Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

BAI TIEU LUAN MON TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.13 KB, 26 trang )

Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
LỜI MỞ DẦU

Trong lịch sử, tư tưởng Nhà nước “lấy dân làm gốc” đã sớm xuất hiện ở
những nhà lãnh đạo, những nhà chính trị lớn. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng về
Nhà nước của dân, do dân và vì dân được phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung,
với chất lượng mới, trở thành một quan điểm khoa học, nhân đạo về bản chất nhà
nước mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân .
Nếu như nước “ lấy dân làm gốc ” là tư tưởng chính trị truyền thống thì đến
Hồ Chí Minh, tư tưởng ấy được diễn đạt trong một mệnh đề chủ động hết sức giản
dị, tự nhiên: "Dân là gốc nước" đúng như mấy câu thơ của Người:
“Gốc có vững thì cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
Hơn ai hết, người đã sống trong cảnh nước mất nhà tan, từng chứng kiến cảnh
nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới chế độ hà khắc, bất chấp luật pháp của
bọn thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Người quyết chí ra đi tìm đường cứu
nước, không sợ hy sinh, không ngại khó khăn, gian khổ với mục đích cao nhất là
giải phóng đồng bào. Khi bôn ba nơi hải ngoại, nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm
của các nước phương Tây, ý tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở
Hồ Chí Minh.
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn, khoa học, cách mạng và nhân
văn, Người đã tổ chức và lãnh đạo toàn dân đứng lên xóa bỏ chính quyền bóc lột
của thực dân - phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.
Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quan điểm tư tưởng
nhất quán của chủ tịch hồ chí minh là kim chỉ nam định hướng cho toàn bộ quá
trình tổ chức, xây dựng và hoạt động của nhà nước ta. Tư tưởng hồ chí minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân là bước phát triển mới và sự
vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mac - Lênin kết hợp chủ nghĩa yêu nước , truyền
thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây.
CBHDKH : TH.S


SVTH : NHÓM 1
Trang 1
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
PHẦN 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH, HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA
TÁC PHẨM
1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH
1.1. Cơ sở lý luận.
- Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông
ta đã tích lũy được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước, được phản
ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc như “Đại việt sử ký toàn thư”, “Lịch triều hiến
chương loạn chí”… Kinh nghiệm trị nước cũng ghi lại trong các bộ luận nổi tiếng
như “Hình thư, Quốc triều hình luật, bộ luật Hồng Đức…”
- Những yếu tố tích cực của nhà nước thân nhân thời kỳ phong
kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc: “ nước lấy dân làm gốc”, tiếp thu nho giáo …
là những hành trang đầu tiên Hồ Chí Minh mang theo trên con đường cứu nước và
tìm kiếm một mô hình nhà nước tiến bộ cho đất nước sau khi giành độc lập.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
- Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây bản
“Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình.
Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của
các dân tộc với các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, kết hợp chặt chẽ quyền dân
tộc và quyền con người.
- Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã khảo sát mô hình
Nhà nước tư sản Mỹ, Pháp. Người phát hiện ra đằng sau những lời hoa mỹ về “
quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của tuyên
ngôn độc lập 1776 đó là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và biết
bao tàn bạo, bất công khác. Người coi đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi”
vì ở đó chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người.
- Sau khi đến Liên Xô, Người đã tìm thấy mô hình nhà nước kiểu

mới: “… phát ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,… ra sức tổ chức
kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng” đã gợi ý cho Người về một
kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai mà Người đã nêu ra
trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930.
- Từ mô hình nhà nước công nông binh chuyển sang mô hình nhà
nước đại biểu cho khối đại đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển sáng
suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp với
sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
2. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Chỉ một ngày sau khi giành được chính quyền ở Hà Nội, Hồ Chí Minh đã nhắc
lại ý kiến của Lênin với các học trò của mình, rằng : “giành chính quyền đã khó, giữ
chính quyền còn khó hơn”.
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 2
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
Người tiên tri, tiên lượng cái khó của chính quyền mới trên nhiều phương diện.
Đó là thù trong giặc ngoài, nạn đói, nạn dốt. Dưới chế độ quân chủ cai trị rồi đến chế
độ thực dân không kém phần chuyên chế, người dân bị đầu độc nhiều thói xấu như
lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác; nước ta không có Hiến pháp,
nhân dân không được hưởng quyền tự do dân chủ. Đặc biệt là những khó khăn của
đội ngũ cán bộ, công chức do hạn chế về tài năng, sự hiểu biết và điều hành, quản lý
một xã hội mới - xã hội do dân làm chủ.
Khi trình bày những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Sau tám mươi năm bị áp bức, bị bóc lột, và dưới chính
sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và tôi, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật
hành chính. Nhưng điều đó không làm cho chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm vừa
học. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta
có can đảm sữa chữa khuyết điểm”.

Người thấy rõ và hình dung những khó khăn của việc kiến thiết đất nước:
“Công việc phá hoại xong rồi. Nay bước đầu công việc dọn dẹp, sắp đặt, giữ gìn,
kiến thiết. À! Việc này mới khó chứ. Trong việc phá hoại chống kẻ thù đòi độc lập,
thì dễ dàng kéo cả toàn dân. Trong việc kiến thiết thì khó kéo hơn, vì nó đụng chạm
đến quyền lợi riêng của một đôi giai từng trong nước. Vả lại, chúng ta phải thật thà
thừa nhận rằng kinh nghiệm chúng ta còn ít, tài năng chúng ta còn kém, mà công
việc thì nhiều: nào quân sự, nào ngoại giao, nào tài chính…, trăm đầu nghìn mối,
đều những việc mới lạ cho chúng ta. Lại thêm nguy hiểm ngoại xâm và tình hình nội
trị”.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất là một bộ phận cán bộ bắt đầu có biểu hiện thoái
hóa biến chất, lên mặt làm quan cách mạng, hủ hóa, không quan tâm gì đến đời sống
của nhân dân.
Đúng nửa tháng sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình (Hà
Nội), ngày 17- 9- 1945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà, Hồ Chí Minh đã nói tới
việc “đề phòng hủ hóa”. Người chỉ rõ “cán bộ ta nhiều người “cung cúc tận tụy”, hết
sức trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ, với quốc dân. Nhưng cũng có người
hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công
dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và
Đoàn thể”. Người nhấn mạnh “những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng
hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động”. Vì vậy, “chúng ta phải lập tức
sửa đổi ngay. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, chúng ta chỉ sợ không có quyết
tâm sửa đổi. Chúng ta phải lấy lòng chí công vô tư”. Hồ Chí Minh nghĩ tới những kế
sách xây dựng một nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, được lòng dân.
Với trăn trở, chăm lo xây dựng chính quyền vững mạnh thật sự của dân, do
dân, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và
làng đăng trên báo Cứu quốc, số 69, ngày 17 tháng 10 năm 1945.
Nội dung thư như sau:
"Hỡi các bạn!
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1

