Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận kinh nghiệm phát triển nông thôn của Trung Quốc ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.28 KB, 36 trang )


Tiểu luận kinh nghiệm phát triển nông thôn của Trung Quốc
Mục Lục

Trung Quốc là nước có diện tích rộng lớn với 9.571.300 km2, dân số đạt
1.341.000.000 người cuối năm 2010 và được coi là cái nôi của nền nông nghệp thế
giới. Sau khi thực hiện cải cách thể chế quản lý kinh doanh nông thôn và cải cách
thể chế lưu thông nông sản phẩm, thủ tiêu chế độ mua bán thống nhất, dần dần mở
rộng giá cả nông sản phẩm, nới rộng kinh doanh nông sản phẩm, nông nghiệp
Trung Quốc đã thoát khỏi sự ràng buộc của kinh tế kế hoạch truyền thống, mở rộng
cánh cửa thị trường hàng hoá nông nghiệp. Cải cách nông nghiệp của Trung Quốc
về cơ bản đã giải phóng cho đại bộ phận nông dân, điều động đầy đủ tính tích cực
của người nông dân, sản xuất nông nghiệp không ngừng phát triển đảm bảo được
an toàn lương thực quốc gia, đồng thời mức sống của nông dân được nâng cao rõ
rệt.
Nông nghiệp nông thôn Trung Quốc đã có những bước thay đổi to lớn và đáng
kể trong quá trình phát triển, có được điều này phải kể đến chính sách “Tam nông”
được hình thành trong chiến lược phát triển nông thôn của Trung Quốc. Vấn đề
“Tam nông” được hiểu là vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là tên chung
của hàng loạt vấn đề kinh tế xã hội mà tự nó sinh ra. Chính sách “Tam nông” cần
giải quyết tốt các vấn đề đó là tăng thu nhập cho người dân, tiêu thụ hàng hóa nông
sản, ổn định xã hội nông thôn. Do vậy quan điểm chính sách phát triển nông thôn
được xác định như sau: ủng hộ tích cực với chính sách phát triển nông thôn, khống
chế ổn định giá cả nông sản, thực phẩm, hỗ trợ nông nghiệp, tăng cường đầu tư cho
nông thôn; quan tâm tầng lớp nông dân ra thành thị làm việc, đảm bảo xã hội, giáo
dục để cân bằng đãi ngộ, ổn định cuộc sống; về xã hội xóa chế độ hộ khẩu nông
thôn, tạo điều kiện cho nông dân di cư và sinh sống tại đô thị; đảm bảo công bằng,
an sinh xã hội cho người già yếu, tàn tật ở nông thôn, bảo vệ tầng lớp dễ tổn
thương nhất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập.
Theo Giáo sư Lục Học Nghệ nói: ở Trung Quốc, nông dân bị coi là nhóm
người yếu thế, thể hiện ở việc hiện nay quyền tài sản ở nông thôn vẫn chưa rõ ràng,


nông dân không có quyền bảo vệ ruộng đất khoán, thậm chí nhà ở của mình. Bởi vì
ruộng đất có thể bị trưng dụng bất cứ lúc nào, nhà cửa của chính mình có thể bị di
dời để giải phóng mặt bằng bất cứ lúc nào. Bởi lẽ đất ở thuộc sở hữu tập thể, nông
dân không có quyền thế chấp để vay ngân hàng. Do vậy, phải đặt nông dân là chủ
thể trong “Tam nông” mới có thể đề ra được các quyết sách, tìm ra được các giải
pháp đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Trên quan điểm này, chính phủ Trung quốc đã đầu tư lớn vào nông thôn về xã hội,
y tế, đối tượng người già, người không có sức lao động trong thời gian gần đây.
Quan điểm chỉ đạo phát triển xã hội hài hòa, trên cơ sở giữa nông thôn và đô thị.
Hiện nay, có thể nói ở Trung Quốc chính sách “Tam nông” bước vào giai đoạn
phát triển nhất trong lịch sử, sản xuất lương thực tăng hàng năm, thu nhập của
nông dân tăng, nông thôn phát triển toàn diện, cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông
thôn không ngừng cải thiện, các hạng mục xây dựng nông thôn mới xã hội chủ
nghĩa đã đạt được những bước đột phá quan trọng.
1.chính sách tam nông của Trung Quốc có từ khi nào?
Thực ra một số địa phương đã thực hiện thí điểm chính sách tam nông mới (nông
thôn, nông nghiệp, nông dân – NV) từ năm 1995 nhưng đến năm 1997 thì trung
ương chính thức có văn kiện quy định cụ thể hơn về hệ thống chính sách với vấn
đề tam nông. Tuy chính sách tam nông được cụ thể hóa từ năm 1997 nhưng trên
thực tế vấn đề tam nông đã tồn tại và phát triển từ năm 1949, khi nhà nước Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa ra đời.
Cải cách ở nông thôn diễn ra sôi nổi từ khi thực hiện chính sách khoán hộ. Tuy
nhiên, chính sách này đã bộc lộ nhiều bất cập, “cơ chế khoán” dẫn đến người dân
phải đóng góp quá nhiều. Đến năm 1997, nhiều địa phương có hiện tượng phổ biến
lao động nông nghiệp bỏ đồng ruộng đi ra thành thị. Trung ương đã có những
chính sách mới để góp phần giảm nhẹ đóng góp cho nông dân và ổn định tình hình.
Nông thôn mới xã hội chủ nghĩa” là một khái niệm được Trung ương Đảng cộng
sản và Quốc vụ viện (Chính phủ) Trung Quốc nêu rõ trong “bản tài liệu số 1” được
công bố tháng 3.2006. Đây cũng là nhiệm vụ chính của kế hoạch năm năm 2006 –
2010 của Trung Quốc với phương châm “cho nhiều, lấy ít, nuôi sống

