo mức thu nhập;tốc độ gia tăng dân số;giá đường và
các sản phẩm thay thế đường;truyền thống văn hóa và năng lực tụ cung cấp đường,v.v…
12
+Độ co giãn của cầu theo thu nhập: Theo thống kế,ở các quốc gia đang phát triển,tăng
thu nhập dẫn đến tăng tiêu thụ đường.Trong khi đó,thu nhập và mức tiêu thụ đường ở
các quốc gia phát triển có quan hệ tỉ lệ nghịch do lo ngại về sức khỏe,chế độ ăn kiêng và
sự xuất hiện của các chất ngọt thay thế khác.Trong những năm gần đây,ngay tại khác
nước đang phát triển,ý thức tiêu dùng của người dân cũng đã thay đổi đáng kể cũng do
lo ngại về sức khỏe,đặc biệt là bệnh tiểu đường.Chính phủ Thái Lan cũng đã khuyến cáo
người dân không nên sử dụng quá nhiều đường vì có thể làm tăng nguy cơ mắc phải
bệnh tiểu đường.Ngay ở Việt Nam,vì nhiều lý do khác nhau,một số người mắc bệnh tiểu
đường cũng tăng nhanh chống và do đó một số ít người tiêu dùng ở các thành phố lớn
cũng bắt đầu lo ngại về việc sử dụng quá nhiều đường có thể gây hại cho sức khỏe.
+Mức tăng dân số:Tốc độ tăng dân số thường là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng
đến lượng tiêu thụ ở các quốc gia đang phát triển.Tốc độ tăng dân số ở Việt Nam đã
giảm đáng kể trong những năm gần đây và đang có xu hướng giảm trong những năm
tới,mặc dù vậy,mưc tăng dân số cơ học vẫn cao trong nhiều thập kỷ tới.
+Giá đường và sản phẩm thay thế đường: Tác động của giá đường ăn đến mức tiêu thụ
được thể hiện qua độ co giãn của cầu théo giá.Hiện nay,nhiều nước trên thế giới có xu
hướng tăng sử dụng các chất ngọt thay thế đường như HFS hay saccharine trong các
nghành chế biến thực phẩm vì giá rẻ hơn nhiều so với đường.
+Truyền thống văn hóa và khả năng tự cung ứng đường:Tiêu thụ đường trực tiếp tại
các nước phát triển có xu thế giảm do thay đổi thói quen tiêu dùng.Trái lại,tiêu thụ
đường gián tiếp tăng lên thông qua các sản phẩm như bánh,kẹo,mứt,đồ hộp và nhất là đồ
uống.Do mức tiêu thụ đường gián tiếp vẫn còn khá thấp do hạn chế về thu nhập,cùng với
sự phát triển kinh tế,người dân vẫn có khả năng tăng mức tiêu thụ đường.
Mức tiêu thụ bình quân toàn thế giới là 22kg/người/năm,khác nhâu nhiều giữa các
nước.Các nước phát triển,bình quân tiêu thụ là 30-40 kg đường/người/năm.Các nước
Châu Á bình quân tiêu thụ khoảng 14kg/người/năm.Trong khi đó,bình quân tiêu thụ
đường của Việt Nam tương đối thấp,chỉ khoảng 12-13kg/người/năm,thấp hơn so với
30.3 kg ở Thái Lan,50kg ở Malayxia và Úc,15kg ở Ấn độ nhưng cao hơn mức 7kg ở
Trung Quốc.
13
Mức tiêu thụ đường ăn ở Việt Nam đã tăng trưởng khá nhanh trong 10 năm qua.Theo
Điều tra về mức sống dân cư Việt Nam trong năm 1992/93,mức tiêu thụ đường bình
quân đầu người trong năm 1992 là khoảng 5 kg/người/năm với tổng lượng tiêu thụ
khoảng 340 nghìn tấn.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,bình quân trong năm 2002
cả nước tiêu thụ khoảng 86 nghìn tấn/tháng,tương đương với khoảng 1 triệu tấn
đường/năm,năm 2005 cả nước tiêu thụ khoảng 98 nghìn tấn đường/tháng..Năm 2006,
ước tính mức tiêu thụ đường công nghiệp đạt khoảng 100 nghìn/tháng,tương đương với
khoảng 1,2 triệu tấn/năm.