Trang 3
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
A. Nước ta bị Tây áp bức hơn 80 năm và bốn, năm năm bị Nhật áp bức.
Dân ta đói rét, khổ sở, không thể nói xiết. Ngày nay nhớ lại, còn rất đau lòng.
Nhờ dân ta đoàn kết một lòng và Chính phủ lãnh đạo khôn khéo, mà chúng ta bẻ
gẫy xiềng xích nô lệ, tranh được độc lập tự do.
Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính
phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn
kết thành một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.
B. Chính phủ ta đã hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh
phúc. Trong việc kiến thiết nước nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần, không
thể một tháng, một năm mà làm được hết. Song ngay từ bước đầu, chúng ta phải
theo đúng phương châm.
Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các
làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không
phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.
C. Tôi vẫn biết trong các bạn có nhiều người làm theo đúng chương trình của
Chính phủ, và rất được lòng nhân dân. Song cũng có nhiều người phạm những lầm
lỗi rất nặng nề. Những lầm lỗi chính là:
1. Trái phép - Những kẻ Việt gian phản quốc, chứng cớ rõ ràng thì phải
trừng trị đã đành, không ai trách được. Nhưng cũng có lúc vì tư thù tư oán mà bắt
bớ và tịch thu làm cho dân oán thán
2. Cậy thế - Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng
túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân

bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân.
3. Hủ hoá - ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ,
càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra? Thậm chí lấy của công
dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông uỷ viên đi xe hơi, rồi bà uỷ viên,
cho đến các cô các cậu uỷ viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí
đó ai phải chịu?
4. Tư túng - Kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì
cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 4
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ
của ai.
5. Chia rẽ - Bênh vực lớp này, chống lại lớp khác, không biết làm cho các
từng lớp nhân nhượng lẫn nhau, hoà thuận với nhau. Thậm chí có đôi nơi để đất
ruộng bỏ hoang, nông gia ta thán. Quên rằng lúc này ta phải toàn dân đoàn kết,
không chia già trẻ, giàu nghèo để giữ nền độc lập, chống kẻ thù chung.
6. Kiêu ngạo - Tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi.
Coi khinh dân gian, nói phô, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt "quan cách mạng" lên.
Không biết rằng, thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến
oai tín của Chính phủ.
D. Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa
chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và
gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa
chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung.
Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta
phải ghi sâu những chữ "công bình, chính trực" vào lòng.
Mong các bạn tiến bộ".

“Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4”
Với chủ đề : “Quyền làm chủ của Nhân dân”. Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể
nhân dân chung tay xây dựng một nhà nước pháp quyền, trong sạch, vững mạnh,
phấn đấu vì mục tiêu : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Nhân dân là người chủ của đất nước. Nhân dân lập ra bộ máy nhà nước thay
mặt mình xây dựng pháp luật và quản lý đất nước thực hiện quyền làm chủ và bảo
vệ lợi ích của nhân dân. Do vậy, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do
dân và vì dân.
« Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. »
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 5
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
PHẦN 2 : NỘI DUNG
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN QUA THƯ BÁC HỒ GỬI CHO
UBND CÁC KỲ, TỈNH, HUYỆN VÀ LÀNG NGÀY 17/10/1945.
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà Nước Pháp Quyền :
1.1.1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử:
- Thời cổ đại Hy lạp đã xác lập thiết chế nhà nước dân chủ nhân dân
mang tính pháp quyền. Tổ chức bộ máy nhà nước lúc bấy giờ gồm: Đại hội nhân
dân; Hội dồng bốn trăm (Ở Aten lúc bấy giờ tồn tại bốn bộ tộc, mỗi bộ tộc củ 100
đại biểu vào Hội đồng) và Toà án nhân dân do dân bầu ra theo nguyên tắc nhiều
đẳng cấp.
- Praton (Năm 427-374 TCN) coi hoạt động xét xử là để bảo vệ pháp luật và cho
rằng nhà nước sẽ ngừng hoạt động nếu Toà án không được tổ chức một cách thoả

đáng.
- Aristote (Những năm 384-322 TCN) thì khẳng định yếu tố cơ bản cấu thành phẩm
chất chính trị trong các đạo luật là sự phối hợp của tinh đúng đắn về chính trị của nó
với tính pháp quyền.
- Cirereon (Những năm 106-43 TCN) yêu cầu tất cả mọi người đều phải
dưới hiệu lực của pháp luật, mà tiêu chuẩn đánh giá công minh của các đạo luật do
con người làm ra là phải phù hợp với quyền tự nhiên của con người.
- Locke (Những năm 1632 -1704 SCN) đã xây dựng học thuyết về toàn bộ quyền lực
nhà nước là của nhân. Ông luận giải: Nguồn gốc và bản chất của nhà nước, quyền
lực của nhà nước xuất phát từ quyền tự nhiên của con người, quyền con người là
quyền tối cao, bất khả xâm phạm. Quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu là giá trị
chủ đạo của quyền con người. Để bảo vệ các quyền tự nhiên của con người, mọi
người trong xã hội thảo luận lập ra chính quyền có quyền lực chung để bảo vệ quyền
tự nhiên của con người. Chính quyền chính là sự uỷ quyền của mọi thành viên trong
xã hội.
- Locke đưa ra kết luận:
+ Quyền lực nhà nước về bản chất là quyền lực của nhân dân, quyền lực của
nhân dân là cơ sở, nền tảng của quyền lực nhà nước. Trong quan hệ với nhân dân
nhà nước không có quyền mà chỉ thực hiện sử uỷ quyền của nhân dân.
+ Nhà nước -x ã hội chính trị hoặc xã hội công dân thì thực chất là một khế ước
xã hội trong đó công dân nhượng một phần quyền lực chung cho quyền lực nhà
nước.
+ Bảo toàn quyền tự nhiên của con người là tiêu chí quan trọng để xác định giới hạn
và phạm vi hoạt động của nhà nước.
- Montesquieu (Những năm 1698-1755) đã khẳng định nếu như quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp nằm trong tay một người hay một cơ quan thì con
người sẽ không có tự do. Nếu như quyền tư pháp hợp nhất với quyền hành pháp thì
toà án sẽ trở thành kẻ đàn áp nhân dân và tất cả sẽ bị huỷ diệt.
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1

Trang 6
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
- Ngoài ra còn nhiều nhà tư tưởng nhà nước pháp quyền khác như:
Roussou (1712 -1778), Kant (1724 -1804), Heeghen (1770-1831) và tiếp đó là nhà
tư tưởng nhà nước pháp quyền vĩ đại Mác, Awnghen.
- Tại hội nghị quốc tế họp tại Benin (9/1991) với sự tham gia của 40
quốc gia đã đưa ra một quan niệm chung về nhà nước pháp quyền như sau:
“Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nước và cá
nhân phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của tất cả, của mỗi người được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm
thực hiện bằng một hệ thống toà án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn
trọng giá trị nhất của con người và đảm bảo cho công dân có khả năng, điều kiện,
chống lại sự tuỳ tiện của cơ quan nhà nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra tính hợp
hiến và hợp pháp của pháp luật cũng như các hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà
nước pháp quyền phải đảm bảo cho công dân không bị đòi hỏi bởi những cái ngoài
Hiến pháp, và pháp luật đã quy định. Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị
trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền tự do và quyền công
dân”
1.1.2. Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh :
• Nhà nước pháp quyền là gì ?
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp được hiểu
và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu nhà nước pháp
quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp
luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ thể phục tùng
pháp luật trước hết là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước.
Xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền, yêu cầu mọi người sống và làm
việc tuân thủ pháp luật là nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
Người nói: “ Pháp lụât của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do,

dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong
kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác.
Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người
khác là phạm pháp”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được phát triển
trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Người đã dành không ít tâm trí,
nghị lực để xây dựng một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân :
Thế nào là nhà nước của dân?
Nói nhà nước là của dân, như Điều 1 Hiến pháp năm 1946 do Người làm
Trưởng ban soạn thảo đã khẳng định rõ: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu, nghèo, giai cấp,
tôn giáo".
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 7
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
Điều 32 của Hiến pháp 1946 cũng qui định: "Những việc quan hệ đến vận mệnh
quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phán quyết". Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý,
một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
Sau khi giành được chính quyền, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện do mình
bầu ra. Đồng thời: "Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân".
Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân
chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luât không cấm và có nghĩa vụ
tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các
thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa đó,