Nhà nước Trung Quốc có những giải pháp cụ thể nào?
Nhà nước Trung Quốc đã đầu tư, hỗ trợ cho tam nông với tổng số tiền hơn 700
triệu NDT. Mặc dù có thay đổi diện mạo, cũng như mức sống nhưng so với đời
sống nông dân Anh, Mỹ thì vẫn còn thấp. Chính phủ đã đề ra chiến lược đến năm
2020, thu nhập của nông dân Trung Quốc sẽ tăng gấp hai lần so với năm 2008
(năm 2008, thu nhập bình quân là 5.000 NDT/người/năm). Ngoài ra, đến năm 2020
sẽ bình đẳng về y tế, giáo dục, dưỡng lão trên phạm vi toàn quốc.
Hiện nay, đối với vấn đề tam nông, nhà nước ít khi dùng chỉ thị mà chuyển sang
thương lượng dân chủ để nông thôn phát triển tuỳ theo khả năng và đặc điểm riêng,
nhà nước chỉ hỗ trợ bằng các dự án. Trong kế hoạch năm năm, có đề ra bảy nhiệm
vụ chính để tăng lợi nhuận cho nông dân và 32 biện pháp có lợi cho nông dân để
phát triển nông nghiệp hiện đại. hơn vào nông nghiệp, ngân sách cho phát triển nô
Có thể điểm qua một số nội dung chính của các giải pháp đó là: nhà nước đầu tư
nhiều ng thôn tăng lên. Sự phân phối thu nhập quốc dân sẽ được điều chỉnh để cho
việc tiêu thụ thuế, đầu tư ngân sách, tài sản cố định và tín dụng sẽ tăng cho nông
nghiệp và nông thôn. Phần lớn trái phiếu, vốn ngân sách sẽ đi về phát triển nông
thôn. Đặc biệt, đầu tư để cải tiến sản xuất và điều kiện sống sẽ trở thành một luồng
ổn định để tăng vốn cho xây dựng. Phí thu từ sử dụng đất sẽ được dùng chủ yếu
vào các dự án phát triển đất nông nghiệp nhỏ và bảo vệ tài nguyên nước. Chính
phủ sẽ ưu tiên xây dựng các cơ sở hạ tầng cấp thiết cho đời sống nông dân. Nếu
giải quyết những vấn đề này triệt để thì chất lượng sống giữa nông thôn và thành
thị không khác nhau là mấy…
Nội dung
Về cơ sở hạ tầng. Thuế vào việc sử dụng đất canh tác sẽ tăng lên và nhiều thứ thuế
mới sẽ được áp dụng trong phát triển nông thôn. Sẽ có các quy định để bảo đảm và
điều tiết thu nhập thuế đất cho việc phát triển đất nông nghiệp. Phí thu từ sử dụng
đất sẽ được dùng chủ yếu vào các dự án phát triển đất nông nghiệp nhỏ và bảo vệ
nước.
Chính phủ sẽ ưu tiên xây dựng các hạ tầng cơ sở cần cấp thiết cho đời sống nông
dân. Chương trình nước sạch sẽ được thực hiện nhanh hơn, trước hết ở các vùng

nước bị ô nhiễm. Năng lượng sạch sẽ được áp dụng rộng rãi. Mạng lưới điện nông
thôn sẽ được nâng cấp. Xây dựng đường nông thôn sẽ được xúc tiến.
Về chính sách. Hệ thống hỗ trợ nông nghiệp và nông dân sẽ được bảo đảm và
củng cố bằng cách tăng hỗ trợ trực tiếp. Hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất lương thực ở
các vùng trồng lương thực sẽ được tăng lên 50 % của quỹ rủi ro lương thực vì đây
là công cụ quan trọng nhất để giữ giá lương thực. Ngoài ra còn hỗ trợ cho việc mua
hạt giống chất lượng cao và máy nông nghiệp. Cần xây dựng một hệ thống hoàn
chỉnh cung cấp vật tư và bảo vệ thị trường để bảo đảm quyền lợi cho nông dân sản
xuất lương thực. Cần có biện pháp để liên tục có thể làm tăng thu nhập của nông
dân vì đây là cơ sở kinh tế của nông thôn mới. Việc chuyển lao động nông thôn
cũng được chú ý. Phải dỡ bỏ các rào cản của việc di cư của lao động nông nghiệp
đến thị trường lao đông đô thị. Dần dần xây dựng bảo hiểm xã hội cho lao động di
cư. Bảo hiểm lao động phải bao gồm cả lao động di cư. Phải nghiên cứu bảo hiểm
xã hôi cho lao động di cư.
Về giáo dục nông thôn. Chính phủ sẽ cố gắng để áp dụng giáo dục bắt buộc 9 năm
cho học sinh nông thôn và giảm dần gánh nặng giáo dục. Học sinh ở miền tây được
miễn học phí. Từ năm 2006. Con em các gia đình nghèo sẽ được phát sách giao
khoa miễn phí và được phụ cấp ăn ở. Từ 2008 sẽ mở rộng ra cho tất cả các vùng
nông thôn. Nhà nước sẽ đầu tư nâng cấp các trường nông thôn. Nông dân phải
được đào tạo để nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý kinh tế. Phải tiếp tục đào tạo
nông dân ở nông thôn và cả nông dân di cư ra đô thị. Một cơ chế đào tạo hướng
thị trường sẽ được xây dựng.
Về bảo hiểm xã hội . Chính phủ sẽ xây dung hợp tác xã chăm sóc y tế với sự hỗ
trợ của ngân sách và sẽ mở rộng năm 2008. Nhà nước sẽ đầu tư nâng cấp cơ sử hạ
tầng y tế ở nông thôn. Bảo hiểm xã hội ở nông thôn sẽ được phát triển dần.
Chương trình kế hoạch hoá gia đình sẽ được phát triển. Sẽ tăng trợ cấp khó khăn
cho nông thôn.
Về cải cách tài chính. Khoảng 10 biện pháp cải cách tài chính được nêu ra. Phải
xây dựng các thể chế tài chính cộng đồng, có kiểm soát bhặt chẽ. Các tổ chức tài
chính phải dành một tỷ lệ vốn mới cho kinh tế nông thôn. Sẽ thí nghiệm bảo hiểm