Như vậy trong vòng 10 năm(1996-2002),lượng đường tiêu thụ cả nước tăng trung bình
là 11,8%/năm. Đây là mức tăng trưởng rất cao so với các nước khác trên thế giới.Theo
số liệu của Trung tâm Kinh tế Quốc tế Úc(CIE),tốc độ tăng tiêu thụ đường toàn cầu
trong 20 năm qua là khoảng 2%/năm,riêng khu vực Châu Á là khoảng 3,6%/năm,nhưng
chủ yếu là tăng trong thập kỷ 1990.Trong vài năm trở lại đây,tốc độ tăng nhu cầu đã có
dấu hiệu giảm dần.Theo đánh giá của các chuyên gia,nhu cầu tiêu thụ đường của Việt
Nam hiện nay tăng khoảng 6-7% hàng năm cho đến năm 2006.
Các số liệu điều tra hộ gia đình ở Việt Nam cho thấy mức tiêu thụ đường tương đối
khác nhau giữa các vùng trong cả nước, ở miền Nam cao gấp rưỡi mức tiêu thụ bình
quân đầu người so với miền Bắc.
Thị trường đường Việt Nam có thể được phân chia theo mục đích sử dụng như
sau:Thị trường tiêu thụ trực tiếp và thị trường công nghiệp chế biến(tức thị trường tiêu
thụ gián tiếp).Hiện nay thì chưa có số liệu nào đáng tin cậy và chính xác về tầm quan
trọng của mỗi loại thị trường như thế nào.Theo điều tra của dự án do Cơ quan phát triển
Pháp tài trợ,trên khoảng 60% lượng đường được tiêu thụ trưc tiếp tại các hộ gia
đình,phần còn lại dưới 40% được tiêu thụ gián tiếp thông qua các sản phẩm chế biến.Tuy
nhiên,theo đánh giá của Hiệp hội mía đường,mức tiêu thụ của công nghiệp chế biến hiện
nay chiếm khoảng 60% trong khi tiêu thụ trực tiếp chỉ chiếm khoảng 40%.Như vậy,nếu
tình cả đường thủ công(chủ yếu được tiêu thụ trực tiếp),hai thị trường này có quy mô
tương đương nhau.Bên cạnh đó,trong những năm vừa qua,tốc độ tăng trưởng của thị
14
trường tiêu thụ gián tiếp cao hơn hẳn so với thi trường tiêu thụ trực tiếp và có xu hướng
này chắc sẽ tiếp tục kéo dài trong những năm tới.
.
3.1.1.Thị trường tiêu thụ đường gián tiếp.
Thị trường đường công nghiệp được phân chia rõ rệt làm 4 phần là:sữa&kem,bánh
kẹo,nước ngọt và các nghành công nghiệp chế biến khác như rau quả,rượu bia hay dược
phẩm.
Nhu cầu tiêu thụ đường của nghành công nghiệp nước ngọt hiện tăng rất mạnh và năng
động nhất trong thị trường công nghiệp,chiếm vị trí số 1 trong thị trường tiêu thụ đường
gián tiếp.Hiện nay,nghành công nghiệp nước ngọt tiêu thụ khoảng 31,3% tổng lường
đường sử dụng trong các nghanh công nghiệp chế biến.Thị trường này tăng trưởng chủ
yếu nhờ 2 công ty nước giải khát lớn là Coca và Pepsi(chiếm tới 90% tổng nhu cầu của
toàn nghành công nghiệp nước ngọt).Với điều kiện khí hậu thuận lợi và xu hướng thay
đổi tiêu dùng sang một số sản phẩm nước ngọt,Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng phát
triển mặt hàng này.
