Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG KH&CN ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.52 KB, 10 trang )

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG KH&CN
Cơ chế tài chính cho khoa học và công nghệ (KH&CN) ở nước
ta hiện nay còn bất cập, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động sáng tạo của nhà khoa học. Đây là vấn đề đang có
nhiều tranh luận, thu hút sự quan tâm của cả giới quản lý,
giới khoa học và xã hội. Bài viết dưới đây, tác giả đưa ra một
số quan điểm và định hướng chính nhằm đổi mới cơ chế tài
chính, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động KH&CN.
Ở nước ta hiện nay,
cơ chế tài chính
trong hoạt động
KH&CN đang là
chủ đề của những
cuộc tranh luận
chưa phân thắng
bại giữa các nhà
quản lý và các nhà khoa học. Các nhà quản lý đánh giá đầu
tư cho KH&CN ở nước ta mang lại hiệu quả không cao; còn
các nhà khoa học thì khẳng định rằng, cơ chế quản lý tài
chính hiện nay đang làm lãng phí thời gian, thậm chí làm
phương hại đến lao động sáng tạo của giới khoa học và biến
các nhà khoa học thành những người chỉ lo chạy chứng từ.
Trong các cuộc tranh luận, cả hai bên đều khẳng định, đây là
vấn đề ai cũng thấy, ai cũng biết, nhưng chưa bên nào đưa ra
được lời giải thỏa đáng. Các nhà quản lý cho rằng, cần phải
quản lý chặt đồng vốn do Nhà nước bỏ ra; còn các nhà khoa
học cho rằng, họ cần có hành lang thỏa đáng để quyết định
việc chi tiêu trong hoạt động của mình. Việc thảo luận, bàn
bạc thường theo quan điểm dung hòa để mỗi bên thấy có thể
chấp nhận được. Nhưng sau những kết luận mang tính dung
hòa đó thì việc thực hiện vẫn không được như mong đợi và


cuộc tranh luận lại bắt đầu từ đầu theo vòng luẩn quẩn.
Dưới đây, chúng tôi xin trình bày một số quan điểm liên quan tới
việc đổi mới cơ chế tài chính trong KH&CN.
Đổi mới nhận thức về hoạt động KH&CN
Cần nhận thức đúng về hoạt động KH&CN. Hiện nay, nhiều nhà
quản lý đánh đồng hoạt động KH&CN với hoạt động dịch vụ
công như hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao; hoạt
động dịch vụ như thông tin, du lịch, giao thông vận tải; thậm
chí như hoạt động sản xuất kinh doanh trong công - nông -
thương nghiệp. Cũng có nhiều nhà quản lý khẳng định, hoạt
động KH&CN là hoạt động của một “lực lượng sản xuất”,
nghĩa là phải tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Lại có những
người cho rằng, hoạt động KH&CN như một thứ “trang sức”
làm đẹp cho xã hội. Xuất phát từ các nhận thức khác nhau và
chưa đúng đắn đó là những quan điểm khác nhau về đầu tư
cho KH&CN cũng như đòi hỏi khác nhau về hiệu quả của sự
đầu tư đó.
Theo chúng tôi, hoạt động KH&CN là một hoạt động đặc thù, lấy
sự sáng tạo làm mục đích chủ đạo. Vì thế, phải có cơ chế
quản lý tài chính riêng cho hoạt động KH&CN phù hợp với
đặc thù đó. Ở nhiều quốc gia, người ta đang có xu thế hợp
nhất ba khái niệm: Khoa học (Science), Công nghệ
(Technology) và Đổi mới (Innovation) trong một ngành và
thực hiện quản lý thống nhất thông qua một bộ trong chính
phủ.
Cần có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm về sản phẩm
KH&CN. Do đặc thù của hoạt động KH&CN lấy mục đích sáng
tạo là chính, nên sản phẩm của hoạt động KH&CN gồm có 3
loại: Thứ nhất là các công bố khoa học dưới dạng các bài
báo gốc trình bày các kết quả mới được công bố trên các tạp