các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là "công bộc"
của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này.
Nhưng có những "vị đại diện" đã lầm lẫn sự uỷ quyền đó với quyền lực cá
nhân, sinh ra lộng quyền, cửa quyền… Chính cơn khát quyền lực ấy đã sinh ra biết
bao chuyện đau lòng mà Bác Hồ từng phê phán: "Cậy thế mình ở trong ban này ban
nọ, rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ
đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế
với dân".
Với một nhãn quan văn hóa chính trị sáng suốt, Hồ Chí Minh thấu suốt sự
nghiệp kiến thiết cần phải có nhân tài. Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi
của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công
cuộc xây dựng nước nhà. Chính phủ mới cần phải có những người có đức có tài để
quản lý đất nước. Chế độ dân chủ cộng hòa phải khác hẳn về chất so với chế độ vua
quan, thực dân đế quốc. Một trong những cái khác căn bản là quyền làm chủ, quyền
dân chủ và quyền bầu cử của nhân dân để nhân dân lựa chọn ra những người thật sự
có đức có tài để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Một ngày trước khi tổ chức
Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Hồ Chí Minh có lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu. Người nói: “Ngày mai, là một
ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ… Ngày mai là một ngày đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của
mình… Ngày mai, dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay
mặt cho mình, và gánh vác việc nước Ngày mai, mỗi người nên vui vẻ hưởng
quyền lợi của một người dân độc lập, tự do”.
Phát biểu trong buổi lễ ra mắt ứng cử viên tổ chức tại Việt Nam học xá ngày 5-
1- 1946 Người nói: “Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng
mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không bầu.
Ngày mai, không ai ép, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện cái quyền dân chủ ấy”.
Sau khi nước nhà được độc lập, nỗi quan tâm lớn nhất của Hồ Chí Minh là dân
được hưởng tự do, hạnh phúc. Hạt nhân trong di sản của Người là chữ “DÂN”: “Đối
với dân, ta đừng làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”. Dân muốn có

những cán bộ, đảng viên quyết tâm, suốt đời hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 8
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Dân muốn cán bộ phải đủ phẩm chất đạo
đức, năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phong cách công tác quần chúng, có như vậy
thì mới làm tròn bổn phận là công bộc của dân. Dân muốn những cán bộ khi đạo đức
và năng lực trí tuệ không tương thích với chức vụ, quyền hạn, không còn được dân
tín nhiệm thì phải sẵn sàng, vui vẻ từ chức. Dân không muốn có những cán bộ “chỉ
biết lên mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng mà không chịu được khổ. Chỉ
ham làm chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không ham công tác thiết thực”.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước do dân :
Thế nào là nhà nước do dân?
Đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình: Nhà nước đó
do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động. Nhà nước đó lại
do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó, Người yêu cầu: "Tất cả các cơ quan nhà
nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự kiểm soát của nhân dân". "Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân
chúng phải đập đổ chính phủ ấy đi, và gây nên Chính phủ khác". Nghĩa là khi các cơ
quan đó không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ
bãi miễn nó.
“Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là
mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng
phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Người khẳng định: “Các Ủy ban nhân dân
làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương phải chọn trong những người có công
tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông
đảo nhân dân tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt
vào các Ủy ban đó”

Để khắc phục những khó khăn và hạn chế đó, Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu
việc củng cố sự đoàn kết toàn dân, mà một trong những biện pháp quan trọng hàng
đầu vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài là chính sách dùng người, “đem
những người có danh vọng hoặc có tài cán ở địa phương vào giúp việc”, tìm người
tài đức, chiêu hiền đãi sĩ, cầu người hiền tài. Theo Người, “việc dùng nhân tài, ta
không nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe. Miễn là không phản lại quyền
lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ
quốc là có thể dùng được. Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai
có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”.
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước vì dân :
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ
chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là
nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi,
thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch trở
xuống đều là công bộc của dân. Vì vậy:
"Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 9
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh"…
Nhiều nhà nước của giai cấp thống trị khi còn ở giai đoạn tích cực và tiến bộ
cũng chủ trương thân dân, thậm chí cũng tuyên bố là nhà nước "vì dân", nhưng đó
chỉ là một thiện chí hay một chiêu bài, bởi vì cái cơ bản là nếu chính quyền đó
không của nhân dân và không do nhân dân làm chủ mà do các ông quan làm chủ thì
không bao giờ nó có thể vì dân được. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Chế độ ta là chế
độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các
cán bộ từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và
ngành nào đều phải là đầy tớ trung thành của nhân dân".

Hai chữ "đầy tớ" Người dùng gốc từ hai chữ "công bộc" vốn có nghĩa là người
phục vụ chung của xã hội (servireur public), cũng là một cách dùng để chỉ hàng ngũ
quan lại, dưới chính thể phong kiến hay tư sản đều có dùng, chứ không hề có ý miệt
thị các chức vụ này.
Nhưng đối với cán bộ nhà nước, Bác Hồ không bao giờ chỉ nhấn mạnh một vế.
Là người phục vụ, cán bộ nhà nước, đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn
của nhân dân. Người nói: "Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực
lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường". Trong Di chúc,
Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa "là người
lãnh đạo", vừa "là người đầy tớ trung thành của nhân dân". Là người đầy tớ thì phải
trung thành, tận tuỵ, cần kiệm kiêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ… Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt,
nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài… Như vậy, để làm người
thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh.
Trong bức thư gửi Uỷ ban nhân dân các cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ:
"Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng
nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Sau khi nhấn mạnh trách nhiệm của các cơ quan Chính phủ "từ toàn
quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho
dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp,
Nhật. Người đã nghiêm khắc phê phán những "lỗi lầm rất nặng nề" mà nhiều cán bộ
phạm phải như làm việc trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo đã
khiến dân oán thán kêu ca, làm mất lòng tin cậy của dân, làm hại đến uy tín của
Chính phủ. Cuối thư, Người thẳng thắn cảnh tỉnh: “Chúng ta không sợ sai lầm,
nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những
lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm
những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính
phủ sẽ không khoan dung".
Ngày 17-10-1945, Hồ Chí Minh viết bài “Bỏ cách làm tiền ấy đi” đăng trên báo
Cứu quốc, số 69. Nội dung bài báo là đề cao Ủy ban nhân dân tổ chức theo một tinh

thần dân chủ mới, khoa học, rất cấp tiến nên không thể “đè đầu bóp cổ”, hay dùng
những thủ đoạn không chính đáng như làm tiền bằng cách bán ngôi thứ. Người viết:
“Làm tiền bằng cách bán ngôi thứ tức là gây cho dân chúng có óc hiếu danh, trong
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 10
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
khi cần phải trừ tiệt óc đó để gây cho mọi người có óc thiết thực, góp sức vào công
cuộc giữ gìn và xây dựng đất nước… Bán ngôi thứ làm cho óc người ta đen tối
thêm! Tiền lấy như vậy cũng là một thứ tiền phi nghĩa Cách làm tiền đó có hại cho
sự tiến hóa của dân, cần phải bỏ ngay đi, cũng như cần phải phủi đi hết những hủ tục
khác như làm rượu ăn mừng được bầu vào Ủy ban”
Cùng với việc phê phán việc mua chức bán quyền, đồng thời Hồ Chí Minh
cũng chỉ ra những lỗi lầm khác rất nặng nề như “cậy mình ở trong ban này ban nọ,
rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến
dân. Quên rằng dân bầu ra mình là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế
với dân Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến các cô các cậu ủy viên, cũng
dùng xe hơi của công. Thử hỏi những phao phí đó ai phải chịu?”.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỘT NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN CÓ HIỆU LỰC PHÁP LÝ MẠNH MẼ.
2.1. Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ,
trước hết phải là một nhà nước hợp pháp , hợp hiến.
Sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay
mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng
bào và với thế giới về sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam mới, qua đó biểu dương
lực lượng và ý chí của toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm giũ vững nền tự do, độc
lập của mình.
Ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