Trước đây,các sản phẩm như sữa và kem là nguồn tiêu thụ đường quan trong nhất. Đến
nay thì khu vực này chiếm khoảng 26,2% tổng nhu cầu đường công nghiệp,chỉ đứng thứ
2 sau nghành công nghiệp nước ngọt.Trong đó,Công ty Vinamilk đang dần trở thành đơn
vị tiêu thụ chính,chiếm khoảng 2/3 tổng nhu cầu của khu vực này,chủ yếu tiêu thụ đường
tinh luyện của công ty đường Biên Hoà.
Tuy nhiên,nhu cầu tiêu thụ đường ở thị trường gián tiếp có thể diễn biến theo hướng
giảm xuống. Ở Thái Lan,vào năm 1998,các nghành công nghiệp thực phẩm và dược
phẩm đã tiêu thụ khoảng gần 800 nghìn tấn đường,chiếm trên khoảng 50% tổng lượng
đường tiêu thụ của Thái Lan.Tuy nhiên trong năm 2001 thì các nghành công nghiệp chế
biến chỉ tiêu thụ khoảng 700 nghìn tấn đường và chỉ còn chiếm khoảng 40% tổng nhu
cầu tiêu thụ, ước tình khoảng 1,75 triệu tấn.Nguyên nhân chủ yếu là do các nghành công
nghiệp chế biến thực phẩm và dược phẩm đã tăng sử dụng chất ngọt thay thế
HFS.Lượng tiêu thụ HFS tăng từ khoảng 30.000 tấn vào năm 1998 lên đôi ở mức 60.000
tấn vào năm 2001.Trong khi đó thì lượng đường tiêu thụ của nghành công nghiệp chế
15
biến dược phẩm đã giảm mạnh từ 107 nghìn tấn xuống còn 37 nghìn tấn trong giai đoạn
1998-2001.
3.1.2.Tình hình nhập khẩu đường.
Cho tới những năm gần đây,Việt Nam vẫn là một nước nhập khẩu đường với khối
lượng trên dưới khoảng 100 nghìn tấn đường hàng năm.Từ khi Việt Nam thực hiện
Chương trình 1 triệu tấn đường,khối lượng đường nhập khẩu biến động mạnh qua các
năm mặc dù lượng đường sản xuất trong nước tăng mạnh.Kể từ năm 1999,khi sản xuất
hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước thì lượng đường nhập khẩu giảm
xuống rõ rệt.Theo số liệu chính thức thì Việt Nam vẫn nhập khẩu khoảng 12,5 nghìn tấn
đường thô để chế biến cho xuất khẩu,tuy nhiên do giá xuất khẩu quá thấp nên không tái
xuất được.Bên cạnh đó,năm 1999 một số lượng đáng kể được nhập lậu vào Việt Nam
tuy không có số lượng tin cậy về lượng nhập khẩu.
Trong năm 2000,theo báo cáo của Tổng cục Hải quan,khoảng 80.000 tấn đường được
xuất khẩu sang các nước Trung Quốc,Singapore,Philippin.Theo số liệu gần đây,trong
năm 2001 các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu được trên khaỏng 60.000 tấn.
16
Bảng
1.4.Lượng đường xuất nhập khẩu của Việt Nam
17
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
125.000 12.500 -80.000 -60.000 - -50.600 -50.000 -48.000 -37.000
Nguồn:Báo cáo 5 năm chương trình mía đường,Bộ NN&PTNT.
3.1.2.Xu hướng biến động giá đường.
Trong những năm vừa qua,giá đường trong nước của Việt Nam luôn cao hơn nhiều so
với giá đường nhập khẩu tương đường,nhất là giá đường thế giới.Theo ước tính của các
chuyên giá CIE,FAO thì giá bán buôn đường trong nước Việt Nam bình quân cao hơn
giá nhập khẩu tương đương khoảng 56,5% trong giai đoạn từ 2000-2005.Như trong niên
vụ 2004/2005 thi giá bán của đuờng trong nước là khoảng 480USD/tấn,trong khi đó giá
đương nhập cảng tai Việt Nam là khoảng 280USD/tấn.