nông thôn. Phải mở rộng tín dụng có thế chấp cho hộ nông dân và doanh nghiệp.
Về chức năng chính phủ. Chính quyền cấp xã sẽ được phát triển để tạo điều kiện
cho việc đầu tư, sản xuất. Cải tiến chế độ thuế ở nông thôn. Đặt tài chính của các
huyện dưới sự kiểm soát của chính quyền huyện.
Về môi trường. Cần chú ý hơn vào quy hoạch làng và khu dân cư. Hiện nay có
nhu cầu phải quy hoạch lại nông thôn để xây dựng một xã hội khá giả. Phải bảo vệ
đất xây dựng ở nông thôn. Nhà nước sẽ giúp nông dân miễn phí trong việc bố trí
lại nhà cửa.
Bảo đảm quyền lợi cho nông dân ra đô thị làm thuê. Hiện nay ở nông thôn TQ
có 320 triệu lao động nông nghiệp, trồng trọt cần 150 tiệu, các ngành nông nghiệp
khác cần 20 triệu, còn thừa 150 triệu. Tiền do lao động làm thuê ở đô thị rất quan
trọng đối với thu nhập ở nông thôn. Chính phủ đã giao cho các bộ giải quyết các
vấn đề hợp đồng lao động, mức lương, môi trường lao động, giáo dục của con em
họ, bảo hiẻm y tế cho lao động ra đô thị.
Để thực hiện nhiệm vụ này, phải chú ý đến cả tình hình hiện tại lẫn lợi ích lâu dài,
đặt kế hoạch toàn bộ một cách khoa học, củng cố lãnh đạo và thực hiện. Nhấn
mạnh hiện nay và trong tương lai gần sự giải phóng và phát triển năng suất, nắm
vững các nhân tố chìa khoá hạn chế phát triển nông nghiệp và nông thôn và dùng
các biện pháp để củng cố hạ tầng cơ sở nông thôn, tăng nhanh tiến bộ khoa học và
kỹ thuật, thay đổi phương thức tăng trưởng nông nghiệp và cải tiến khả năng sản
xuất hạt lương thực và đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hiện đại. Phải nhấn mạnh
nhiệm vụ trung tâm là tăng thu nhập nông dân, phát triển tăng trưởng nông nghiệp
đến tiềm năng cao nhất, mở nhiều các luồng để chuyển lao động dư thừa ở nông
thôn và tạo thành một cơ chế lâu dài. Phải đẩy mạnh dân chủ cơ sở và việc tự quản
trong làng. Chúng ta phải hoàn thành hệ thống kế toán mở, phổ biến luật giáo dục
và bảo đảm cho quần chúng nâng cao quyền làm chủ đất nước. Chúng ta phải phát
triển văn hoá và đạo đức XHCN, thúc đẩy việc phát triển giáo dục, khoa học, văn
hoá và y tế ở nông thôn, ủng hộ cách sống lành mạnh và văn minh và gây dựng
kiểu nông dân mới. Phải tăng cường quản lý xã hội và dịch vụ công cọng ở nông
thôn, đặc biệt giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của nông dân, cải tiến

sản xuất và điều kiện sống và giải quyết các khó khăn để xây dung. Phải nhấn
mạnh nền kinh tế thị trường XHCN, ổn định và hoàn thành hệ thống các hoạt động
cơ bản và thúc đẩy các cải cách ở nông thôn bằng cách tôn trọng các sự sáng tạo
của nông dân để cải tiến sức sống của phát triển nông nghiệp và nông thôn. Phải
thử sử dụng nhiệt tình và tính cần cù của nông dân, sự hỗ trợ của nhà nước và sự
tham gia của các lực lượng xã hội để cải tiến bộ mặt của nông thôn. Phải sử dụng
chức năng lãnh đạo của tổ chức Đảng cơ sở để cung cấp sự bảo đảm về chính trị
cho việc xây dung nông thôn XHCN mới.
Đảng và chính phủ TQ đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng là muốn giải quyết một
cách cơ bản vần đề Tam nông phải thay đổi quan niệm trị lý (governance) và chiến
lược quốc gia để phối hợp sự phát triển kinh tế và xã hội. Việc cải cách thuế và
một số chính sách chỉ là những biện pháp tình thế không có tác dụng lâu dài. Động
cơ đàng sau phát triển nông nghiệp và việc kích thích sáng kiến của nông dân phải
xuất phát từ cải cách và tăng thu nhập của nông dân phải là kết quả của cải cách.
Nông nghiệp và phát triển nông thôn TQ đang ở trong một thời kỳ khó khăn và sản
xuất lương thực và thu nhập của nông dân chưa có một cơ sở vững chắc. Mặc dù
cải cách đã đạt được những thành tích to lớn nhưng những rào cản về thể chế cản
trở việc phát triển nông nghiệp và nông thôn chưa được dỡ bỏ. Để củng cố và giữ
vững tình hình tốt ở nông thôn phải đẩy sâu cải cách và phát huy nhiều sáng kiến
trong thực tế và cơ chế.
Việc cải cách thuế nông thôn
TQ bắt đầu thực hiện cải cách thuế nông thôn từ năm 2000. Từ nhiều loại thuế và
phí đã quy định ở nông thôn chỉ còn ba loại thuế và phí: thuế nông nghiệp, phí
hành chính và phí thực hiện các công việc chung. Tiếp theo năm 2004 đã có một
quyết định thực hiện việc giảm thuế nông nghiệp và thí điểm bỏ thuế nông nghiệp
ở các vùng sản xuất lương thực chủ yếu. (vùng Đông bắc và 10 tỉnh khác). Việc
thiếu hụt ngân sách địa phương do việc giảm bỏ thuế được trung ương bù. Kết
quả là cuối năm 1994, 22 tỉnh gỡ loại bỏ thuế nông nghiệp cho 150 triệu nông dân
và ở các vùng khác đã giảm thuế ở các mức khác nhau; 26,8 ngàn tỷ nguyên
được giảm cho nông dân và 3,3 ngàn tỷ được giảm từ các nông sản đặc biệt trừ

