Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Viêm gan siêu vi C doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.21 KB, 4 trang )

Viêm gan siêu vi C



VIêm gan siêu vi C là tình trạng nhiễm trùng của gan gây ra bởi virus
viêm gan C (hepatitis C virus, viết tắt là HCV). Hệ miễn dịch của cơ
thể rất khó loại bỏ loại virus này ra khỏi cơ thể, và do đó nhiễm virus
viêm gan C thường tiến triển thành mạn tính. Qua nhiều thập kỷ,
nhiễm trùng mạn tính HCV gây hủy hoại gan và có thể gây suy gan ở
nhiều người. Tại Hoa Kỳ, số lượng ca mới bị nhiễm HCV đã giảm
xuống trong vòng 10 năm qua từ đỉnh điểm vào khoảng 200.000
trường hợp mỗi năm cho đến 19.000 trường hợp trong năm 2006.
Khi virus lần đầu tiên xâm nhập cơ thể thường sẽ không gây ra triệu
chứng gì cả. Trên 85% trường hợp mới bị nhiễm không thể loại bỏ
virus ra khỏi cơ thể được và trở nên mạn tính. Tại Hoa Kỳ, có hơn 3
triệu người bị nhiễm HCV mạn tính. Bệnh thường xảy ra nhất ở
những người từ 40 đến 60 tuổi, phản ánh tỷ lệ nhiễm cao vào những
năm 1970 và 1980. Có khoảng 8.000 đến 10.000 người tử vong mỗi
năm tại Hoa Kỳ do viêm gan siêu vi C. Viêm gan siêu vi C là nguyên
nhân hàng đầu khiến bệnh nhân phải ghép gan tại Hoa Kỳ và là yếu
tố nguy cơ của ung thư gan.

Tính chất sinh học của virus viêm gan C
HCV là một trong một số loại virus có thể gây ra viêm gan. Nó không
có họ hàng với những loại virus thường gây viêm gan khác (virus
viêm gan A hoặc virus viêm gan B). HCV là thành viên của họ
Flaviviridae. Những thành viên khác cũng thuộc họ này bao gồm
những loại virus gây sốt vàng và sốt dengue.
Tất cả những loại virus thuộc họ này đều có RNA là vật liệu di truyền.
Tất cả các virus viêm gan C đều có một lớp vỏ ngoài và bên trong
chứa các enzyme và các protein giúp cho virus sinh sản bên trong


các tế bào của cơ thể, đặc biệt là ở các tế bào gan.
Mặc dù tất cả các virus viêm gan C đều có chung một cấu trúc cơ
bản, nhưng có ít nhất 6 nhóm virus khác nhau có kiểu di truyền
(genotype) khác nhau. Tại Hoa Kỳ thì genotype 1 là loại HCV thường
gặp nhất. Thậm chí trong mỗi genotype cũng có một số biến thể khác
nhau (chẳng hạn như genotype 1a và 1b). Phân loại genotype đóng
vai trò quan trọng trong hướng dẫn điều trị do một số genotype đáp
ứng với điều trị tốt hơn là những loại khác. Tính đa dạng về mặt di
truyền của HCV là một trong những lý do tại sao rất khó phát triển
một loại vaccine hiệu quả.

Gan tổn thương như thế nào ở bệnh viêm gan siêu vi C?
Sự hiện diện của HCV trong gan kích thích hệ miễn dịch của cơ thể
gây ra tình trạng viêm. Theo thời gian (thường là vài thập kỷ), tình
trạng nhiễm trùng kéo dài có thể dẫn đến hóa sẹo. Tình trạng hóa
sẹo quá mức ở gan được gọi là xơ gan. Khi gan bị xơ hóa, nó sẽ
không thể thực hiện chức năng bình thường của mình được nữa
(suy gan) và dẫn đến những biến chứng nặng nề và thậm chí có thể
gây tử vong. Xơ gan có nhiều nguy cơ dẫn đến ung thư.

