Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thiếu men alpha-1 antitrypsin docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.31 KB, 5 trang )

Thiếu men alpha-1 antitrypsin

Bệnh thiếu men alpha-1 antitrypsin là một loại bệnh gây ra bởi sự suy giảm hoặc bất
thường trong sản xuất một chất ức chế enzyme có tên là alpha-1 antitrypsin. Các mô cơ
thể và máu bình thường có chứa một loại enzyme rất mạnh - được biết đến với cái tên
protease (enzyme có chức năng phân hủy protein) - có khả năng tấn công những vật chất
lạ bên trong cơ thể có thể gây tổn thương chẳng hạn như là khói thuốc lá.
Tuy nhiên, những enzyme protease này cần phải được điều hòa một cách cẩn thận, nếu
không nó có thể tấn công và gây tổn thương cho cả những mô bình thường của cơ thể.
Máu và mô cơ thể có một chất ức chế enzyme protease có chức năng gắn kết với enzyme
này để ngăn không cho chúng gây ra những hoạt động có hại. Chất ức chế protease
thường thấy nhất trong máu là alpha-1 antitrypsin và vai trò của nó là bảo vệ mô cơ thể
khỏi sự tấn công của protease.
Alpha-1 antitrypsin nằm trong nhóm các protein có chức năng tương tự nhau được gọi là
chất ức chế serine proteinase (hoặc serpin). Những loại protein này đóng vai trò quan
trọng trong các cơ chế kiểm soát viêm, đông máu và sữa chữa của cơ thể. Hầu hết các
men alpha-1 antitrypsin trong cơ thể được gan sản xuất. Gan cũng có thể bị tổn thương do
thiếu men alpha-1 antitrypsin giống như phổi.

Những người có nguy cơ
Bệnh thiếu men alpha-1 antitrypsin được cho là một trong những bệnh di truyền thường
gặp nhất ở cộng đồng những người da trắng, ở cả 2 giới.
Bệnh xuất hiện dọc theo Châu Âu nhưng tỷ lệ và loại bệnh rất thay đổi. Những thể nặng
thường gặp nhất ở vùng ven biển phía Tây Bắc châu Âu bao gồm đảo Anh Quốc. Bệnh
diễn ra ở trên 1/1600 người Scandinavia nhưng ít gặp hơn ở những dân tộc khác.

Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh thiếu men alpha-1 antitrypsin là một bệnh di truyền gây ra bởi thiếu gen ở nhiễm
sắc thể 14. Gen là một chuỗi DNA chứa trong nhiễm sắc thể ở nhân tế bào.
Có trên 70 biến thể của alpha-1 antitrypsin khác nhau được xác định. Trong các xét
nghiệm, men alpha-1 antitrypsin bình thường được ký hiệu là M.


Mỗi người đều có 2 nhiễm sắc thể 14 và của người bình thường là PiMM. Pi là ký hiệu
của protease inhibitor (ức chế protease). Hai biến thể bất thường quan trọng nhất được
gọi là S và Z. Cả hai đều là do sự biến đổi của gen alpha-1 antitrypsin.
Những người có hai trong số những gen bất thường trên có ký hiệu là PiSS hoặc PiZZ,
hoặc PiSZ được gọi là đồng hợp tử. Hoặc họ có thể có 1 gen bất thường và 1 gen bình
thường (chẳng hạn như PiMS hoặc PiMZ) được gọi là dị hợp tử. Cả hai nhóm người này
đều có thể mang bệnh.
Gen Alpha-1 antitrypsin thuộc dạng đồng hợp tử trội (co-dominant), do đó, mỗi gen trong
cặp sản xuất 50% alpha-1 antitrypsin. Nhưng gen PiZ chỉ sản xuất 10% alpha-1
antitrypsin so với gen PiM. Những người có gen PiZZ chỉ có 15-20% nồng độ alpha-1
antitrypsin bình thường trong máu dẫn đến tình trạng bệnh nặng. Những người có 1 gen
PiZ và 1 gen PiM (PiMZ) có nồng độ alpha-1 antitrypsin trong khoảng 60% bình thường
(50% từ M và 10% từ Z). Tình trạng này thường có khả năng phòng ngừa được.
Đối với những người mang cả 2 gen PiS (PiSS) thì bệnh ít nặng hơn với nồng độ alpha-1
antitrypsin trong khoảng 60-70% bình thường. Nó có thể gây biến chứng lên phổi nhưng
thường không gây bệnh cho gan.

