Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

xây dựng chương trình quảng cáo của công ty SEAMASTER 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.95 KB, 63 trang )


LỜI GIỚI THIỆU
1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về quảng cáo, để áp dụng lý luận vào tình hình thực tế ở
Công Ty để “Xây Dựng Chương Trình Quảng Cáo Sản Phẩm Sơn SEAMASTER Tại
Công Ty TNHH Sơn Seamaster (VN)”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là toàn bộ sản xuất kinh doanh sản phẩm sơn và công tác
quảng cáo tại Công Ty.
Phạm vi nghiên cứu là sản phẩm sơn, ngân sách, lịch trình, thông điệp, phương
tiện quảng cáo
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp diễn dịch và
phương pháp quy nạp, phương pháp thống kê, so sánh
Trang
1

PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢNG CÁO
I. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA QUẢNG CÁO
1. KHÁI NIỆM
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về quảng cáo, sau đây một số định nghĩa:
‘Theo Tiến sĩ Paul E. Adams, quảng cáo có nghĩa là yêu cầu khách hàng, mua
hàng.’
1
‘Theo Philip Kotler thì quảng cáo là mọi hình thức trình bày gián tiếp và
khuyếch trương ý tưởng, hàng hoá và dịch vụ được người bảo trợ nhất định trả tiền.’
2
Quảng cáo là cách thức giới thiệu nhãn hiệu sản phẩm của mình cho mọi người
biết.
Quảng cáo là hình thức thông tin có tính chất phi cá nhân cho sản phẩm nhằm


gợi mở và khuyến khích nhu cầu. Định nghĩa này đơn giản và có sự phân biệt rõ ràng.
Đối với tổ chức hoặc Công Ty muốn giới thiệu những thông tin về công ty mình thì họ
phải quảng cáo, để làm được điều đó thì phải chi tiền. Nếu phương tiện truyền thông
không được trả tiền thì không được gọi là quảng cáo. Tất cả những quảng cáo đều
nhằm cố gắng thuyết phục khách hàng tiêu dùng sản phẩm. Mục đích của thông tin
quảng cáo là làm cho khách hàng yêu thích nhãn hiệu và điều cuối cùng là họ sẽ tiêu
dùng sản phẩm đó. Nếu ý tưởng quảng cáo thiếu thuyết phục thì sự truyền thông đó
chỉ mang tính chất thông tin và điều đó sẽ không được xem là quảng cáo.
« Qua các định nghĩa trên cho ta hiểu thế nào là quảng cáo, bây giờ ta cần phân
biệt, giữa mục quảng cáo và chiến dịch quảng cáo. Mục quảng cáo đề cập đến một
thông điệp cụ thể nhằm thuyết phục người xem. Còn chiến dịch quảng cáo là một chuỗi
quảng cáo được kết hợp với nhau theo một chủ đề thống nhất. »
1
Http//www.marketingchienluoc.com
2
Quản trị marketing, Philip Kotler, Nhà xuất bản thống kê, Năm 2003
Trang
2

2. VAI TRÒ CỦA QUẢNG CÁO.
Quảng cáo nó có một số vai trò sau:
- Vai trò của quảng cáo là đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm
- Quảng cáo có thể sử dụng để tạo ra một hình ảnh lâu bền cho một sản phẩm.
- Quảng cáo là phương thức có hiệu quả để vươn tới nhiều người mua phân tán
về địa lý với chi phí thấp cho một lần tiếp xúc
- Quảng cáo kích thích sự mua sắm, kích thích nhu cầu, thu hút quyến rũ khách
hàng.
- Sự trung thành đi vớ một thương hiệu làm cho khách hàng tiếp tục mua sản
phẩm, dịch vụ.
- Quảng cáo có vai trò xác lập hoặc thay đổi hình tượng công ty trong công