(3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập sáu vấn đề cấp bách, trong đó vấn đề
thứ ba là: "Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức
càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu" để
sớm có một nhà nước hợp hiến do dân bầu ra. Ngày 20-9-1945, Người ký sắc lệnh
số 34 thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để
chuẩn bị đệ trình Quốc hội. Uỷ ban gồm 7 vị, do Người là Trưởng ban.
Mặc dù những khó khăn dồn dập do thù trong, giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng
tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập. Đây là
một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh nhất, diễn ra sớm nhất, một kỷ
lục chưa quốc gia nào đạt được kể từ sau khi lật đổ ách thống trị thực dân, đưa lực
lượng chính trị của nhân dân lên cầm quyền.
2.2. Hoạt động quản lý nhà nước bằng hiến pháp, pháp luật và chú trọng
đưa pháp luật vào cuộc sống.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh
mẽ là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có
hiệu lực trong thực tế.
Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau,
nương tựa vào nhau mới bảo đảm được cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 11
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
thể có dân chủ ngoài pháp luật, vì pháp luật là bàn đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân
chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ
thống pháp luật phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng
trong thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm được việc thực
hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Ngay từ năm 1919, khi đưa ra bản Yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân
chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp phải cải cách

nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế
bằng các đạo luật. Trong Việt Nam yêu cầu ca, Người khẳng định vai trò của pháp
luật bằng câu:
"Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Ở cương vị
Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và
Hiến pháp 1959, đã ký Lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản
dưới luật khác…
Một mặt, chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước ta, mặt
khác, Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo ra cơ chế bảo đảm
cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ
quan nhà nước và trong nhân dân.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: lúc dân biết và dám phê bình người
lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân chủ hoá khá
cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân
phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán
bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là các
cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thấy rõ phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ
cán bộ, viên chức có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành
chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một tiêu chuẩn
cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý.
2.3. Tích cực Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước có
đủ đức, đủ tài.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, Bác Hồ cho rằng,
phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ viên chức nhà
nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và

nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản
của người cầm cân công lý. Yêu cầu của đội ngũ cán bộ phải có đức và tài trong đó
đức là gốc, đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và có hiệu quả. Cụ thể là:
(1) Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
(2) Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 12
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
(3) Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
(4) Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám
quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là những tình huống khó khăn, “thắng không
kiêu, bại không nản”.
Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký
sắc lệnh ban hành Quy chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy
phải qua thi tuyển công chức để bổ nhiệm vào ngạch, bậc hành chính. Nội dung thi
tuyển khá toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử
và ngoại ngữ. Điều này thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy hiện đại, tinh thần công
bằng dân chủ của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền móng cho pháp
quyền Việt Nam.
Nhưng trong vấn đề cán bộ quản lý nhà nước. điều quan tâm của Người vẫn là
phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, bởi thiếu điều
cơ bản này thì dù có năng lực mấy cũng không dùng được.
3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG
SẠCH, VỮNG MẠNH, HIỆU QUẢ.
3.1. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm cảnh báo những căn bệnh của cán bộ và sự quan
liêu hóa của bộ máy nhà nước. Ngày 17- 9- 1945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh
nhà, Hồ Chí Minh đã nói tới việc “đề phòng hủ hóa”. Người chỉ rõ “cán bộ ta nhiều

người “cung cúc tận tụy”, hết sức trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ, với quốc
dân. Nhưng cũng có người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành
độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho
dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể”. Người nhấn mạnh “những khuyết điểm trên,
nhỏ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động”. Vì
vậy, “chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, chúng
ta chỉ sợ không có quyết tâm sửa đổi. Chúng ta phải lấy lòng chí công vô tư”. Hồ
Chí Minh nghĩ tới những kế sách xây dựng một nhà nước thật sự trong sạch, vững
mạnh, được lòng dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị lão luyện và sáng suốt đã thâu hái
được những kinh nghiệm lịch sử quý báu trong văn hoá trị nước của loài người và đã
vận dụng nó một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo. Trong suốt 24 năm ở cương vị đứng
đầu Nhà nước, Bác Hồ là một sự mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật,
Người luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng cao vai
trò, sức mạnh của luật pháp.
Trước hết, chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức; và đạo đức cao
nhất, theo Người là: "Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu
tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc".
Suốt đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh gương mẫu chấp hành kỷ cương, phép
nước, đồng thời cũng suốt đời kiên trì giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nhất
là những người có chức có quyền.
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 13
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
Bác Hồ rất đề cao phép nước, "nhân trị" đi đôi với "pháp trị". Người hết lòng
thương yêu, dạy bảo cán bộ. Những kẻ nào lạm dụng tình thương của Người, làm hại
đến tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và Nhà
nước, thì dù họ có là cách mạng kỳ cựu, là bộ trưởng, thứ trưởng, là gì đi nữa, vẫn

phải được đem ra xét xử theo đúng pháp luật để đề cao phép nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lập pháp, đồng thời là một nhà hành pháp vĩ
đại. Tư tưởng của Người về kết hợp thống nhất, biện chứng giữa giáo dục đạo đức
và tăng cường pháp luật cần được chúng ta kế thừa và phát huy trên con đường xây
dựng một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, trong sạch, vững mạnh, có hiệu quả.
3.2. Kiên quyết chống ba thứ "giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu.
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba thứ "giặc nội xâm", "giặc trong
lòng", những căn bệnh mà chúng ta phải kiên quyết chống, nếu không sẽ dẫn chúng
ta đến nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được. Người nói: "Tham ô, lãng phí
và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong
kiến… nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá
hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính… Tội lỗi ấy cũng nặng như
tội lỗi việt gian, mật thám".
Người chỉ ra mối quan hệ giữa đánh thù trong và diệt giặc ngoài: "Tham ô, lãng
phí, quan liêu là một thứ "giặc trong lòng". Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống
giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của
mình".
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp
trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ,
không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét
khắp mọi mặt, không cần vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo
trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn… thành thử có mắt mà không thấy
suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không
nắm vững… Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng cho nạn tham ô, lãng phí. Vì
vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu".
4. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA BẢN
CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI TÍNH NHÂN DÂN VÀ TÍNH DÂN TỘC
CỦA NHÀ NƯỚC.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự thống nhất đó

cũng được thể hiện rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.
4.1. Về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước.
Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị. Nó luôn mang bản
chất giai cấp.
Khi nói nhà nước dân chủ mới của nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân,
không có nghĩa đó là nhà nước phi giai cấp hay siêu giai cấp. Bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước ta được biểu hiện trước hết ở chỗ:
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 14
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
Do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam từ sau 1930
đến nay là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, dù còn hoạt động bí mật hau đã ra
công khai, dù chưa có chính quyền hay sau khi đã giành được chính quyền, lúc nào
Đảng ta cũng giữ vai trò lãnh đạo của mình đối với cách mạng Việt Nam, trong đó
có Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước theo phương thức nào? Đảng lãnh đạo bằng những
chủ trương, đường lối lớn, thông qua tổ chức của mình trong Quốc hội, Chính phủ
và các ngành, các cấp của Nhà nước. Đảng phấn đấu để thể chế hoá quan điểm,
đường lối, nghị quyết của mình, biến nó thành pháp luật, chính sách, kế hoạch của
Nhà nước. Đảng không bao biện, làm thay công việc của Nhà nước.
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta còn thể hiện ở tính định hướng
đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội "bằng cách phát triển và cải tạo nền
kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa họcvà kỹ thuật tiên
tiến".
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta còn được thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
"Nhà nước ta phát huy dân chủ cao độ… Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới

động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời
phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã
hội".
Trong mối quan hệ dân chủ, Người cũng không ngại nói đến chuyên chính:
"Chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là ai chuyên chính với ai? Như cái hòm
đựng của cải thì phải có cái khoá. Nhà thì phải có cửa… Dân chủ là của quý báu
nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa đề phòng kẻ phá hoại… Thế thì
dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ".
4.2. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc
của nhà nước.
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta không làm triệt tiêu tính nhân
dân, tính dân tộc của nhà nước, mà nó thống nhất, hài hoà trong nhà nước đại
đoàn kết dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng
được giai cấp công nhân một cách triệt để.
Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta với tính nhân
dân và tính dân tộc là ở chỗ:
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 15
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ với hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng.
Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân và
tính dân tộc vì nó bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng.
Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn luôn là Chính phủ đại đoàn kết dân tộc.
Nhà nước mới của ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả cách mạng.
Nhờ biết phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở liên minh công - nông -

trí, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước do Hồ Chí Minh đứng đầu đã hoàn thành
được sứ mệnh vẻ vang là lãnh đạo cả dân tộc tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng
chiến vĩ đại trong lịch sử, bảo vệ được độc lập, thống nhất Tổ quốc và bắt tay vào
xây dựng đất nước theo còn đường của chủ nghĩa xã hội.
5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN,
CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH:
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự,
được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho
quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì
dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý. Để làm được những điều đó cần phải
giải quyết tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
5.1. Đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân.
Để đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, nhất thiết phải
giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y
tế… tất cả các yếu tố đó phải tiến hành đồng thời, nhưng phải ưu tiên cho những vấn
đề kinh tế, chăm lo tốt hơn đến cuộc sống hạnh phúc và mọi nhu cầu phong phú, đa
dạng của con người. Tất cả những điều đó phải dựa trên cơ sở của sự phát triển kinh
tế, nhất là khi đất nước còn nghèo như hiện nay. Bởi vậy, nếu thoát ly sự tăng trưởng
kinh tế, đặt ra những yêu cầu quá cao đối với các lĩnh vực văn hoá – xã hội là không
thực tế. Nhưng cũng sẽ là sai lầm, nếu chỉ coi trọng phát triển kinh tế, lợi ích về văn
hoá – xã hội của nhân dân. Thực tiễn những năm qua cho thấy nếu không chú trọng
xây dựng và phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, phúc lợi công cộng, để cho những
mặt này yếu kém và xuống cấp thì chẳng những ảnh hưởng xấu tới việc chăm lo bồi
dưỡng, phát huy nhân tố con người, mà còn kìm hãm nguồn lực thúc đẩy kinh tế
phát triển.
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử cho nên nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực. Trong xã hộI XHCN, quyền lực Nhà nước được bắt nguồn từ nhân dân, của

nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, trong công cuộc đổi mới Nhà nước
hiện nay, phải ra sức phát triển và hoàn thiện chế độ đại diện, làm cho nó thực sự thể
hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Một Nhà nước như vậy mới đảm bảo quyền
con người sống trong hoà bình, độc lập, tự do; được quyền làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội và làm chủ bản thân mình; được quyền có cuộc sống ấm no, bình đẳng và
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 16
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
hạnh phúc. Tôn trọng quyền của mỗi con người (quyền bình đẳng của công dân
trước pháp luật, bình đẳng dân tộc, bình đẳng nam nữ, tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng cũng như các quyền tự do, dân chủ khác) phải gắn với nghĩa vụ và trách
nhiệm của mỗi người trước đất nước và xã hội.
Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, phải kiên
quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham
nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả,
trốn – gian lận thuế… gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân. Đó chính là tâm
tư, nguyện vọng và cũng là đòi hỏi của nhân dân đối với Nhà nước, thông qua Nhà
nước.
Việc của đất nước là việc của nhân dân. Vì vậy, cần phải tập hợp rộng rãi mọi
lực lượng quần chúng nhân dân, phát huy đầy đủ khả năng và trí tuệ của toàn dân để
cùng lo việc nước. Hơn nữa, mọi quyền hành chỉ thuộc về nhân dân khi có một cơ
chế thích hợp để nhân dân có thể trực tiếp giám sát các hoạt động của Quốc hội và
đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp,
cũng như giám sát mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước và viên chức Nhà nước.
Phải có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm của
mình đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân mà mình bầu ra, tạo
điều kiện để các đại biểu gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức trách nhiệm của người
đại diện nhân dân, phải luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của dân. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do
dân cử ra.” Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, phải
chiến thắng được nghèo nàn và lạc hậu, phát triển kinh tế, văn hoá, cải thiện đời
sống nhân dân, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ làm cho dân giàu,
nước mạnh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
5.2. Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là mối quan hệ chính trị
cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước trong Nhà nước pháp
quyền XHCN là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ. Trong đó Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao
nhất là con người; Nhà nước đề ra pháp luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật và
bảo đảm cho công dân được chống lại chính sự tuỳ tiện của Nhà nước. Điều đó có
nghĩa là “Nhà nước phải tạo ra cho công dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi
hỏi cái ngoài hoặc trên những điều kiện quy định trong Hiến pháp và pháp luật”. Mặt
khác, con người là mục tiêu và giá trị cao nhất. Do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho
công dân sự an toàn pháp lý, được hưởng các quyền và tự do cơ bản đó vi phạm, kể
cả từ phía các cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ. Chính vì vậy, một mặt
Nhà nước đề ra pháp luật; mặt khác, chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước, những
người có chức vụ đều có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân thủ triệt để pháp luật, không có
một tổ chức Nhà nước hoặc công chức nào được đặt mình đứng ngoài pháp luật,
đứng trên pháp luật. Mọi người và mọi tổ chức hợp pháp đều bình đẳng trước pháp
luật. Cùng với nguyên tắc này, Nhà nước ta tiến tới thực hiện nguyên tắc không cấm,
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 17
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
tất nhiên phải trong khuôn khổ của nền đạo đức XHCN và tôn trọng lợi ích của xã
hội và của người khác. Nguyên tắc này bảo đảm một mặt chống lại biểu hiện lộng