Diễn tiến của bệnh
Diễn tiến của bệnh phụ thuộc nhiều vào loại gen bất thường mà bệnh nhân có do nó ảnh
hưởng đến số lượng và loại anpha-1 antitrypsin được sản xuất. Nhưng ngay cả những
người có cùng một loại gen tương tự nhau thì biểu hiện của họ cũng khác nhau rất nhiều.
Bệnh biểu hiện chủ yếu ở phổi và gan:
 Tại phổi, thiếu men alpha-1 antitrypsin sẽ gây bệnh khí phế thũng, một loại bệnh
phối tiến triển mạn tính. Bệnh thường được nhận thấy ở những người trong độ
tuổi từ 30-40 tuổi có hút thuốc và 10-15 năm sau đó ở những người không hút
thuốc. Sau khoảng 15-20 năm, bệnh phổi sẽ dần dần dẫn đến suy hô hấp và tử
vong.
 Diễn tiến ở gan thậm chí còn khó dự đoán hơn. Thiếu men alpha-1 antitrypsin có
thể gây vàng da và những bệnh về gan ở trẻ em trong vòng vài ngày sau khi sinh.
Một vài trẻ có thể có diễn tiến bệnh nhan chóng, mặc dù những triệu chứng

thường được cải thiện. Một số trẻ bị thiếu men alpha-1 antitrypsin bị bệnh gan
nặng trước tuổi 20. Bệnh gan gây ra bởi thiếu men alpha-1 antitrypsin có thể chỉ
xuất hiện ở người lớn. Nhưng ở một số ít người, ở cả những người bị PiZZ nặng,
có thể gây xơ gan hay hóa sẹo ở gan.
Triệu chứng bệnh
Bệnh phổi
Thiếu men alpha-1 antitrypsin dẫn đến tổn thương phổi tiến triển do enzyme protease,
đặc biệt là khi kết hợp với những yếu tố khác như hút thuốc.
Thiếu men alpha-1 antitrypsin có thể gây khí phế thũng, bệnh phổi tiển triển gây ra bởi sự
thoái hóa nhu mô phổi và phì đại vĩnh viễn một cách bất thường của các phế nang.
Những phế nang bất thường sẽ có số lượng chiếm ưu thế bên trong phổi. Những người bị
bệnh, đặc biệt là ở những người hút thuốc, có thể sẽ cảm thấy thở hụt hơi và ho. Hiện
tượng hụt hơi ban đầu chỉ xảy ra khi gắng sức nhưng sau đó có thể dẫn đến khó thở ngay
cả khi nghỉ ngơi. Hiện tượng này có thể xảy ra trong vòng 15-20 năm, nhưng có thể dẫn
đến suy hô hấp và tử vong.
Bệnh gan
Ở những người có gen PiZZ (có nguy cơ bị bệnh gan nặng), sự thiếu các phân tử alpha-1
antitrypsin có thể xuất hiện ở bên trong các tế bào gan và gây ra những hiệu ứng độc hại.
Bệnh gan ở trẻ em
Thiếu men alpha-1 antitrypsin là nguyên nhân di truyền thường gặp nhất của bệnh gan ở
trẻ nhũ nhi và trẻ lớn. Dấu hiệu đầu tiên thường la vàng da, phân nhạt màu, chảy máu bất
thường hoặc gan to cùng với những dấu hiệu không đặc hiệu khác của bệnh gan. Chúng
được mô tả dưới cái tên "hội chứng viêm gan ở trẻ nhũ nhi" thường bắt đầu ở khoảng
giữa ngày thứ 4 đến tháng thứ 6 sau khi sinh. Một số ít trẻ sẽ tiến triển nhanh thành suy
gan và xơ gan.
Hầu hết những trẻ nhũ nhi sẽ cải thiện triệu chứng, vàng da nhạt dần và xét nghiệm chức
năng gan sẽ trở về bình thường, do đó những biện pháp cấp cứu là không cần thiết. Ở
những trẻ lớn hơn, thiếu men alpha-1 antitrypsin sẽ có thể dẫn đến những dấu hiệu của
bệnh gan mạn tính và suy gan.
Một số trẻ có thể bị vàng da hoặc bệnh gan sau khi sinh. Những triệu chứng sẽ diễn ra