chí uy tín có sự phản biện của các chuyên gia trong lĩnh vực
chuyên môn; thứ hai là các bằng phát minh sáng chế được
bảo hộ trong và ngoài nước bởi các cơ quan chuyên nghiệp;
thứ ba là những nghiên cứu ứng dụng, thực chất là việc thử
nghiệm các kết quả có sẵn ở điều kiện cụ thể nào đó, đặc
biệt là điều kiện trong nước.
Khi so sánh hiệu quả hoạt động KH&CN của các quốc gia,
người ta chỉ tính số lượng trung bình các công bố, chỉ số tác
động hay chỉ số trích dẫn của chúng được tính theo số
lượng nhà khoa học làm công tác nghiên cứu. Số lượng các
bằng phát minh sáng chế cũng là chỉ số để so sánh. Ở nước
ta, các nhà quản lý và khoa học đều còn né tránh việc sử
dụng các chỉ số nêu trên, coi nặng loại nghiên cứu ứng
dụng. Những tiêu chí mà chúng ta nêu ra trong khi đánh giá
đề tài không có tính định lượng, không theo thông lệ quốc tế.
Một số tiêu chí đánh giá các nhà khoa học thông qua số
lượng đề tài, bài báo trong quá trình xét phong học hàm thì
còn khá rườm rà, mang nặng tính liệt kê, dễ tạo ra khe hở
cho sự lách luật.
Sự đổi mới về nhận thức sẽ dẫn đến những đổi mới trong
nguyên tắc quản lý và đầu tư cho hoạt động KH&CN. Nguyên
tắc số một là tiến hành đầu tư tập trung. Với một quốc gia
còn nghèo như nước ta, có thể nêu một nguyên tắc chung là
“có nhiều thì làm nhiều có ít thì làm ít”, nhưng phải tập trung,
nhất quyết không chia đều, trải rộng. Sự đầu tư theo nguyên
tắc bình quân chỉ đem lại sự yên ổn mang tính chính trị,
nhưng xét về hiệu quả lại là nguyên nhân gây lãng phí. Quán
triệt được nguyên tắc tập trung, tức là chỗ nào cần thiết, nơi
nào đã làm tốt thì được tập trung đầu tư nhiều, mạnh dạn bỏ
qua chỗ yếu. Điều này cần có sự nhạy bén và quyết đoán của

người làm công tác quản lý và lãnh đạo. Nguyên tắc thứ hai
là đầu tư tới hạn cho hoạt động KH&CN. Sản phẩm khoa học
khó cân đo đong đếm bằng các đại lượng đo lường cụ thể, vì
thế khó xác định mức tới hạn để mà đầâu tư. Không thể đầu
tư cho ngành giao thông làm một nửa hay hai phần ba cây
cầu rồi để đó, nhưng trong nghiên cứu khoa học thì hiện
tượng giảm, rút kinh phí đề tài so với đề xuất là phổ biến,
không cần biết có hoàn thành hay không.
Ngoài ra, cũng cần có sự thông thoáng trong cơ chế quản lý tài
chính cho hoạt động KH&CN, tránh tình trạng máy móc,
cứng nhắc như hiện nay. Có thể dùng một cụm từ “chặt chẽ
theo hạng mục, linh động trong chi tiết”, nghĩa là người thực
hiện có thể điều chỉnh trong phạm vi hạng mục những chi
tiết cụ thể về số lượng, chất lượng theo yêu cầu phát sinh.
Các nước tiên tiến trên thế giới đều quản lý theo nguyên tắc
đó.
Con người là yếu tố số một trong mọi hoạt động xã hội, trong đó
có hoạt động quản lý KH&CN. Muốn đổi mới, trước hết phải
mạnh dạn đổi mới cách tuyển chọn người làm quản lý. Các
quốc gia tiên tiến tạo nguồn nhân lực quản lý bằng cách:
Đào tạo chuyên nghiệp; điều động luân chuyển cán bộ từ các
cơ sở hoạt động KH&CN; thường xuyên bồi dưỡng nâng cao
trình độ tại chỗ. Ở nước ta, việc này làm còn thiếu bài bản,
thiếu tính chuyên nghiệp. Vì thế, nhiều khi cách thức quản lý
bị ảnh hưởng theo cách quản lý của một ngành nghề nào đó,
khiến cho việc thực hiện trở nên bất cập.
Đổi mới nguyên tắc và cơ chế đầu tư tài chính cho KH&CN
Theo khía cạnh tài chính thì hoạt động KH&CN cần có sự phân
định rõ giữa hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động
sáng tạo công nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học trong