Virus viêm gan C lan truyền như thế nào và làm sao để phòng
ngừa sự lây lan đó?
Vrus viêm gan C lây truyền nhiều nhất là do vô ý tiếp xúc với máu bị
nhiễm.
 Đường lây truyền thường gặp nhất là xài chung kiêm tiêm
giữa những người nghiện thuốc.
 Những nhân viên y tế vô ý bị đâm kim vào người cũng có
thể bị lây truyền virus.
 Nguy cơ trung bình bị nhiễm HCV do bị kim tiêm bị nhiễm
đâm phải là 1.8% (có biên độ từ 0% đến 10%).

 Trước năm 1992, một số người vô tình bị nhiễm do được
truyền máu hoặc các sản phẩm của máu. Từ năm 1992 trở về
sau, tất cả các sản phẩm của máu đều được kiểm tra HCV trước
và những trường hợp bị nhiễm HCV do truyền máu hiện nay rất
hiếm khi xảy ra.
 HCV cũng có thể truyền từ mẹ sang bào thai. Xấp xỉ 4 trong
số mỗi 100 trẻ nhũ nhi có mẹ bị nhiễm HCV bị lây truyền loại
virus này từ mẹ.
 Có một số ít trường hợp bị nhiễm qua quan hệ tình dục.
Nguy cơ lây truyền HCV từ người bệnh sang người bạn tình
không bị bệnh khi quan hệ không sử dụng bao cao su trong suốt
cuộc đời xấp xỉ khoảng từ 1 đến 4%.
 Cuối cùng, có những trận dịch viêm gan siêu vi C xảy ra khi
các dụng cụ sắc bén được sử dụng nhiều lần giữa các bệnh
nhân với nhau mà không được chùi rửa đúng cách.
Có thể phòng ngừa sự lây truyền HCV theo một số cách.
 Có những chương trình được thực hiện nhằm phòng tránh
sử dụng kim tiêm chung giữa các con nghiện. Những chương
trình trao đổi kim tiêm và can thiệp bằng cách giáo dục cũng làm
giảm những hành vi có nguy cơ cao. Tuy nhiên, cộng đồng
những người nghiện thuốc rất khó để tiếp cận, và tỷ lệ bị nhiễm
HCV vẫn còn cao giữa những người này (30% số người trẻ
nghiện thuốc).
 Đối với các nhân viên y tế, những kỹ thuật dùng kim an
toàn cũng được triển khai để làm giảm tỷ lệ bị đâm kim do vô ý.
Những ống chích mới đều có riêng một kim tiêm có vỏ bao ở bên
ngoài để tránh số lần tự thay vỏ bao kim bằng tay khi rút máu và
làm giảm nguy cơ bị kim đâm.
 Không có một phương pháp rõ ràng để ngăn ngừa lây
truyền HCV từ mẹ sang con.

 Những người có nhiều bạn tình nên sử dụng các biện pháp
an toàn tình dục như bao cao su để giới hạn nguy cơ nhiễm HCV
cũng như các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.
 Những cặp chỉ có 1 vợ/1 chồng nên làm giảm nguy cơ lây
truyền bằng các dùng bao cao su khi giao hợp. Một số cặp có thể
quyết định dùng và có thể một số cặp không thích.
 Những xét nghiệm tầm soát trên các sản phẩm của máu đã
loại bỏ hầu như toàn bộ nguy cơ bị nhiễm do truyền máu, theo
CDC đánh giá là nguy cơ bị nhiễm giảm xuống còn thấp hơn 1
phần 2 triệu sản phẩm của máu được truyền.
 Những người bị nhiễm HCV không nên dùng chung dao
cạo râu và bàn chải đánh răng với người khác.
 Yếu tố cơ bản cần thực hiện là các bác sĩ cần phải theo
hướng dẫn của nhà sản xuất trong việc làm sạch và sát khuẩn
các dụng cụ và những dụng cụ sắc nhọn sử dụng 1 lần rồi bỏ cần
phải được xử lý đúng cách.
Điều quan trọng cần phải nhớ là HCV không lây truyền qua những
tiếp xúc tự nhiên. Do đó, bắt tay, hôn và ôm không phải là những
hành vi làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm. Không cần thiết phải thực
hiện những biện pháp cô lập đặc biệt đối với những bệnh nhân bị
nhiễm.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×