giống nhau nếu bị những bệnh thuộc về gan: đau bụng, vàng da, ngứa, sưng phù mắt cá
chân hoặc bụng, gan to hoặc lách to.
Ở những trường hợp nặng có thể chảy máu từ ruột, hoặc lơ mơ và hôn mê, có thể gây
những biến chứng.
Bệnh gan ở người lớn
Những triệu chứng của bệnh gan ở người lớn do thiếu men alpha-1 antitrypsin tương tự
với những trẻ lớn. Nhưng bệnh có thể sẽ không rõ ràng trong nhiều năm. Những triệu
chứng tương tự với bất kỳ một tình trạng xơ gan nào: vàng da, phù nề bất thường, chảy
máu từ ruột, và cuối cùng là hôn mê.
Thiếu men alpha-1 antitrypsin liên quan đến sự gia tăng nguy cơ bị carcinoma tế bào gan
hoặc ung thư gan tiên phát. Triệu chứng ung thư có thể là dấu hiệu đầu tiên của bệnh.
Chẩn đoán
Cũng như nhiều bệnh hiếm gặp khác, yếu tố quan trọng để chẩn đoán là dựa vào sự nhận
định của bác sĩ.
Hiếm gặp bệnh gan ở trẻ em, do đó thiếu alpha-1 antitrypsin sẽ thường nảy ra trong đầu
bác sĩ ở những trường hợp này. Nhưng nó có thể bị bỏ qua ở người lớn do có rất nhiều
nguyên nhân gây ra bệnh gan ở họ.
Cũng có nhiều ca có thể là không bao giờ được chẩn đoán ra. Ước đoán rằng chỉ có
khoảng 5% người được xác định là có bệnh ở Anh. Tuy nhiên, bệnh thiếu men alpha-1
antitrypsin có thể được chẩn đoán tương đối dễ dàng bằng xét nghiệm máu đo mức alpha-
1 antitrypsin. Bước kế tiếp là xác định chính xác loại alpha-1 antitrypsin nào. Điều này có
thể được thực hiện bằng cách khám xét các tế bào được lấy qua sinh thiết bằng kính hiển
vi.
Tầm soát gia đình
Tư vấn về di truyền đối với những gia đình có người bị bệnh này là cần thiết, cũng như là
kiểm tra để xác nhận những người họ hàng có nguy cơ. Có thể chẩn đoán được trước sinh
nhưng có thể không tiên đoán được độ nặng của bệnh trong tương lai.
Những khả năng khác
Ở trẻ em:
 Bệnh gan ở trẻ em có thể do nhiễm trùng trong quá trình mang thai hoặc sau khi

sinh gây ra viêm hoặc nhiễm trùng gan. Nó cũng có thể gây ra do thuốc, di truyền
hoặc những bệnh gia đình - bao gồm cả thiếu men alpha-1 antitrypsin.
 Những bất thường về di truyền khác bao gồm bất thường chuyển hóa đường hoặc
amino-acid và xơ nang.
 Tắc nghẽn ống mật cần phải được loại trừ ở trẻ nhũ nhi, vì bệnh nhân có thể cần
phải phẫu thuật để điều trị.
 Những bệnh gây đông máu làm bít tắc hệ mạch máu cung cấp cho gan cũng cần
phải được kiểm tra ở những trẻ lớn hơn.
Ở người lớn
 Khí phế thũng và bệnh phổi mạn tính ở người lớn thường liên quan đến hút thuốc
là và những bệnh phổi ở thời đại công nghiệp. Chỉ có khoảng 1 - 2 % trường hợp
khí phế thũng là do thiếu men alpha-1 antitrypsin.
 Xơ gan và suy gan thường là do rượu, nhiễm trùng gan mạn tính, bệnh lý gan do
tự miễn, và hiếm hơn là bệnh huyết sắc tố và bệnh Wilson.
Bác sĩ có thể làm được gì?
Bác sĩ tiêu hóa không chắc có thể chẩn đoán một cách toàn diện bệnh thiếu men alpha-1
antitrypsin.
Bệnh gan ở trẻ em thường hiếm gặp, do đó cần phải đi khám bệnh ngay nếu trẻ bị bệnh.
Lời khuyên
Điều đặc biệt quan trọng là bạn nên ngừng hút thuốc lại. Hút thuốc sẽ gia tăng đáng kể
tổn thương phổi do thiếu men alpha-1 antitrypsin.
Điều trị
Cách điều trị tiêu chuẩn đối với khí phế thũng là thuốc hít và kháng sinh (có thể cần thiết
để điều trị nhiễm trùng), ngoài ra còn có thể phải điều trị xơ gan và suy gan.
Nếu cách điều trị quy ước lâu dài không phòng ngừa được tiến triển mạn tính của bệnh ở
gan hoặc phổi, có thể xem xét đến khả năng ghép tạng.
Ở khí phế thũng giai đoạn cuối, việc ghép phổi đơn có thể là một lựa chọn. Thiếu men
alpha-1 antitrypsin là bệnh di truyền gặp cần phải ghép gan nhiều nhất ở trẻ em. Nhưng
có rất ít trẻ bị thiếu men alpha-1 antitrypsin đã từng cần phải ghép gan.
Những người được ghép tạng có tiên lượng tốt với tỷ lệ sống còn sau 1 năm là 90% và

sau 5 năm là 80%. Kết quả ở người lớn không tốt bằng do những biến chứng của phổi
kèm theo. Alpha-1 antitrypsin nhân tạo cũng đã được dùng và có thể có ích đối với bệnh
phổi tuy nhiên lợi ích lâu dài của nó vẫn chưa được chắc chắn.
Tiên lượng
Tiên lượng đối với bệnh nhân bị bệnh này là tốt. Nhiều người thậm chí còn không biết họ
bị bệnh. Những bệnh gan và phổi tiến triển chỉ xuất hiện ở một bộ phận thiểu số người
nhưng có thể rất nghiêm trọng do đó người bệnh cần phải được kiểm tra, theo dõi thường
xuyên.
Có thể kiểm tra chức năng gan bằng khám lâm sàng và xét nghiệm máu. Kiểm tra chức
năng phổi bằng các nghiệm pháp hô hấp, x quang ngực và CT scan.

×