chúng.
3. CHỨC NĂNG CỦA QUẢNG CÁO
Trong một số chức năng mà quảng cáo có thể thực hiện trong thị trường đó là:
- “ Quảng cáo hướng vào doanh nghiệp có thể giúp xây dựng uy tín cho công ty
và các sản phẩm.
- Quảng cáo đặc biệt có hiệu quả trong việc tạo nên ý thức trong số những khách
hàng tiềm năng. Nhân viên bán hàng nào tiếp xúc với một đối tượng chưa có ý thức về công
ty hay sản phẩm của mình sẽ thấy công việc chào hàng của mình khó khăn hơn rất nhiều so
với một đồng nghiệp đang xúc tiến từ một ý thức ban đầu của khách hàng tiềm năng.
- Quảng cáo có thể giúp nhân viên bán hàng trong việc tiếp thị sản phẩm mới
bằng cách chia sẻ một phần gánh nặng của việc giải thích những đặc điểm của sản
phẩm và việc xây dựng hiểu biết về công ty.
Trang
3

- Quảng cáo sử dụng phiếu trả lời có thể hé mở những ý tưởng cho lực lượng
bán hàng.”
3
- Tạo ra sự biết đến: Các khách hàng tiềm năng chưa biết đến doanh nghiệp hay
sản phẩm có thể từ chối không tiếp đại diện bán hàng.
- Tạo sự biết đầy đủ: Nếu sản phẩm có những tính chất mới thì quảng cáo đảm
nhận việc giải thích những tính chất đó một cách hiệu quả.
- Nhắc nhở có hiệu quả: Nếu khách hàng tiềm năng biết về sản phẩm như chưa
sẵn sàng mua thì quảng cáo nhắc nhở sẽ kinh tế hơn viếng thăm chào hàng
- Hướng dẫn: những quảng cáo có phát những cuốn sách nhỏ và ghi số điện
thoại của công là một phương thức hướng dẫn có hiệu quả đối với người đại diện bán
hàng.
- Chính thức hoá: các đại diện bán hàng có thể sử dụng những tờ quảng cáo về
doanh nghiệp trong những tạp chí hàng đầu có thể lấy rời ra để chính thức hoá doanh
nghiệp và sản phẩm của mình.

- Cam đoan một lần nữa: Quảng cáo có thể nhắc nhở khách hàng về cách sử
dụng sản phẩm và cam đoan một lần nữa về hàng hoá mà đã mua.
- Quảng cáo làm giảm sự bất đồng sau khi mua. Khi kh ách
II. TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH QUẢNG CÁO SẢN
PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
Khi xây dựng chương trình quảng cáo các, các nhà quảng trị phải bắt đầu từ việc
xác định khán thính giả mục tiêu và động cơ của người tiêu dùng. Sau đó phải thông
qua năm quyết định quan trọng là: Xác định mục tiêu quảng cáo, quyết định ngân sách,
quyết định thông điệp, quyết định phương tiện, đánh giá kết quả.
3
Bán hàng và quản trị bán hàng,
Trang
4

1. XÁC ĐỊNH KHÁN THÍNH GIẢ TRỌNG ĐIỂM
Xác định khán thính giả mục tiêu là khâu đầu tiên và quan trọng trong quá trình
quảng bá sản phẩm thương hiệu. Khán thính giả có thể là những người mua tiềm ẩn đối
với sản phẩm của Công Ty, người sử dụng hiện tại, người quyết định hay người ảnh
hưởng kể cả công chúng vì họ có thể gây ảnh hưởng đến quyết định mua hàng cũng như
gây ấn tượng đến thương hiệu. Nhận dạng khán thính giả mục tiêu đóng vai trò quan trọng
trong các quyết định tiếp theo như thông tin những gì? Như thế nào? Khi nào? Ở đâu?
Sau khi xác định được khán thính giả trọng điểm ta phải xác định được những
phản ứng của khán thính giả. Tất nhiên phản ứng đáp lại là mua hàng và hài lòng.
Nhưng hành vi mua hàng là kết quả cuối cùng của một quá trình rất dài để thông qua
quyết định của người tiêu dùng người làm quảng cáo làm thế nào để khán giả mục tiêu
lên giai đoạn sẵn sàng mua cao hơn.
Người làm truyền thông có thể tìm kiếm ở công chúng phản ứng đáp lại về nhận
thức, về tình cảm hay về hành vi. Nghĩa là người làm truyền thông có thể muốn khắc
sâu vào tâm trí người tiêu dùng một điều gì đó thay đổi thái độ người tiêu dùng hay
thúc đẩy người tiêu dùng đến chỗ hành động.