Tuy nhiên năm 2005,giá đường trong nước đã giảm đáng kể,chỉ cao hơn đôi chút so
với giá nhập khẩu tương đương tại cảng.Tại niên vụ 2005/2006 thi do sản xuất trong
nước tăng quá mạnh vượt xa nhu cầu tiêu thụ trong nước dẫn đến tình trạng ứ đọng sản
phẩm của các nhà máy chế biến đường và việc nhập khẩu đương lậu qua đường biên giới
đã buộc các nhà máy phải hạ giá bán để tiêu thụ sản phẩm.
Trong hai năm vừa qua giá đuờng thị trường trong nước tương đối ổn định, ở mức
thấp nên góp phần hạn chế tình hình nhập lậu đường qua đường biên giới.Riêng ở thời
điểm cuối năm 2005 mặc dù giá đường trong nước tăng lên tương đối cao so với các
nước nhưng giá đường thế giới cùng kỳ cũng ở mức cao;do vậy,hiện tượng nhập lậu
đường không còn diễn ra mạnh như trước đây. Đường nhập khẩu vào Việt Nam phụ
thuộc chủ yếu vào mức chênh lệch giữa giá đường trong nước và giá thế giới.Khi độ
chênh lệch giá chỉ còn khoảng 30% thì hầu như hiện tượng nhập lậu đường qua biên giới
cũng đã thực sự chấm dứt.
3.2.Thị trường đường thế giới.
Trong vòng 10 năm quá,tiêu thụ đường trên thế giới tăng tương đối ổn định ở mức
1,71% bình quân hàng năm.Nhu cầu tiêu thụ đường trong niên vụ 2004/2005 đạt xấp xỉ
148 triệu tấn,tăng khoảng 1,87% trong cùng giai đoạn.
18
Trong những năm qua,tình hình xuất khẩu đường của các nước có nhiều thay
đổi.Brazin có tốc độ tăng trưởng đường mạnh,nhất là trong giai đoạn từ 1999-00 đến
2004-05.Trong vòng 11 năm(1994-2005),xuất khẩu đường của Brazin tăng bình quân
đến 30%,đạt được 13,6 triệu tấn trong niên vụ 2004/05,cao nhất trên thế giới.Gần
đây,Brazin đã giành được vị thế số một thế giới và luôn có những chính sách tiếp cận thị
trường mới.Hiện nay thị trường nhập khẩu đường chủ yếu của Brazin là Nga,các nước
thuộc Châu Phi,Châu Âu,các nước Nam Mỹ,Trung Đông và Đông Nam Á, đặc biệt là
Malayxia, Đài Loan và khu vực Trung Đông.
Thái Lan, Úc đã xuất khẩu biến dộng giữa các năm nhưng vẫn có xu hướng tăng
lên.Thái Lan,các nước Đông Nam Á gần kề Việt Nam xuất khẩu tới gần 4 tấn trong niên
vụ 2004/05,sang thị trường chính là các nước Châu Ấ.Niên vụ 2004/05, Úc đã xuất khẩu
được 4,2 triệu tấn,chủ yếu sang các nước Canada,Mỹ,Nhật,Hàn Quốc và Malayxia.