thuốc lá, tổng cộng đã vượt 30 ngàn tỷ. Cải cách thuế đã giảm bình quân 30 %
gánh nặng cho nông dân.
Các cải cách phụ kèm theo cải cách thuế.
Cải cách từng bước chính quyền cấp thị và xã .Các thị và xã cần phải được xác
định lại tuỳ theo quy mô và phát triển kinh tế. Tổ chức của chính quyền cần được
quy định lại để giảm biên chế và chi tiêu. Mục đích của cải cách cấp cơ sở còn là
tăng cường việc cung cấp dịch vụ công cho nhân dân.
Trong quá trình cải cách đã có nhiều lần thay đổi tổ chức bộ máy chính quyền cơ
sở, xu hướng chung là biên chế ngày càng tăng. Năm 2002 số công chức ở cấp
huyện và thị là 19,07 triệu, chiếm 64,5 % của cả nước ( 57,9 % ở cấp huyện và 6,6
% ở cấp thị).
Ngay từ khi bắt đầu triển khai thực hiện chính sách tam nông , nông thôn Trung
Quốc đã và đang có sự đổi mới sâu sắc và biến đổi mới mẻ. Tính đến 14-3-2006,
chính sách cải cách nông thôn đã được Quốc hội thông qua, theo đó tăng 14,2% chi
tiêu để tăng cường phát triển khu vực nông thôn. Điều này có nghĩa chính phủ đã
chi 42 tỉ USD để xây dựng các vùng "nông thôn xã hội chủ nghĩa" và cải thiện tình
cảnh nghèo khổ của 745 triệu nông dân ở các miền quê. Kể từ tháng 1/2007, Chính
phủ Trung Quốc bắt đầu tiến hành một loạt biện pháp nhằm triển khai công cuộc
xây dựng nông thôn XHCN mới. Trong đó nông dân là chủ đề then chốt của "Tam
nông". Chỉ riêng đối với chính sách này ngân sách Trung ương dành hỗ trợ các dự
án “Tam nông ” không ngừng tăng, năm nay đạt 3917 tỷ NDT (tương đương 861.7
nghìn tỷ đồng). Cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn (NNNT) không ngừng cải
thiện, các hạng mục xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa đã đạt được những
bước đột phá quan trọng.
Theo thống kê, từ tháng 1/2007, Trung Quốc đã bắt đầu tiến hành một loạt biện
pháp nhằm triển khai công cuộc xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa nhằm
nhanh chóng cải thiện môi trường sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn, cũng như
thay đổi phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu truyền thống bằng phương thức
sản xuất hiện đại và hiệu quả cao. Chính phủ Trung Quốc đã và đang khuyến
khích nông dân và chính quyền địa phương đầu tư vào nông nghiệp. Đồng thời có

các chính sách ưu đãi cho đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, cải tiến
hiệu quả vốn nước ngoài trong nông nghiệp, tăng cường tái sử dụng tài nguyên,
quy định việc khai thác các nguồn tài nguyên chưa tái chế, giảm thiểu thất thoát
trong sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh chương trình giảm nghèo. Ngoài ra, còn
tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn, đầu tư các khoản cho vay tín
dụng vào sản xuất nông nghiệp . Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào cho
rằng: “để triển khai chính sách phát triển nông thôn phải nắm chắc sản xuất nông
nghiệp bởi vấn đề lương thực liên quan tới quốc kế dân sinh, liên quan tới phát
triển kinh tế, cũng như ổn định xã hội”. Do đó, các cấp, các ngành cần phải thực
hiện tốt những chủ trương, chính sách của Trung ương nhằm khuyến khích người
nông dân phát triển sản xuất lương thực. Bên cạnh đó cũng cần phổ biến những
giống lúa mới, cây trồng tốt, canh tác tiên tiến tới từng người dân. Tiếp đến là ban
hành các biện pháp kiểm soát giá cả đầu vào, đặc biệt là phân bón, buộc chính
quyền địa phương phải chịu trách nhiệm về việc thỏa mãn yêu cầu đầu vào của
nông nghiệp và duy trì giá đầu vào ổn định. Sau đó là đưa khoa học công nghệ vào
nông nghiệp, xây dựng và phát triển mạnh các học viện nghiên cứu về nông
nghiệp. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào khẳng định, không thể buông
lỏng việc đẩy mạnh phát triển nông thôn, phải kiên định con đường hiện đại hoá
nông nghiệp mang đặc sắc Trung Quốc.
Những thành tựu của Trung Quốc trong lĩnh vực "Tam nông" vừa được Liên hợp
quốc đánh giá cao - công tác xoá đói, giảm nghèo của Trung Quốc đã góp phần
cho việc thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ mà Liên hợp quốc đã đề ra. Liên hợp
quốc cho rằng, nếu không có sự đóng góp tích cực của Trung Quốc thì thế giới sẽ
không thể thực hiện được mục tiêu xoá đói, giảm nghèo bởi đây là vấn đề quan
trọng nhất trong mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Cũng trong chuyến công tác tại
Hà Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã tới thăm một trường chuyên
dạy các em câm điếc ở thành phố Trịnh Châu. Ông còn dự một tiết lên lớp của
những học sinh đặc biệt này để tìm hiểu thực tế công việc của các thầy cô, cũng
như các cháu học sinh. Tình hình học tập cũng như đời sống của các cháu học sinh
vùng nông thôn ở Hà Nam được ông Hồ Cẩm Đào đặc biệt quan tâm trong chuyến