Ở đây ta giả thuyết rằng người mua để tâm rất nhiều vào sản phẩm và nhận thức
được sự khác biệt rất nhiều trong loại sản phẩm đó. Vì vậy ta sử dụng mô hình ‘thứ bậc
của hiệu quả’ (Nhận thức, cảm nhận và hành vi) và ta mô tả sáu trạng thái mua của
người mua. Đó là : Biết đến, hiểu biết, thích ưa thích, tin tưởng và mua.
- Biết đến : Nếu hầu hết khán thính giả mục tiêu không biết đến sự vật đó, thì
nhiệm vụ của quảng cáo là phải tạo ra sự biết đến sự vật đó, dù chỉ là biết đến thôi.
Việc này có thể thực hiện bằng những thông điệp đơn giản và nhắc lại nhiều lần tên đó.
Cho dù chỉ có thể làm như vậy cũng mất thời gian.
- Hiểu biết : Nếu khán giả mục tiêu có thể biết đến doanh nghiệp, sản phẩm
nhưng không hiểu biết nhiều. Khi đó người làm marketing chọn sự hiểu biết về sản
phẩm làm mục tiêu hàng đầu của truyền thông.
Trang
5

- Thích : Nếu khán giả mục tiêu hiểu biết về sản phẩm thì họ cảm thấy như thế
nào về nó? Nếu khán thính giả không thích nó thì người truyền thông phải tìm hiểu vì
sao. Sau đó triển khai một chiến dịch quảng cáo nhằm gợi lên cảm giác tốt đẹp. Nếu
Quan điểm không ưng thuận từ vấn đề thực tế của doanh nghiệp, thì chỉ riêng chiến
Dịch quảng cáo không khắc phục được nhược điểm đó. Trước hết doanh nghiệp phải
Khắc phục vấn đề thực tế của mình rồi sau đó mới thông báo đối với khán giả mục
tiêu. Quan hệ tốt với khán giả mục tiêu đòi hỏi phải đảm bảo lời nói đi đồi với việc
làm.
- Ưa thích : khán giả mục tiêu có thể thích sản phẩm, nhưng không ưa thích nó
hơn các sản phẩm khác. Trong trường hợp này có thể khuyếch trương chất lượng, giá
cả công dụng và những tính chất cứa sản phẩm.
- Tin tưởng : khán giả mục tiêu có thể ưa thích một sản phẩm cụ thể nhưng
không tin tưởng là sẽ mua nó. Công việc của người truyền thông là xây dựng niềm tin.
- Mua hàng : Cuối cùng có một số người trong khán thính giả mục tiêu có thể
tin Tưởng nhưng không hoàn toàn dứt khoát mua hàng. Họ có thể chờ đợi thêm thông
tin hay có ý đồ muộn hơn. Người truyền thông phải dẫn dắt để người tiêu dùng đó thực

hiện bước cuối cùng.
Việc xác định những phản ứng đáp lại là mục tiêu rất quan trọng khi xây dựng
một chương trình quảng cáo hiệu quả.
2. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU QUẢNG CÁO
Sau khi xác định khán thính giả mục tiêu, bước tiếp theo là xác định mục tiêu
quảng cáo. Mục tiêu quảng cáo luôn luôn gắn liền với mục tiêu marketing và cuối cùng
của mục tiêu quảng cáo là doanh thu cho sản phẩm- thương hiệu. Tuy nhiên tuỳ theo
trường hợp cụ thể có mục tiêu quảng cáo khác nhau. Những mục tiêu này phải xuất
phát từ các quyết định trước đó về thị trường mục tiêu, định vị trí trong thị trường và
marketing-mix. Có thể sắp xếp mục tiêu quảng cáo thành các nhóm mục tiêu thông tin,
thuyết phục, nhắc nhở.
Trang
6