19
Hơn nữa,trong những năm vừa qua,sản xuất đường thế giới luôn vượt cầu.Hầu hết các
nước đều có chính sách bảo hộ cho nghành đường,giữ giá trong nước ổn định thong qua
thuế nhập khẩu cao,hỗ trợ xuất khẩu đường thừa ra ngoài biên giới với giá bán thường
thấp hơn giá thành sản xuất.Thái Lan có thuế nhập khẩu đường là 65% trong hạn
nghạch,95% ngoài hạn nghạch;Philippin 50% trong hạn nghạch,65% ngoài hạn
nghạch;Nam Phi là 125 USD/tấn;các nước trong khối EU là 419 Euro/tấn;Việt Nam là
30% đối với đường thô,40% đối với đường trắng.Chỉ có 2 nước là Braxin,Australia(sản
lượng đường chiếm 20% của cả thế giới) không có chính sách bảo hộ,giá bán trong nước
bằng với giá thị trường thế giới.(Theo COWI-Báo cáo Kiểm tóan chuẩn đoán của các
Công ti mía đường Nhà nước).Giá đường trên thị trường quốc tế luôn thay đổi với biên
20
độ dao động lớn là một khó khăn của nghành đường.
Trong 2 năm 2004,2005,do thời tiết không thực sự thuận lợi,sản xuất đường của 1
số nước bị suy giảm như Cuba,Ấn Độ,Trung Quốc,Việt Nam,… nên sản lượng đường
thế giới bị chững lại và tăng chậm,trong khi mức tiêu thụ vẫn tăng đều qua các
năm(Bình quân 10 năm qua vào khoảng 1,71-1,76%/năm).Cung cân đối với cầu,lượng
đường dự trữ giảm,nên giá đường trên thị trường thế giới có xu hướng tăng dần,giá
đường trắng đầu tháng 8/2005 là 294,5 USD/T,đường thô vào khoảng 220 USD/T (Vụ
2004-2005 sản lượng đường thế giới đạt khoảng 145,1 triệu tấn,mức tiêu thụ dự tính là
145 triệu tấn).
21
Năm 2006,do thiên tai hạn hán và lũ lụt diễn ra trên diện rộng trên thế giới,đồng thời
giá xăng dầu cũng tăng cáo,mức sản xuất cồn nhiên liệu từ mía ở các nước sản xuất
đường lớn như Braxin,Úc,… được giữ nguyên và tăng lên,nên khó có khả năng tăng sản
lượng đường.CUng cơ bản đáp ứng với cầu và có phần bị thiếu hụt,vì vậy giá bán đường
trong năm 2006 có khả năng vẫn giữ được ở mức cao.Sang năm 2007 này,tình hình có
thể diễn biến khác nếu thời tiết thuận lợi cho sản xuất mía đương.
Như vậy,có thể thấy trong vài năm tới giá đường sẽ phục hồi,tiếp tục giữ ở mức cao,là
cơ hội để nghành đường thế giới,trong đó có Việt Nam sẽ phát triển ổn định.
4.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển nghành mía đường.
4.1.Vùng nguyên liệu trồng mía.
Nói chung, vùng nguyên liệu quy mô nhỏ bé, phân tán, chưa được đầu tư tương xứng
với yêu cầu sản xuất công nghiệp. Đặc biệt là diện tích trồng mía bình quân cho mỗi hộ
nông dân quá thấp (0.3 – 0.5 ha/hộ). Một nhà máy đường phải quan hệ hợp đồng
với 20 – 30 ngàn hộ nông dân bán mía, bình quân mỗi hộ chỉ bán được từ 30-40
tấn mía/vụ; năng suất và chất lượng mía thấp; bình quân năng suất chỉ đạt khoảng
50 tấn/ha và dưới 10ccs (độ đường).
Xét cả về năng suất nông nghiệp và nâng suất công nghiệp chế biến, ngành mía
đường Việt Nam còn thấp, thua quá nhiều so với các ngành mía đường lớn của
khu vực và thế giới. Bình quân ở Việt Nam chỉ mới đạt 4-5 tấn đường/ha, trong
khi đó ở Thái Lan là 7-8 tấn/ha, ở Úc và Brazil là 9-12 tấn/h
4.2.Điều kiện thời tiết,khí hậu.
Ngành mía đường Việt Nam chịu tác động rủi ro rất lớn bởi thời
tiết hạn hán và bão lũ, các vùng nguyên liệu phần lớn nằm ở các vùng trung du và
miền núi, nông dân và nông thôn vốn là những vùng khó khăn, chưa được đầu tư
các công trình thuỷ lợi, giao thông…
4.3.Quan hệ cung cầu thị trường.