quyền, lạm quyền và mặt khác chống những hành vi tự do, vô chính phủ.
Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là xây dựng chế độ trách nhiệm
qua lại giữa Nhà nước và công dân (cá nhân), tức là giữa một bên là người đại diện
quyền lực Nhà nước và một bên vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quyền lực Nhà
nước. Ở đây, Nhà nước xác định cho mình, cho các cơ quan Nhà nước và những
người có chức vụ trách nhiệm pháp lý rõ ràng về các hành vi của họ. Công dân được
đảm bảo quyền và khả năng bắt buộc cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ
phải chấp hành pháp luật, thực thi trách nhiệm của mình đối với họ.
Muốn giải quyết mối quan hệ giữa công dân và Nhà nước thì Nhà nước phải đặt
mục tiêu của mình là phục vụ lợi ích chính đáng của dân. Hơn nữa, việc của đất
nước là việc của dân, cho nên muốn làm việc của dân, cho nên muốn làm việc của
đất nước thì phải tập hợp rộng rãi, phát huy khả đầy đủ năng và trí tuệ của toàn dân
để cùng lo việc nước. Đồng thời phải xây dựng một cơ chế để nhân dân kiểm soát có
hiệu quả đối với các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước. Liên quan tới vấn đề
này, phải từng bước hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện, nhưng cần hết sức coi trọng
việc phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, tạo thành thói quen tốt trong
sinh hoạt xã hội.
Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước của dân, do dân bầu ra. Do đó, một
khi Nhà nước không còn vì dân, nghĩa là nó không đáp ứng được lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân có quyền bày tỏ sự bất tín nhiệm đối với nói. Đó là cơ sở để Bác
Hồ nói rằng: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Trong các chế độ cũ, Nhà nước là bộ máy của giai cấp bóc lột dùng để thống trị
và áp bức nhân dân; cho nên viên chức, quan lại tự xưng là cha mẹ dân, đè đầu cưỡi
cổ dân. Trong chế độ dân chủ XHCN, người chủ Nhà nước là nhân dân; người cán
bộ Nhà nước là do dân lựa chọn, được nhân dân ủy quyền là “công bộc”; làm cán bộ
là “làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan Cách mạng”. Trong các cơ
quan Nhà nước, cán bộ vừa là lãnh đạo, vừa là người hướng dẫn của nhân dân. Do
đó, “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính
phủ, thì nhân dân không có ai dẫn đường”. Chính vì vậy, trong Di chúc của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ, Đảng viên phải làm thế nào để xứng

đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. Là người đầy tớ, cán
bộ phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ… Là người lãnh đạo thì phảI có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng
suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi và trọng dụng những người hiền tài, đức độ. Bởi
vậy, người thay mặt và người đại diện cho dân phải là người có đức, có tài, phải vừa
“hiền” lại vừa “minh”.
5.3. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và
vì dân phải dựa trên truyền thống, đặc điểm dân tộc, nhất là truyền thống
chính trị của đất nước.
Ngay từ khi Nhà nước Văn Lang được hình thành và qua hầu hết các triều đại
phong kiến trước đây, trong không ít trường hợp chính quyền Nhà nước đã đóng vai
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 18
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
trò tổ chức toàn thể dân tộc chống giặc ngoại xâm. Khi đó, Nhà nước đại diện cho
quyền lợi cơ bản sống còn của cả dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia. Trong quan hệ với phong kiến Trung Hoa trước đây, Nhà nước Đại Việt về
hình thức thì mềm dẻo, khôn khéo, nhưng mục tiêu bảo vệ độc lập tự chủ của quốc
gia thì hết sức kiên định.
Trong hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc tổ chức bộ máy Nhà nước và chế độ quan chức
của các triều đại nước ta tuy chịu ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo, nhưng
chúng vẫn được cải biên cho phù hợp với đặc điểm chính trị - xã hội Việt Nam và
chịu ảnh hưởng của văn hoá bản địa từng tồn tại trước nó và cùng với nó. Suốt cả 10
thế kỷ ấy, ông cha ta đã đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hoá, giành độc lập
dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; đồng thời cũng biết tiếp thu có chọn lọc
những thành tựu chính trị - văn hoá của phong kiến phương Bắc để xây dựng Nhà
nước độc lập tự chủ theo hình thức Nhà nước Trung ương tập quyền. Sự tiếp thu đó
là một tất yếu lịch sử.

Trong suốt thời kỳ bị thực dân Pháp thống trị, dân tộc Việt Nam đã kiên cường
đấu tranh nhằm giành độc lập dân tộc. Các phong trào yêu nước vào những năm cuối
của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (như phong trào Cần Vương do các sỹ phu phong
kiến yêu nước lãnh đạo nhằm tái dựng một Nhà nước quân chủ an ninh; phong trào
Đông Du của Phan Bội Châu nhằm xây dựng một chính thể như nước Nhật tư sản –
quân chủ nghị viện; phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Phan Chu Trinh nhằm
thiết lập một quốc gia độc lập theo mô hình của Pháp - Cộng hoà đại nghị tư sản;
phong trào của Việt Nam Quốc Dân Đảng theo gương của Cách mạng Tân Hợi
Trung Quốc…) đều nhằm giải phóng dân tộc và thiết lập Nhà nước theo mô hình
dân chủ tư sản. Mục tiêu của những phong trào đấu tranh trên đều không còn phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước nên bị thất bại.
Thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đưa lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung
và lịch sử Nhà nước ta nói riêng bước sang một trang sử mới. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước ta đã có những đóng góp to lớn trong quá trình Cách mạng, xứng
đáng là công cụ đắc lực của nhân dân trong công cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc
lập dân tộc, trong tổ chức và xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới phù hợp với
những truyền thống lịch sử và bản sắc dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường với định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội; việc mở cửa đối với bên ngoài sau
khi bình thường hoá quan hệ với Mỹ; những yêu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội
đang đòi hỏi bộ máy Nhà nước phải được đổi mới theo hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không phải là
quay lưng lại với quá khứ vẻ vang, xây dựng lại từ đầu một bộ máy Nhà nước theo
một đường hướng khác, mà là kế thừa và nâng lên tầm cao mới những giá trị truyền
thống của Nhà nước để xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN.
5.4. Xây dựng quyền lực Nhà nước của các công dân trên nền tảng một hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn thiện.
CBHDKH : TH.S

SVTH : NHÓM 1
Trang 19
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
Tư tưởng về xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ xã hội của các công
dân thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực với pháp luật. Trong đó pháp
luật là cơ sở để duy trì quyền lực Nhà nước, bản thân Nhà nước vừa là công cụ tổ
chức của giai cấp, lại vừa là hình thức thực hiện quyền lực công khai. Vì vậy, Nhà
nước chỉ có thể biểu hiện ý chí phổ biến và quyền lực công khai của mình đối với xã
hội, với mọi công dân thông qua pháp luật. Xây dựng quyền lực Nhà nước trong
quan hệ xã hội của các công dân là xây dựng một hệ thống pháp luật trên nền dân
chủ thực sự, xuất phát từ nhân dân và vì nhân dân. Pháp luật phải định hướng mọi
công dân và tổ chức xã hội vươn tới cái chân, thiện, mỹ, vươn tới tự do đích thực
của con người. Để đạt được mục đích đó, pháp luật phải khách quan, công bằng,
bình đẳng và dân chủ, lấy quyền con người, giải phóng con người làm trung tâm để
xây dựng quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước phải thuộc về nhân dân, phải
thể hiện ý chí của nhân dân, là sự phản ánh khách quan các nhu cầu xã hội, thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Mặt khác, khi đặt ra các thiết chế của mình trong khuôn khổ pháp
luật, hoặc thiết lập cơ chế để kiểm tra tính hợp pháp, hợp hiến của các đạo luật, các
cơ quan quyền lực Nhà nước cũng phải làm sao cho hệ thống pháp luật được xây
dựng trên sự tự do và các quyền công dân được bảo đảm. Pháp luật XHCN thể hiện
ý chí chung của xã hội, được bảo đảm bằng sức mạnh cộng đồng. Nhà nước tôn
trọng pháp luật như một giá trị xã hội chung; đồng thời quyền lực Nhà nước là cơ sở,
là tiến đề quan trọng nhất để bảo đảm cho pháp luật có được bản chất pháp lý của
nó. Hệ thống pháp luật của Nhà nước luôn là chỗ dựa cho việc tổ chức và hoạt động
của quyền lực làm giá đỡ cho việc xác định các mục tiêu của quyền lực Nhà nước là
vì con người, vì xã hội của các công dân. Vì vậy, mọi thiết chế quyền lực Nhà nước
phảI thực sự bảo đảm tính công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội công dân.
Bảo đảm trên nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ với xã hội của các công dân là để