2.1. Mục Tiêu Thông Tin
Quảng cáo thông tin được dùng trong giai đoạn giới thiệu sản phẩm thì mục tiêu
chủ yếu là tạo nên nhu cầu ban đầu. Gồm có một số mục quảng cáo thông tin chủ yếu
sau :
- Thông báo cho thị trường mục tiêu về một sản : Khi công ty tung ra một sản
phẩm mới, một dịch vụ mới thì cần phải thống báo cho khách hàng, hay giải thích về
nguyên tắc tắc hoạt động của sản phẩm.
- Thông tin về giá cả : Khi công ty thay đổi giá cả, tăng giá hoặc hạ giá thì cần
Phải thông báo cho khách hàng mục tiêu
- Thông tin về công ty : Khi công chúng có một hình ảnh, ấn tượng không tất
về công ty khi đó quảng cáo có vai trò uốn nắn những ấn tượng không đúng. Hay tạo
dựng hình ảnh công ty trong công chúng mục tiêu.
2.2. Mục tiêu thuyết phục
Quảng cáo thuyết phục trở nên quan trọng ở giai đoạn cạnh tranh, khi mục tiêu
của doanh nghiệp là tạo nên nhu cầu có chọn lọc đối với nhãn hiệu cụ thể. Hầu hết các
quảng cáo thuộc loại này. Sau đây là một số mục tiêu của quảng cáo thuyết phục.

- Hình thành sự ưa thích nhãn hiệu
- Khuyến khích chuyển sang nhãn hiệu của mình
- Thay đổi nhận thức của người mua về các tính chất của sản phẩm
- Thuyết phục người mua ngay
2.3. Mục tiêu nhắc nhở
Quảng cáo nhắc nhở vô cùng quan trọng đối với những sản phẩm trong thời kỳ
sung mãn của chu kỳ sống. Một hình thức gần đây với loại quảng cáo này là quảng cáo
củng cố nhằm cam đoan với người mua hiện tại rằng họ đã lựa chọn đúng. Một số mục
tiêu quảng cáo nhắc nhở sau :
Trang
7

- Nhắc nhở người mua là sắp tới họ sẽ cần sản phẩm đó
- Nhắc nhở người mua về địa điểm có thể mua sản phẩm đó
- Nhắc nhở người mua về sự có mặt của sản phẩm trong thời kỳ trái mùa vụ
- Duy trì sự biết đến sản phẩm ở mức độ cao
Việc lựa chọn mục tiêu quảng cáo cần căn cứ vào kết quả phân tích kỹ lưỡng từ
hình thức marketing hiện tại. Chẳng hạn, nếu một nhóm sản phẩm ở thời kỳ sung mãn
và doanh nghiệp là người đang dẫn đầu thị trường, và nếu mức độ sử dụng nhãn hiệu
thấp, thì mục tiêu thích hợp là phải kích thích sử dụng nhãn hiệu đó nhiều hơn. Mặt
khác, nếu nhóm sản phẩm đó là mới và doanh nghiệp là người không phải dẫn đầu thị
trường, nhưng nhãn hiệu của nó tốt hơn của người dẫn đầu, thì mục tiêu thích hợp là
thuyết phục thị trường về tính ưu việt của sản phẩm đó.
3. QUYẾT ĐỊNH NGÂN SÁCH QUẢNG CÁO
Sau khi xác định được khán thính giả mục tiêu và mục tiêu quảng cáo, quyết
định tiếp theo là quyết định về ngân sách. Có thể xác định ngân sách cho quảng cáo
theo bốn phương pháp chủ yếu là: Ấn định tỷ lệ trên phần trăm doanh thu, căn cứ vào
khả năng, cân bằng cận tranh, căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ.
3.1. Xác định ngân sách theo phương pháp phần trăm doanh thu
Nhiều doanh nghiệp xác định chi phí cổ động của mình bằng tỷ lệ phần trăm

trên doanh thu (trong năm hay dự kiến) hay của giá bán.
Phương pháp này có ưu điểm: Thứ nhất, có nghĩa là chi phí quảng cáo có thể
thay đổi tuỳ theo khả năng của doanh nghiệp. Điều này thoả mãn được những người
quản trị tài chính có quan điểm “chi phí phải gắn chặt với biến động mức tiêu thụ của
doanh nghiệp trong chu kỳ kinh doanh”. Thứ hai, nó khuyến khích ban lãnh đạo nghĩ
đến mối quan hệ giữa chi phí quảng cáo, giá bán và lợi nhuận trên đơn vị sản phẩm.
Thứ ba, nó khuyến khích ổn định cạnh tranh ở mức độ mà các doanh nghiệp chi cho
quảng cáo một tỷ lệ phần trăm doanh thu của mình xấp xỉ ngang nhau.
Trang
8