Ngành mía đường Việt Nam cũng đang chịu tác động lớn bởi quan hệ cung cầu và
giá đường của thị trường thế giới. Phần lớn trong số 60 quốc gia sản xuất đường
lớn trên thế giới đều có chính sách trợ giá đường nội tiêu thông qua thuế nhập
khẩu cao và chính sách hạn ngạch thuế quan. Với Việt Nam, những bảo hộ này
22
không có nhiều, chỉ riêng có hạn ngạch và thuế nhập khẩu thì theo lộ trình hội
nhập AFTA thuế suất nhập khẩu đường sẽ giảm dần từ 30% năm 2007 xuống còn
5% năm 2010. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa nhập khẩu
trong hạn ngạch là 25% vớI đường thô, ngoài hạn ngạch là 65%, khối lượng nhập
khẩu trong hạn ngạch còn tăng 5% mỗi năm.
4.4.Giá thị trường(trong nước và quốc tế)
Giá đường thị trường thế giới, cho đến nay, không thực sự phản ánh quan hệ cân
bằng cung cầu mà chịu tác động bởi chính sách trợ cấp sản xuất trực tiếp hay gián
tiếp của nhiều nước, nhất là các nước EU trong 40 năm qua luôn duy trì giá đường
cao gấp 4 lần so với giá đường trung bình trên thế giới (tháng 8/2005 là 631,9
Euro, tương tương 764,1 USD) đã bóp mép thị trường đường của các nước đang
phát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài chịu sự tác động này.
II.Thực trạng hoạt động Đầu tư phát triển sản xuất nghành mía đường ở
Việt Nam trong thời gian qua.
1.Vốn và cơ cấu nguồn vốn.
1.1.Quy mô và tốc độ tăng vốn trong hoạt động đầu tư phát triển nghành mía đường ỏ
nước ta trong thời gian qua.
23
Từ năm 2002, cả nước đã xây dựng 44 nhà máy đường, tổng công suất thiết kế là
82.950 tấn mía/ngày. Tổng số vốn đầu tư, mở rộng, xây dựng mới các nhà máy lên tới
10.050 tỉ đồng, trong đó có hơn 6.677 tỉ đồng thiết bị và hơn 3.372 tỉ đồng xây lắp. Tổng
sản lượng đường đạt trên một triệu tấn.
Hơn nữa,ta biệt rằng nghành công nghiệp chế biến đường đòi hỏi một số vốn đầu tư
lớn.Đầu tư cho 1 tấn công suất là 130 triệu đông,tương đương với gần 9000 USD/tấn
công suất(Tức TMN).Mặc dù vậy,đây là mức khá thấp so với mức đầu tư trung bình của
thế giới (là từ 10.000-14.000 USD/TMN).Riêng tại Thái LAn,mức đầu tư bình quân chỉ
khoảng từ 6.700 USD/TMN do các máy móc và thiết bị tự sản xuất được tại nội địa.
Các Nhà máy chế biến dung công nghệ đơn giản của Trung Quốc có suất đầu tư thấp
nhất,chỉ 7000 USD/TMN.Nhà máy Tate&Tyle tại Nghệ An sử dụng công nghệ tiến tiến
của Anh nên có suất đầu tư cao nhất,là 14.200 USD/TMN.Thông thường các nhà máy sử
dụng công nghệ hiện đại khác có suất đầu tư khoảng 12.000 USD/TMN.Trong chi phí
nàt có cả phần xây dựng cơ bản và thiết bị trong nước chiếm khoảng 40% tổng chi phí.