bảo đảm cho mỗi công dân được hưởng những quyền tự do vốn có của họ và không
thể bị tước bỏ. Nhưng sự tự do của mỗi công dân phải dẫn tới sự thống nhất của cả
trật tự xã hội. Sự thống nhất đó chống lại mọi sự chiếm đoạt quyền lực Nhà nước bởi
các cá nhân chuyên quyền đứng bên trên và bên ngoài dân, hoặc là loại bỏ sự vô
trách nhiệm và bất lực của những người cầm quyền. Chính vì vậy, mỗI ngườI dân là
một giá trị tuyệt đối của quyền lực Nhà nước chứ “không thể là công cụ của bất kỳ
ai, dù là có mưu đồ tốt đẹp nhất” .
Thực chất quyền lực Nhà nước là quyền lực của mọi công dân liên hiệp lại tạo
thành Nhà nước, chính công dân giao cho người đại diện của mình thừa hành quyền
lực đó. Cơ quan Nhà nước tự nó không có quyền mà chỉ thừa hành quyền lực do
công dân uỷ nhiệm. Vì vậy, công dân mới thật sự là chủ thể của quyền lực Nhà
nước. Xây dựng quyền lực Nhà nước trong mối quan hệ với xã hội của các công dân
là giải quyết mâu thuẫn giữa quyền lực Nhà nước tập trung với quyền lực và tự do
của công dân. Xã hội phải có quyền lực Nhà nước tập trung, nhưng không phải mọi
nhu cầu của người lao động Nhà nước đều lo được. Bởi vì “không gian quyền lực
Nhà nước là có giới hạn, còn đối với cá nhân tự do thì không gian là vô tận”. Do đó
xây dựng quyền lực Nhà nước là phải tạo ra một hệ thống chính trị để làm cho hai
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 20
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
mặt trên trở thành điều kiện và nguyên nhấn của nhau. Trong hai mặt đó, mặt công
dân là nền tảng, là ngọn nguồn, là mục đích của mọi quyền lực Nhà nước. Chính vì
vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
5.5.Nhà nước pháp quyền XHCN phải được tổ chức và vận hành theo
nguyên tắc tập trung dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc căn bản, là một yêu cầu tự nhiên và tất yếu của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN với tư cách là một chế
độ chính trị. Vì nếu không có dân chủ thông qua bàn bạc, thảo luận, tranh luận để

chọn một giải pháp hợp lý nhất thì không thể tạo được sự thống nhất thật sự. Nhưng
không có tập trung để chuyển sự thống nhất từ quan niệm, nhận thức sang hành
động, thì không bao giờ dân chủ trở thành một giá trị hiện thực, một kết quả thực tế
được “vật chất hoá” mà con người có thể kiểm nghiệm, cảm nhận được một cách
trực tiếp như cơm ăn, nước uống hàng ngày.
Tập trung dân chủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN là sự cần thiết hợp lý để
cho dân chủ tránh được những thói xấu tệ hại của thứ dân chủ bất chấp pháp luật, kỷ
cương, vượt quá hành động pháp lý để rơi vào tự do, hỗn loạn, phá phách, vô chính
phủ. Nó bảo đảm cho các cơ quan quyền lực không thể trở nên nhu nhược, bất lực
mà có thực quyền. Nó kết hợp tính tôn trọng dân chủ, tôn trọng các quyết định của
tập trung với tinh thần trách nhiệm của các tổ chức và các cá nhân có quyền lực.
Điểm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý Nhà nước theo
tinh thần của Nhà nước pháp quyền là đề cao tinh thần tôn trọng pháp luật, hoạt
động hợp hiến, hợp pháp, thực hiện sự bình đẳng của mọi tổ chức và cá nhân trước
pháp luật, xác lập rành mạch quy chế, chức trách, bổn phận công chức trước Nhà
nước và xã hội. Đó là cơ sở để khẳng định rằng: “sự kết hợp đúng đắn tập trung và
dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu lực của bộ máy Nhà nước ta”.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN là
nhằm đảm bảo cho Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, thực sự là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Hoạt động của Đảng thể hiện bản chất cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo của
Đảng tạo điều kiện phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị,
giúp Nhà nước hoàn thành thuận lợi mọi nhiệm vụ của mình. Đảng lãnh đạo Nhà
nước được thể hiện bằng những phương thức khác nhau. Một là, Đảng lãnh đạo Nhà
nước để nó thể chế hoá đúng đắn lập trường, các quan điểm chính trị cơ bản của
mình. Hai là, Đảng định hướng hoạt động của Nhà nước vào việc tổ chức thực hiện
có hiệu quả những nghị quyết đã được thể chế hoá đó. Ba là, Đảng lãnh đạo công tác
cán bộ ngay trong lĩnh vực Nhà nước…
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phải đổi mới và chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Vai trò lãnh đạo

của Đảng đối với Nhà nước không phải nhờ vào uy quyền, mệnh lệnh, mà ở trình độ
năng lực vạch ra đường hướng chính trị đúng đắn và thông qua công tác tuyên
truyền, thuyết phục, làm cho mọi tổ chức và toàn xã hội tự giác chấp nhận, ở tính
gương mẫu và vai trò tiên phong chiến đấu của tổ chức Đảng, của đội ngũ cán bộ,
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 21
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
Đảng viên; ở sự gắn bó, tín nhiệm của quần chúng đối với Đảng; ở sự trong sạch,
vững mạnh về bản lĩnh chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng bao gồm đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo
của Đảng, xác định đúng mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà
nước, lãnh đạo xây dựng nền pháp chế, nhưng Đảng và mọi Đảng viên hoạt động
trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, gương mẫu chấp hành chính sách và pháp
luật; Đảng không lấn sân Nhà nước, không làm thay Nhà nước.
Hiện nay vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là không thể có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế
được. Vấn đề đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng định từ lý luận Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà con là kết luận chắc chắn được rút ra từ thực tiễn
của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay.
52.6. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải phù hợp với những
giá trị phổ biến tiến bộ của nhân loại.
Quan niệm về một Nhà nước “Đức trị” và “Làm chính trị phải tựa vào Nhân”
của Khổng Tử là điểm tựa để xây dựng một Nhà nước lý tưởng thân dân, gần dân,
lấy dân làm gốc. Quan niệm đó có những giá trị quý báu mà Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam phải tiếp thu. Mặt khác, những nhà tư tưởng cổ đại đã thấy được
mối liên hệ giữa Nhà nước và pháp luật, vai trò pháp luật trong tổ chức, hoạt động
của Nhà nước, trong đó pháp luật phải thể hiện ý chí của dân và phải khách quan,
công bằng và bình đẳng.