Mặc dù vậy nhưng phương pháp này có một nhược điểm. Nố dẫn đến chỗ xác
định ngân sách căn cứ vào ngân quỹ hiện có chứ không phải theo những cơ hội thị
trường. Nó không khuyến khích việc tiến hành quảng cáo không theo chu kỳ hay chi
phí tiến công. Sự phụ thuộc ngân sách quảng cáo vào việc biến động của mức tiêu thụ
hằng năm sẽ gây trở ngại cho việc lập kế hoạch dài hạn. Phường pháp này không tạo ra
căn cứ logic để lựa chọn một tỷ lệ phần trăm cụ thể, ngoại trừ những gì đã làm được
trong quá khứ hay những gì mà đối thủ cạnh tranh đang làm. Cuối cùng nó không
khuyến khích xây dựng ngân sách quảng cáo trên cơ sở xác định xem mỗi sản phẩm và
thị trường xứng đáng chi bao nhiêu.
3.2. Tuỳ thuộc vào khả năng của công ty
Nhiều doanh nghiệp xác định ngân sách quảng cáo mà họ có thể dành cho hoạt
động này.
Phương pháp xác định ngân sách theo kiểu này hoàn toàn bỏ qua vai trò của
quảng cáo như một khoản đầu tư và ảnh hưởng tức thời của quảng cáo đến khối lượng
tiêu thụ. Nó dẫn đến ngân sách quảng cáo hàng năm không xác định, gây khó khăn cho
lập kế hoạch quảng cáo dài hạn.
3.3. Theo mục tiêu và công việc
Phương pháp này đòi hỏi những người làm marketing phải xây dựng ngân sách
quảng cáo của mình trên cơ sở xác định mục tiêu cụ thể và những nhiệm vụ cần phải

hoàn thành để đạt được mục tiêu rồi ước tính chi phí để thực hiện nhiệm vụ đó. Tổng
các chi phí này là ngân sách dự toán cho quảng cáo.
- Xác định chỉ tiêu thị phần.
- Xác định số phần trăm thị trường mà việc quảng cáo cần đạt tới.
- Xác định phần trăm khách hàng tiềm năng biết đến cần thuyết phục dùng thử
nhãn hiệu.
- Xác định ấn tượng quảng cáo tính trên phần trăm số người dùng thử.
Trang
9

- Xác định số điểm chỉ số tổng hợp cần đạt được. Một điểm chỉ số tổng hợp là
một lần tiếp xúc trên % công chúng mục tiêu. Ví dụ một doanh nghiệp cần đạt 30 lần
tiếp xúc cho 70% công chúng thì nó cần 3500 điểm chỉ số tổng hợp.
- Xác định ngân sách quảng cáo cần thiết căn cứ vào chi phí bình quân cho một
điểm chỉ số tổng hợp.
Phương pháp này có ưu điểm là đòi hỏi ban lãnh đạo phải trình bày rõ ràng
những giả thiết với quan hệ giữa tổng chi phí, mức độ tiếp xúc, tỷ lệ dùng thử và mức
sử dụng thường xuyên.
Vấn đề chủ yếu là cần dành cho quảng cáo trọng số bằng bao nhiêu trong toàn
bộ promotion-mix, câu trả lời còn phụ thuộc vào chỗ sản phẩm của doanh nghiệp đang
ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống của sản phẩm, chúng có phải là hàng tiêu dùng
thông thường hay sản phẩm khác biệt, chúng có phải là nhu cầu thường xuyên hay cần
phải bán đi. Về lý thuyết, ngân sách quảng cáo phải xác định ở mức đảm bảo lợi nhuận
biên tế từ đồng quảng cáo. Tuy nhiên việc thực hiện nguyên tắc này không dễ dàng.
3.4.Ngang bằng cạnh tranh
Một số doanh nghiệp xác định ngân sách quảng cáo của mình theo nguyên tắc
đảm bảo ngang bằng với chi phí của đối thủ cạnh tranh. Họ tin chắc rằng bằng cách chi
một tỷ lệ phần trăm doanh thu bán hàng cho quảng cáo ngang bằng với các đối thủ
cạnh tranh họ sẽ duy trì được thị phần của mình.
Quan điểm này cho rằng, mức chi phí của các đối thủ cạnh tranh thể hiện sự