công tác lần này. Giới chuyên môn cho rằng, trong quá trình thực hiện chính sách
phát triển nông thôn, việc áp dụng chính sách miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ
lớp 1 đến lớp 9 trên phạm vi cả nước từ năm học 2008 cũng được coi là một trong
những biện pháp giúp người nông dân thoát nghèo, đổi mới cuộc sống. Với chính
sách này, học sinh từ lớp 1 đến lớp 9 được miễn tất cả các khoản đóng góp, chi phí
như học phí, nội trú, điện, nước, đồng phục Số học sinh là con em gia đình lao
động nhập cư có thu nhập thấp được cấp sách giáo khoa miễn phí, học sinh, sinh
viên có hoàn cảnh khó khăn khi ở nội trú được hưởng chính sách trợ cấp sinh hoạt
phí hàng tháng. Ngoài ra chính sách được sinh viên Trung Quốc xuất thân từ nông
thôn quan tâm nhất hiện nay là giúp những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn chi trả
khoản vay khi còn theo học đại học nếu họ nhận công tác tại những vùng sâu, vùng
xa và kém phát triển. Đây được coi là chính sách vừa khuyến khích, động viên,
giúp đỡ những sinh viên nghèo, vừa tạo công ăn việc làm cho số sinh viên ra
trường. Những chính sách này không chỉ tạo điều kiện cho tang cường công tác
đào tạo mà còn có tác dụng xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn.
Theo chủ trương của chính sách, không chỉ tập trung vào xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn mà còn cần chú ý vào nhiều vấn đề khác trong kinh tế nông thôn và
nông dân nông thôn như : cơ chế việc làm, điều tiết lao động nông nhàn, đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất, phát triển đô thị nông thôn, cải cách chế độ hộ tịch, phát
triển văn hóa giáo dục ở nông thôn, không ngừng nâng cao trình độ cho nông dân.
Ngoài ra, còn đẩy nhanh đổi mới nông thôn, rút ngắn khoảng cách về giáo dục, y tế
và an sinh xã hội giữa nông thôn và thành thị. Có chính sách phù hợp nhằm thu hút
trí thức trẻ về nông thôn, đồng thời chuyển dịch cơ cấu lao động một cách hài hòa.
Sức khỏe của người nông dân cũng được chú trọng thông qua chương trình “hợp
tác khám chữa bệnh”. Mô hình này chủ yếu áp dụng cho những người nông dân ở
nông thôn, điều kiện cuộc sống khó khăn và cũng đã đem lại hiệu quả rõ rệt ngay
trong những ngày đầu thực hiện chính sách. Tính đến cuối tháng 6 /2007, toàn
quốc có 720 triệu nông dân tham gia mô hình nông thôn hợp tác khám chữa bệnh,
tình trạng nông dân “khám bệnh khó khăn, thuốc chữa bệnh đắt” dần được giải
quyết.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào từng nhấn mạnh, việc điều tiết vĩ mô,
nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân - "Tam nông" có một ý
nghĩa vô cùng trọng đại đối với công cuộc cải cách mở cửa, hướng ra thế giới của
Trung Quốc. Với diện tích rộng 9,6 triệu km
2
, chiếm gần 25% diện tích châu Á và
gần 1/14 diện tích thế giới, cùng hơn 1,3 tỷ dân, do đó sự thành bại của vấn đề
"Tam nông", quốc gia có tỷ lệ nông dân lớn nhất thế giới (gần 800 triệu người)
luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Chính phủ.
Một số chính sách đã được triển khai và mang lại kết quả đáng kể:
- Xoá bỏ thuế nông nghiệp, chấm dứt lịch sử người nông dân làm ruộng mà phải
nộp thuế. Sản lượng lương thực tăng liên tục trong 4 năm liền, đến năm 2007 đạt
trên 500 triệu tấn. Với việc xoá bỏ thuế nông nghiệp, gồm cả thuế chăn nuôi, thuế
đặc sản, mỗi năm đã giảm nhẹ gánh nặng đóng góp cho nông dân 133,5 tỷ nhân
dân tệ (NDT).
- Toàn diện thực hiện giáo dục nghĩa vụ (9 năm) miễn phí: Không phải nộp học
phí, không phải mua sách giáo khoa. 150 triệu học sinh của những gia đình khó
khăn được trợ cấp sinh hoạt phí toàn phần hoặc một phần. Cơ bản giải quyết được
nạn tráng niên bị mù chữ tại miền Tây.
- Thành lập được bước đầu hệ thống y tế công và hệ thống dịch vụ khám chữa
bệnh cơ bản khắp nông thôn. Cải tạo và xây dựng mới 188.000 trạm y tế hương,
trấn, trang bị thêm thiết bị y tế cho 117.000 trạm y tế hương, trấn… Điều kiện
khám chữa bệnh ở nông thôn được cải thiện rõ rệt. Chế độ hợp tác chữa bệnh kiểu
mới ở nông thôn được xác lập, đã mở rộng tới 87% huyện với 730 triệu nông dân
tham gia.
- Hệ thống dịch vụ văn hoá công nông thôn bước đầu hoàn thiện.
- Hỗ trợ việc học nghề cho các tầng lớp thu nhập thấp trong toàn xã hội 66,6 tỷ
NDT trong 5 năm tài chính của chính quyền trung ương, trong đó, phần đáng kể
dành cho nông dân. Trung bình mỗi năm giúp 8 triệu lao động nông thôn có việc
làm.

- Thành lập chế độ bảo đảm mức sinh hoạt thấp nhất ở nông thôn từ năm 2007.
Hơn 35,5 triệu nông dân được đưa vào phạm vi bảo hiểm này.
- Cấp cho “tam nông” 1.600 tỷ NDT trong 5 năm tài chính của chính quyền trung
ương, trong đó dùng cho xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn là gần 300 tỷ NDT.
Xây mới và cải tạo 1,3 triệu km đường nông thôn, giải quyết cho 97,48 triệu cư
dân nông thôn gặp khó khăn trong việc cung cấp nước uống và nước uống không
an toàn. Tuy vậy, năm 2008 vẫn còn phải giải quyết vấn đề nước uống an toàn cho
32 triệu nông dân. Cải tạo hơn 22.000 trường tiểu học và trung học nông thôn
không an toàn. Từ những chính sách đó, tam nông Trung Quốc đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể.
Thành tựu “tam nông” ở Trung Quốc
Ở Trung Quốc, chính sách “Tam nông” bước vào giai đoạn phát triển nhất trong
lịch sử, sản xuất lương thực tăng hàng năm, thu nhập của nông dân tăng, nông thôn
phát triển toàn diện. Ngân sách Trung ương dành hỗ trợ các dự án “Tam nông”
không ngừng tăng, năm nay đạt 3917 tỷ NDT. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông
thôn (NNNT) không ngừng cải thiện, các hạng mục xây dựng nông thôn mới xã
hội chủ nghĩa đã đạt được những bước đột phá quan trọng.
Sáu tháng đầu năm nay, thu nhập bình quân của nông dân đạt 2.111 NDT (tương
đương 4,640.000 VNĐ) tăng 13.3% so với cùng kỳ năm ngoái, tăng nhanh nhất
trong những năm từ 1995 đến nay. Ba năm liên tiếp mức tăng trưởng thu nhập của
nông dân đạt trên 6%. So với cùng thời kỳ, kết cấu sản xuất nông nghiệp không
ngừng tối ưu hoá các cây có hiệu quả kinh tế cao như bông, đường, dầu, hoa quả
phát triển ổn định, tốc độ phát triển ngành chăn nuôi, ngư nghiệp tăng rõ rệt.
Thực tế ngân sách Trung ương dành hỗ trợ các dự án “Tam nông” không ngừng
tăng, năm nay đạt 3917 tỷ NDT. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn không
ngừng cải thiện, các hạng mục xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa đã đạt
được các bước đột phá như:
- Sản nghiệp hoá nông nghiệp đạt được những bước tiến mới, bùng nổ phát triển
tổ chức hợp tác nông dân chuyên sâu, thúc đẩy phát triển theo cách “nhất thôn nhất
phẩm” (mỗi thôn một sản phẩm). Đến cuối năm 2006, toàn quốc có khoảng