Với cùng 1 loạt công nghệ thiết bị,suất đầu tư cho 1 TMN cũng có sự khác nhau đáng
kể tùy theo quy mô của nhà máy.Với công nghệ tương đối hiện đại,chi phí đầu tư của 1
nhà máy có quy mô 1.000 TMN có thể lên tới 10 triệu USD.Trong khi đó,1 nhà máy có
quy mô 4.000 TMN,chi phí đầu tư chỉ khoảng 25 triệu USD.Như vậy,chi phí đầu tư cho
1 TMN của các nhà máy chỉ bằng khoảng 65% chi phí đầu tư cho 1 TMN của các nhà
máy có quy mô nhỏ.
Ngoài ra,có rất nhiều dự án nhà máy đường phải điều chỉnh nhiều lần, tăng đến 60,
thậm chí 100% tổng vốn đầu tư. Ví dụ, Nhà máy đường Phụng Hiệp, tăng từ 134,2 tỷ
đồng lên đến hơn 210,362 tỷ đồng; Nhà máy đường Linh Cảm tăng từ 98,4 tỷ lên đến
122,6 tỷ; Nhà máy đường Vị Thanh tăng từ 81,3 tỷ lên đến 173,6 tỷ; Nhà máy đường Trị
An tăng từ 97,3 tỷ đồng lên đến 161,1 tỷ đồng; Nhà máy đường Bến Tre từ 95,2 tỷ tăng
lên 157 tỷ đồng…
1.2.Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển mía đường.
24
Vốn đầu tư xây dựng các nhà máy đường là khá lớn bằng các nguồn vốn như: vay
nước ngoài nhập thiết bị trả chậm, vay tín dụng nước ngoài từ nguồn của Ngân hàng
phát triển châu Á (ADB), Quỹ Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), tín dụng đầu tư theo
kế hoạch Nhà nước, một số nhà máy bắt đầu đi vào hoạt động, đã đến kỳ trả nợ. Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh phải chịu trách nhiệm
chỉ đạo các nhà máy thuộc phạm vi quản lý của mình đề ra các biện pháp trả nợ, ưu tiên
trước hết trả nợ vốn vay nước ngoài nhập thiết bị trả chậm. Trên cơ sở phát triển vùng
nguyên liệu để phát huy tối đa công suất thiết kế, giữ giá mua nguyên liệu hợp lý, kinh
doanh tổng hợp, hạ nhanh giá thành sản phẩm, kinh doanh có lãi, để tự tạo ra nguồn thu
trả nợ.
Hiện nay, do đường sản xuất ra giá thành cao nên ứ đọng, tiêu thụ chậm và không xuất
khẩu được. Do vậy, không tiếp tục xây dựng thêm nhà máy mới và mở rộng nhà máy cũ.
Ở những nơi nông dân đang trồng mía cung cấp đủ cho nhà máy hiện có, thì không mở
rộng thêm diện tích và có thể có một số diện tích trồng mía phải chuyển hướng sản xuất,
các Ủy ban nhân dân địa phương giúp nhân dân nơi đó chọn cơ cấu cây trồng phù hợp để
bảo đảm thu nhập cho nông dân.
Trên cơ sở các dự án vùng nguyên liệu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, ngoài vốn
tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước cho vay để trồng mía, Ủy ban nhân dân các tỉnh
thực hiện lồng ghép các chương trình trên địa bàn, tạo thêm nguồn vốn hỗ trợ cho người
trồng mía.
Ta biết,”chương trình 1 triệu tấn đường” trước đây là 1 chương trình kinh tế của
Chính phủ,nó đã tiêu tốn hàng nghìn tỉ đồng vốn đầu tư,cụ thể là khoảng hơn 10.000 tỷ
đồng cho mục tiêu sản xuất được 1 triệu tấn đường/năm.Từ sau khi thực hiện chường
trình mía đường và đạt được kết quả tốt đẹp,tính đến niên vụ 2002/2003,nói chung,hàng
năm,không có thêm nhiều nhà máy đường mọc lên,vốn đầu tư tăng thêm là do chi phí
cho đầu tư mở rộng sản xuất và chi phí cho nâng cấp nhà máy,thiêt bị máy móc,vùng
nguyên liệu phục vụ sản xuất mía.
25