mọi thời đại, ở mọi quốc gia đều là hình thức tiêu tiền, dù đó
là nguồn tiền nào - đa phần là nguồn tài chính công hoặc một
phần tài chính do các công ty/hãng bỏ ra để đầu tư cho
nghiên cứu dài hạn. Khó có thể đưa ra ví dụ về việc nghiên
cứu khoa học làm ra tiền. Như vậy, cần có cơ chế đặc thù
cho hoạt động nghiên cứu khoa học và thước đo hiệu quả
của hoạt động này chỉ là số lượng các công trình công bố
trên các tạp chí chuyên ngành. Nguyên tắc cơ bản để hoạch
định chính sách cho hoạt động loại này là “kế hoạch tuân
theo khả năng tài chính”. Vì vậy, cơ chế tài chính chủ yếu là
cơ chế cấp phát và biện pháp quản lý chủ yếu tập trung cho
quản lý việc chi ngân sách. Và nếu đã là cấp phát thì người
dùng tiền phải tuân thủ mọi quy định - dù là ngặt nghèo của
cơ quan quản lý.
Hoạt động sáng tạo công nghệ không những chỉ tạo ra công
nghệ, có khả năng đăng ký phát minh sáng chế, mà còn có
thể mua bán trên thị trường công nghệ và có thể tạo ra
nguồn thu tài chính. Chính sách tài chính đối với loại hoạt
động này cần có sự minh bạch giữa thu và chi. Ngoài ra,
cũng cần có sự rõ ràng trong nguyên tắc phân chia các
khoản thu trong hoạt động chuyển giao, mua bán công nghệ.
Ở các quốc gia tiên tiến thì phần nghiên cứu sáng tạo công
nghệ sẽ được cấp hay ứng vốn, phần đăng ký bảo hộ phát
minh sáng chế thường phải vận động các doanh nghiệp
tham gia góp vốn sau khi ký văn bản thỏa thuận với tác giả,
cơ quan chủ trì. Trong trường hợp công nghệ được thương
mại hóa thì tác giả, cơ quan chủ trì và doanh nghiệp phải
thuân thủ các thỏa thuận trước đây về phân chia quyền lợi
theo pháp luật.
Tuy nhiên, giữa nghiên cứu khoa học và sáng tạo công nghệ có

mối liên hệ “nhân quả” khăng khít với nhau, nhưng trong
quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính thì sự tách bạch giữa
“nhân” và “quả” lại là cần thiết, không thể coi việc nghiên
cứu tìm kiếm loài phong lan mới ở Cúc Phương có cùng một
tính chất và mục đích như hoàn thiện công nghệ chế tạo máy
ảnh kỹ thuật số được, đó là hai việc khác nhau.
Loại hình hoạt động KH&CN thứ ba mang nặng tính ứng dụng là
hình thức vườn ươm doanh nghiệp (Business incubator)
đang được thực hiện ở nhiều quốc gia. Đây là nơi các công
ty khởi nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
hình thành và phát triển. Những cố gắng theo hướng này ở
nước ta cũng đang trong thời kỳ khởi động, không tránh
khỏi những vướng mắc, khó khăn về ý tưởng sản phẩm, vốn
đầu tư và chính sách hỗ trợ. Khi nào thì công ty khởi nghiệp
được hỗ trợ tài chính từ nguồn tài chính công? Đối với lĩnh
vực KH&CN tính ưu việt của sản phẩm hay công nghệ do
công ty khởi nghiệp tạo ra so với sản phẩm đang có sẽ là
tiêu chí quyết định sự cần thiết được hỗ trợ hay không.
Phương thức cấp phát, thanh toán cũng cần có sự đổi mới. Cần
có phân bổ cụ thể, quy định rõ ràng về hạng mục ưu tiên tập
trung đầu tư nghiên cứu cơ bản, nâng cao trình độ; hạng
mục cần tập trung dứt điểm để hoàn thành quy trình, phát
minh sáng chế; hạng mục cần có sản phẩm cụ thể.
Cơ chế, chính sách là công cụ quản lý của Nhà nước, công cụ
tốt và dùng đúng thì sẽ tạo ra những sản phẩm tốt. Hiện nay,
khi nước ta mở cửa hội nhập, việc chọn lựa cách thức làm
đúng phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của đội ngũ cán
bộ quản lý. Tuy nhiên, khi tiến hành chọn lựa, chúng ta còn
thiếu phương pháp khoa học, chưa thực sự khách quan và
thiếu tính chuyên nghiệp, vì thế cơ chế, chính sách thiếu

đồng bộ, thiếu tính khả thi. Khắc phục được những tồn tại
trên thì chúng ta sẽ tìm ra được cách làm đúng và đồng tiền
của nhân dân sẽ được tiêu một cách có hiệu quả (kể cả trong
việc làm thỏa mãn sự tò mò khám phá của những người làm
nghiên cứu khoa học).
7/2008

×