154.842 doanh nghiệp kinh doanh nông sản, kéo theo sự phát triển của 90.980.000
hộ sản xuất. Các tổ chức sản nghiệp hoá kéo theo sự phát triển của 1300.000.000
mẫu diện tích trồng cây các loại, 95.700.000 mẫu chăn nuôi thuỷ hải sản và chăn
nuôi 14.600.000.000 vật nuôi. Cả nước có 150.000 tổ chức hợp tác kinh tế nông
nghiệp chuyên nghiệp.
- An toàn chất lượng nông sản không ngừng được nâng cao. Tư tưởng tiêu chuẩn
hoá ngành nông nghiệp hiện đại đã đi vào tiềm thức của người dân lao động. Trước
mắt đã xây dựng được 4139 khu nông nghiệp tiêu chuẩn hoá cấp tỉnh và quốc gia,
từ các khu mẫu mở rộng diện tích đạt trên 500.000.000 mẫu, cố gắng tăng tính ổn
định có hiệu quả chiếm hữu thị trường thương hiệu sản phẩm.
- Môi trường nông dân vào thành phố kiếm việc không ngừng được cải thiện, thu
nhập của lực lượng lao động nông thôn khi ra ngoài làm tiếp tục tăng. Năm 2006,
bình quân thu nhập mỗi tháng của người lao động nông thôn ra thành phố kiếm
việc là 958 nhân dân tệ (2.100.000 đồng), tăng 103 NDT (230.000 đồng), tăng
trưởng 121% so với năm ngoái.
- Cho đến cuối tháng 6 năm 2009, toàn quốc có 720 triệu nông dân tham gia mô
hình nông thôn hợp tác khám chữa bệnh, tình trạng nông dân “khám bệnh khó
khăn, thuốc chữa bệnh đắt” dần được giải quyết; chế độ bảo đảm mức sống thấp
nhất của nông thôn thôn đã được làm cho 20.680 ngàn người; nghĩa vụ giáo dục
“lưỡng miễn nhất bổ” (chính sách của Chính phủ Trung Quốc đối với các học sinh
gia đình kinh tế khó khăn cung cấp miễn phí sách vở, miễn các khoản tạp phí, trợ
cấp tiền sinh hoạt phí cho các sinh viên ở nội trú), năm nay chính phủ đã chung sức
gánh vác trách nhiệm cho 1.500 triệu gia đình có con đang học tiểu học, trung học.
Giải quyết được vấn đề lương thực cho 1,3 tỉ dân của mình bao giờ cũng là một
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của lãnh đạo nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
30 năm thực hiện đường lối cải cách và mở cửa trên mặt trận nông nghiệp, Trung
Quốc đã tăng nhanh sản lượng lương thực, từ 305 triệu tấn năm 1978 lên 502 triệu
tấn năm 2007; bình quân đầu người từ 318,7kg lên 381kg, thịt từ 9,1kg lên 52kg,
thủy sản từ 5,5kg lên 36kg. Trung Quốc chiếm 9% đất canh tác mà nuôi sống gần
21% số dân thế giới là thành tích vĩ đại. Trong thời gian ấy, thu nhập ròng bình

quân đầu người nông dân từ 134 NDT lên 4.140 NDT; tỷ lệ người nghèo ở nông
thôn giảm từ 250 triệu năm 1978 xuống còn 14,79 triệu người năm 2007.
Phải khẳng định, sau khi thấy được vấn đề, Đảng Cộng sản và Chính phủ Trung
Quốc đã có những chính sách và biện pháp tích cực để giải quyết và Trung Quốc
đã thu được một số kết quả bước đầu rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, khó khăn,
phức tạp vẫn còn không ít. Xin nêu mấy ví dụ: Chủ yếu là phải giải quyết vấn đề
ngành nghề hoá nông nghiệp, trong đó, hoạt động của dây chuyền “sản xuất - cung
cấp - tiêu thụ” chiếm vai trò rất quan trọng. Hơn nữa, hiện nay, nông nghiệp Trung
Quốc vẫn ở trong tình trạng tự cung tự túc, chưa hình thành kinh tế qui mô. Đột
xuất là cải cách chế độ hộ tịch trong vấn đề nông thôn (chế độ hiện hành đã gây ra
sự chênh lệch tương đối lớn trong phát triển kinh tế và trình độ văn hóa giữa thành
thị và nông thôn). Nhưng sau khi cuộc cải cách giải phóng được sức lao động thừa
đến từ nông thôn thì việc sắp xếp hướng dẫn hợp lý lại là vấn đề nan giải. Trong
vấn đề nông dân có hai điều: tố chất và giảm nhẹ đóng góp. Tố chất văn hoá còn
thấp. Một số địa phương cá biệt vẫn chưa nghiêm túc giảm nhẹ đóng góp cho nông
dân, việc khám, chữa bệnh còn gặp khó khăn. Phần lớn nông dân vào thành phố
làm thuê không biết cuối đời giải quyết hậu sự như thế nào.
1. Các kinh nghiệm phát triển nông thôn của Trung Quốc
1.1.Xây dựng chính sách phát triển nông thôn mới ở Trung quốc
- Lý luận quan điểm thi hành và chính sách “Tam nông” của ĐCS Trung Quốc
sau khi đi vào thế kỷ mới:
Hội nghị toàn thể lần thứ 3 khoá 17 của TW ĐCS Trung Quốc (2008): “đi sâu
quán triệt thực hiện phát triển quan điểm khoa học, coi việc xây dựng nông thôn
mới XHCN là nhiệm vụ chiến lược, đem con đường hiện đại hoá nông nghiệp đặc
sắc của Trung Quốc thành phương hướng cơ bản, đem cơ cấu mới - nhất thể hoá
của việc hình thành kinh tế xã hội nông thôn thành thị là yêu cầu cơ bản. Duy trì
công nghiệp nuôi dưỡng nông nghiệp, thành thị ủng hộ nông thôn, theo phương
châm cho nhiều lấy ít, cơ chế và thể chế sáng tạo mới, tăng cường cơ sở nông
nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân, bảo đảm quyền lợi và lợi ích của nông dân,
thúc đẩy nông thôn hài hoà, huy động đầy đủ tính tích cực của đông đảo nông dân,