Tư tưởng Nhà nước pháp quyền tư sản trong thời kỳ đầu cũng đã gắn liền với ý
tưởng về tự do, công bằng, bình đẳng, bác ái… ngọn cờ tư tưởng giải phóng đó đã
tạo nên những động lực xã hội hết sức mạnh mẽ cho sự giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp mà dù muốn hay không vẫn còn giữ nguyên giá trị. Việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân cũng vì những mục
đích đó.
Vượt lên trên các nhà tư tưởng tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin không chỉ dừng lại ở lĩnh vực tư tưởng về sự cần thiết của Nhà nước pháp
quyền mà còn hành động cách mạng để thực hiện hoá tư tưởng đó trong xã hội. Chủ
nghĩa xã hội làm nền tảng kinh tế dựa trên chế độ sở hữu XHCN là biểu hiện cho
việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân; đồng thời nó cũng là sự biểu
hiện thực tế của tự do, bình đẳng bác ái… của con người.
C. Mác viết: “Tự do là biến Nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội, thành cơ
quan hoàn toàn phục tùng xã hội, vào thời đại chúng ta, tự do ở mức độ cao hơn
hay thấp hơn của các hình thức Nhà nước được xác định bởi mức độ chúng hạn chế
tự do của Nhà nước”. V. I. Lênin tiếp thu tư tưởng của C. Mác về Nhà nước pháp
luật và phát triển nó trong điều kiện thực tiễn mới phải kế thừa di sản mà loài người
đã tích luỹ được; dưới chủ nghĩa xã hội để điều tiết sản xuất và phân phối sản phẩm
cần phải dùng pháp quyền mà tính tư sản, do đó cần “Một Nhà nước tư sản không có
giai cấp tư sản”. Tiếp tục tư tưởng đó của Lênin, các nhà tư tưởng sau này khi bàn
đến nội dung, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN đã khẳng định: “Không thể
nêu một nguyên tắc nào của quan điểm Nhà nước pháp quyền XHCN mà chưa được
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 22
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
xây dựng từ lâu hoặc không có những điều tương tự trong các Nhà nước thuộc các
hệ thống xã hội khác nhau”. Từ quan điểm đó, các nhà chính trị pháp lý và triết học
Mác – Lênin về Nhà nước pháp quyền đều nhấn mạnh đến các đặc trưng cơ bản của

Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân như: quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân, tính tối cao của luật, nguyên tắc phân quyền và thống nhất quyền
lực. Trong Nhà nước đó, về bản chất pháp luật phải đảm bảo tính khách quan công
bằng, bình đẳng; pháp luật đảm bảo quyền con người, quyền tự do dân chủ được
quan tâm đặc biệt.
Kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ đó của nhân loại, Đảng ta cho rằng
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân phải
phù hợp với chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối của nền kinh tế thị
trường với định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
phải phù hợp với tính chất xã hội hoá theo hướng phát huy cao độ sáng kiến của cá
nhân, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân tự do sáng tạo trong mọi hoạt động của mình.
Để làm được điều đó, Nhà nước có vai trò điều tiết kinh tế ở tầm vĩ mô, Nhà nước lo
cho dân, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện mọi chức năng xã hội của mình. Do
vậy, chức năng xã hội của Nhà nước ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu.
Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải kế thừa những giá trị nhân loại trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, chúng ta cũng không xem nhẹ truyền
thống, đặc điểm dân tộc, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Như vậy, Nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân vừa phản ánh cái vốn có, đang có,
lại vừa phản ánh cả xu hướng đang đến của lịch sử dân tộc và của thời đại.
PHẦN 3 : Ý NGHĨA, VẬN DỤNG.
1. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, đảm bảo
thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Trong điều kiện cạnh tranh quốc tế quyết liệt hiện nay,ta không có con đường
nào khác là phải “phát huy cao độ nội lực của dân tộc”, mà một trong những nhân tố
cơ bản làm nên nội lực đó là phát huy dân chủ. Chính khát vọng dân chủ đã tạo nên
sức mạnh kiên cường đấu tranh cho độc lập tự do.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất có
quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”.
Vì vậy, Người nhắc nhở: “Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt
đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai. Thực hành dân chủ là cái

chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn”. Mọi chủ trương, đường
lối, thuộc tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… đều được Người
xem xét và giải quyết từ địa vị người làm chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực hiện
quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Nhà nước ta phải tiếp tục thể chế hóa
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 23
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặc biệt là trong hoạt động kinh tế. Đồng thời, phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh
phòng và chống vi phạm pháp luật, đảm bảo cho mỗi công dân đều được bình đẳng
trước pháp luật, đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xét xử nghiêm
minh, đúng người đúng tội, không phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm tin cho
nhân dân và tính nghiêm minh của nhà nước ta.
2. Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một
nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh.
Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính là một quá trình, phải tiến hành đồng
bộ trên nhiều mặt. Căn bệnh này nặng nề, phức tạp, có căn nguyên xã hội – lịch sử,
nên không thể chữa trị trong một thời gian ngắn.
Cần phải làm cho đội ngũ cán bộ, viên chức quán triệt nhận thức: Nhà nước là
một tổ chức công quyền thể hiện quyền lực của nhân dân, nhân viên nhà nước là
công bộc của nhân dân. Nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân phải:
- Đề cao trách nhiệm giải quyết khiếu kiện của nhân dân sao cho
nhanh chóng, đơn giản, đúng pháp luật,không để nhân dân phải tốn quá nhiều thời
giờ, công sức đi lại, do tình trạng đùn đẩy, “kính chuyển” vòng vo.
- Cải cách thủ tục hành chính, ban hành và hoàn thiện chế độ
công cụ.
- Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh,

tiêu chuẩn thực hiện tinh giảm biên chế, xử lý nghiêm minh kịp thời những người vi
phạm pháp luật.
3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, gắn liền xây
dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính.
Đảng ta là đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định chất
lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Cuộc đấu tranh để khắc phục
những khuyết tật của bộ máy nhà nước không thể tách rời cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Đảng mạnh thì Nhà nước mạnh. Không thể có một Đảng mạnh mà
Nhà nước và hệ thống lại yếu kém. Để chỉnh đốn lại bộ máy nhà nước, khắc phục tệ
quan liêu, tham nhũng, Đảng phải tự chỉnh đốn, phải nêu gương về mặt trong sạch,
vững mạnh. Đó là nhân tố cơ bản và then chốt. Chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng
trong sạch, vững mạnh mới đưa cải cách bộ máy nhà nước đi đến thành công.
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 24
Tư tưởng HCM về XD Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân qua thư gửi UBND các kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày
17/10/1945.
PHẦN 4 : KẾT LUẬN
- Nhà nước phải bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân
- Kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, đối với Nhà nước
à Bản chất, tính chất của Nhà nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của
Đảng cầm quyền, do đó sự trong sạch, vững mạnh của Đảng CSVN là yếu tố quyết
định cho thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử 1946, đánh dấu bước ngoặt phát triển trong
tiến trình xây dựng thể chế dân chủ ở Việt Nam, qua đó cũng thể hiện sự sáng suốt
trong tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới, Nhà nước của dân, do

dân và vì dân vẫn mãi mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay,
trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta nhất
định thực hiện thắng lợi tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, phấn đấu xây dựng
một Nhà nước Việt Nam XHCN là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
CBHDKH : TH.S
SVTH : NHÓM 1
Trang 25

×