tính chủ động, tính sáng tạo, đẩy kinh tế xã hội nông thôn phát triển vừa nhanh vừa
tốt”
- Đề xuất “Xây dựng nông thôn mới XHCN”:
 “ Xây dựng nông thôn mới” không phải là đề xuất mới, nhưng trước
đây vào những năm 50, 60 của thế kỷ trước thì chỉ là biểu hiện chung
 “Xây dựng nông thôn mới” bây giờ có bối cảnh mới hoàn toàn:
- Trung Quốc đang ở vào giai đoạn quá độ từ “Khá giả tổng thể” đi lên “khá giả
toàn diện” mấu chốt để giải quyết được xã hội khá giả toàn diện là giải quyết vấn
đề “Tam nông”
- Tình hình thay đổi của Trung Quốc rất lớn, nhất là thực hiện tổng hợp quốc
gia và nguồn lực tài chính của chính phủ được tăng cường. Trên tổng thể Trung
Quốc đã đi vào giai đoạn phát triển lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp, thành
thị kéo nông thôn, có khả năng điều chỉnh cơ cấu thu nhập và phân phối quốc dân,
giải quyết tốt vấn đề ‘Tam nông”.
 Vấn đề Tam nông của Trung Quốc sau thời kỳ giữa của năm 90 thế kỷ 20
 Vấn đề “Tam nông”: tức là vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông
dân là tên chung của hàng loạt vấn đề kinh tế xã hội mà tự nó sinh ra.
 Vấn đề “nông nghiệp”: trình độ sản nghiệp hoá nông nghiệp thấp, vị
trí cơ sở của nông nghiệp vẫn không ổn định.
 Vấn đề “nông thôn”: bộ mặt nông thôn nghèo nàn lạc hậu, kinh tế
không phát triển, thiết bị cơ sở lạc hậu, mức độ phục vụ (dịch vụ công
cộng) thấp.
 Vấn đề “nông dân”: là vấn đề cốt lõi trong vấn đề tam nông biểu hiện
là thu nhập của nông dân thấp, tăng thu khó, khoảng cách giàu nghèo
giữa nông thôn và thành thị rất lớn. Thực chất biểu hiện là quyền lợi của
nông dân không được bảo đảm.
1.2. Các chính sách tam nông trong phát triển nông thôn Trung quốc
trong thời gian gần đây
Chính sách tam nông:
 Tăng thu nhập nguời dân;

 Tiêu thụ hành hóa nông sản;
 Ổn định xã hội nông thôn.
Do vậy quan điểm chính sách phát triển nông thôn được xác định như sau.
- Ủng hộ tích cực với chính sách phát triển nông thôn, khống chế ổn định giá cả
nông sản, thực phẩm, hỗ trợ nông nghiệp. Quan điểm công nghiệp và đô thị hỗ
trợ phát triển nông thôn. Tăng cường đầu tư cho nông thôn.
- Quan tâm tầng lớp nông dân ra thành thị làm việc (công nhân, nông dân).
Đảm bảo xã hội, giáo dục để cân bằng đãi ngộ, ổn định cuộc sống.
- Vấn đề xã hội: Xóa chế độ hộ khẩu nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân di
cư và sinh sống tại đô thị.
- Đảm bảo công bằng, an sinh xã hội cho người già yếu, tàn tật ở nông thôn.
Bảo vệ tầng lớp dễ tổn thương nhất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa
và hội nhập. Trên quan điểm này, chính phủ Trung quốc đã đầu tư lớn vào
nông thôn về xã hội, y tế, đối tượng người giả, người không có sức lao động
trong thời gian gần đây. Quan điểm chỉ đạo phát triển xã hội hài hòa, trên cơ sở
giữa nông thôn và đô thị.
a) Chính sách đất đai
Chính sách đất đai và đô thị hóa: Nhiều địa phương đã bán đất cho doanh
nghiệp để lấy tiền, chính sách đất đai dễ dãi để thu hút đầu tư. Nhà nước mua rẻ
đất đai của người dân sau đó cho doanh nghiệp thuê và bán với giá cao. Nhưng
nhiều nơi, xác định giá không minh bạch, lợi tức này lại rơi vào doanh nghiệp
chứ không phải nhà nước và cả nông dân.
Để lập lại trật tự cho vấn đề này, Chính phủ Trung quốc đưa ra các biện
pháp:
- Vạch ra đường đỏ về đất đai đến năm 2020: Chính chủ xác định 180 triệu
mẫu (15 mẫu=01 ha) cố định không thay đổi. Đưa ra luật bảo hộ đất đai canh
tác cơ bản. Khi đã là đất canh tác cơ bản, không được chuyển đổi mục đích sử
dụng. Hiện nay, các dự án đầu tư phải được thống nhất với người dân rồi mới
triển khai dự án. Phải có chữ kí của người dân thì mới được triển khai.
Nhà nước phân loại đất làm hai loại để quản lí:

- Đất công ích: đất dùng làm các công trình phúc lợi sẽ do nhà nước định
giá;
- Đất thương mại: Giá đất sẽ tùy thuộc vào giá thị trường, sẽ do người
dân và doanh nghiệp đàm phán. Nhà nước sẽ không tham gia vào việc định giá
này.
Về mặt chính sách qui định, nếu người dân không đồng ý chính quyền địa
phương sẽ là trung gian đàm phàn. Trên thực tế chính quyền thường đứng về
phía nhà đầu tư, nhiều địa phương đã cưỡng chế. Điều này đã tạo ra bức xúc
của người dân, nhiều biểu tình ở Trung khánh đòi bối thường, xử lí cán bộ xâm
phạm quyền lợi của người dân. Trên nguyên tắc, nếu là đất công ích, nhà nước
có quyền cưỡng chế. Nhưng đất thương mại thì người dân có quyền không đồng
ý, song do quyền sở hữu đất lại thuộc Ủy ban thôn. Chính vì điều này đã làm
quyền người dân không đảm bảo, vì chỉ có Ủy ban thôn mới có quyền đàm
phán với nhà đầu tư. Ủy ban thôn lại chịu nhiều áp lực, các nhà nghiên cứu
Trung quốc cho rằng chính sách đất đai tại nhiều địa phương với nông dân
mang tính chất vừa dỗ vừa lừa. Trung quốc đã đưa ra Luật trái quyền: địa
phương có thể lấy lại đất, đền bù. Nhưng để đảm bảo quyền của người dân: nhà
nước đưa ra luật vật quyền: người dân không đồng ý, thì không được lấy đất
của họ.
- Cải cách sở hữu: Hiện nay ở Trung quốc sở hữu đất đai là nhà nước, tại
nông thôn, quyền sở hữu rất khác nhau. Tại cấp thôn, UBND thôn, là đại diện
quyền sở hữu của người dân trong thôn. Quyền sử dụng đất của người dân,
được xác định mang tính chất rất ổn định, gần như quyền tư hữu. Đất sử dụng
30 năm, có thể kéo dài 70 năm. Người dân có quyền chuyền quyền sử dụng đất
cho người khác, Ủy ban thôn chứng thực cho giao dịch này.
Người dân mong muốn chính sách đất đai vĩnh cửu, vĩnh viễn. Mặc dù vậy
do mâu thuẫn giữa tư hữu hóa và nghèo đói, bảo vệ tài nguyên. Quá trình sử
dụng đất đai chưa thực sự ổn định, đang phát triển, do vậy trong thời gian tới
Trung quốc sẽ chưa thay đổi quan điểm quản lí đất đai. Dựa trên quan điểm:
 Tăng người nhưng không tăng đất;

 Giảm người nhưng không giảm đất.
Hiện nay tại Trung quốc cũng đang tranh luận có chia lại đất hay không,
hay cứ để như vậy. Một số nơi có thử nghiệm: 80 % đất chia lại, 20 % để lại
làm đất tập thể. Thời gian sử dụng đất: Đồng bằng 50 năm, Miền núi 70 năm.
Một số mô hình thử nghiệm chính sách tại Trung quốc
- Kinh nghiệm thành phố Nam hải, thành phố Phật sơn tỉnh Quảng đông: Thành
phố Nam hải, là vùng có sản nghiệp phát triển, mạnh về nông nghiệp và phi nông
nghiệp. Nông dân sống không dựa vào nông nghiệp để phát triển kinh tế.
Chính sách thử nghiệm tập trung vào:
+ Cổ phần hóa đất đai, khoán, thầu: Lượng hóa diện tích đất đai mà nông
dân nhận khoán để tính ra các cổ phần để góp vào các họat động kinh tế;
+ Nông dân trở thành cổ đông và được chia lợi nhuận;
+ Đất đai này được đưa ra cho đấu thầu với doanh nghiệp địa phương và bên
ngoài;
+Thu nhập của nông dân trên cơ sở phân chia lợi nhuận giữa doanh nghiệp
và nông dân.
- Kinh nghiệm huyện Châu Độ tỉnh Sơn đông: Huyện Châu Độ có số dân
đông, nguời dân cơ cơ hội sản xuất phi nông nghiệp.
Tại vùng này đã thử nghiệm loại chính sách hai điền:
+ Kết hợp việc khoán thầu, tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng đất.
Chia đất cho các hộ nông dân trên cơ sở công năng (chức năng của đất đai).
Chia ruộng ra làm nhiều loại: ruộng nhân khẩu theo bình quân ruộng gia đình
và ruông khoán để giao cho dân. Ruộng khoán: nông dân chịu thuế khóan,
ngoài ra không còn có thuế khác, đất được khai thác trên cơ sở khoán thầu.
Nông dân dựa trên khả năng của mình để thầu sử dụng đất đai.Việc khoán thầu
đã sử dụng hiệu quả đất đai. Thu nhập của cấp địa phương tăng. Nhưng hình
thức khoán này đã lan ra các vùng nghèo, đã làm tăng them gánh nặng cho dân,
một số địa phương dừng lại, do vậy TW đã khuyến cáo không cổ vũ loại chính
sách này.
- Kinh nghiệm cải cách đất đai Giang tô: Khu vực này đã xây dựng các

khu vực thí điểm về chăn nuôi tập trung.
Có hai loại hình:
+ Phát triển trên cơ sở hộ gia đình: xây dựng các nông trường, chăn nuôi
gia đình. Tự nông dân phải lo lỗ lãi theo khả năng kinh doanh của mình. Việc
kinh doanh hộ gia đình trên cơ sở giữ nguyên chế độ khoán thầu, trách nhiệm cá
nhân, rõ rang, minh bạch, chủ động. Mặc dù vậy chính sách này chỉ thuận lợi
cho các hộ khá giả;
+ Loại hình kinh doanh tập thể: xây dựng các nông trường tập trung, thống
nhất đất đai, lấy công nghiệp bù đắp cho nông nghiệp, nhấn mạnh vào tính ứng
phó và tính ổn định. Mô hình này không minh bạch về trách nhiệm và phân chia
lợi nhuận.
b) Chính sách tín dụng tại nông thôn Trung quốc
 Hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nông thôn
(thủ tục vay và lãi suất), đặc biệt xác định danh sách các doanh nghiệp đầu
rồng tại từng vùng để hỗ trợ.
 Hỗ trợ phát triển hệ thống tín dụng nhỏ kiểu Gramy Bank Băng la dét
cho các vùng khó khăn.
 Hỗ trợ, cổ vũ các địa phương phát triển các quĩ phát triển xã hội, lãi
xuất được để lịa địa phương.
 Cho phép các ngân hàng tư nhân, hộ kinh doanh tín dụng thành lập và
phát triển: Việc này đã chính thức hóa kinh doanh tiền tệ, giảm cho vay nặng
lãi ở nông thôn. Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ, nếu có hơn 10
vạn NDT, xin phép sẽ cho đang kí kinh doanh tín dụng. Những hộ này
không được phép huy động vốn. Cổ vũ các tổ chức xã hội, cá nhân thành lập
các quĩ cho vay.
c) Chính sách về phát triển các tổ chức dân sự, hiệp hội, HTX tại Trung
quốc
 Toàn bộ Trung quốc có 150 nghìn HTX nông nghiệp, chủ yếu nằm ở
Miền đông và Miền trung. Số lượng HTX này rất thấp so với qui mô của nền
kinh tế Trung quốc. Nhà nước khuyến khích thành lập các hội kinh tế. Kiên

quyết không khuyến khích tồn tại và thành lập các HTX như thời bao cấp.
Mặc dù có sự khuyến khích phát triển, nhưng các HTX chủ yếu vẫn nằm
trong tay một số người, ông chủ, các HTX gần như doanh nghiệp vừa và
nhỏ.

×