sáng suốt tập thể của ngành, và việc duy trì cân bằng cạnh tranh giúp ngăn chặn các
cuốc chiến tranh quảng cáo. Tuy nhiên, không có cơ sở nào để tin rằng các đối thủ
cạnh tranh biết rõ họ cần phải chi bao nhiêu cho quảng cáo. Bởi vì các doanh nghiệp
rất khác nhau về danh tiếng, nguồn lực, cơ hội và mục tiêu marketing.
4. LỰA CHỌN PHƯƠNG TIỆN QUẢNG CÁO
Công việc tiếp theo của người làm quảng cáo là lựa chọn phương tiện quảng
cáo. Quá trình này gồm các bước: quyết định về phạm vi, tần suất và cường độ tác
Trang
10

động, lựa chọn những phương tiện truyền thông chủ yếu, quyết định lịch trình sử dụng
phương tiện truyền thông và phân bố phương tiện truyền thông theo địa lý.
4.1. Quyết định về phạm vi, tần suất và cường độ tác động
Để chọn phương tiện truyền thông, người quảng cáo cần biết rõ mình muốn
quảng cáo với phạm vi nào, tần suất lặp lại là bao nhiêu, và cường độ tác động đến
mức nào đó để đạt được những mục tiêu quảng cáo.
Phạm vi quảng cáo (R). Biểu thị số người hay hộ gia đình tiếp xúc với mục
quảng cáo cụ thể trên phương tiện truyền thông ít nhất một lần trong một thời kỳ nhất
định. Người quảng cáo phải định rõ chiến dịch quảng cáo của mình sẽ đến được bao
nhiêu người trong thị trường mục tiêu trong một thời gian nào đó.
Tần suất quảng cáo (F) là số lần một người hay hộ gia đình tiếp xúc với quảng
cáo trong một khoảng thời gian nhất định. Người quảng cáo phải xác định rõ xem một
người hay hộ gia đình trong thị trường mục tiêu, trong thời gian nào đó sẽ nhận được
quảng cáo mấy lần. Cần phân biệt số lần tiếp xúc với quảng cáo của người tiêu dùng và
số lần xuất hiện quảng cáo trên các phương tiện truyền thông.
Cường độ tác động (I) là giá trị định lượng của một lần tiếp xúc qua một
phương tiện truyền thông nhất định. Người quảng cáo phải quyết định mức độ tác động
mà quảng cáo phải có khi đến được với khách hàng mục tiêu. Quảng cáo trên truyền
hình thường có tác động mạnh hơn truyền thanh, vì truyền hình vừa có âm thanh và
hình ảnh.

Mối quan hệ giữa phạm vi, tần suất và cường độ tác động được sử dụng trong
các chỉ tiêu sau:
Tổng số lần tiếp xúc (E) là tích số của phạm vi và tần xuất trung bình, tức là
E=RxF
Số lần tiếp xúc có trọng số (WE) là tích số của phạm vi và tần suất trung bình
cà cường độ tác động trung bình, tức là WE= RxFxI.
Trang
11

Với một ngân sách nhất định, người làm quảng cáo phải biết khéo léo kết hợp
phạm vi, tần suất và cường độ tác động để việc sử dụng các phương tiện quảng cáo đạt
hiệu quả cao nhất. Phạm vi là quan trọng hơn khi tung ra những sản phẩm mới, những
nhãn hiệu phòng vệ bên sườn, những nhãn hiệu nổi tiếng, những nhãn hiệu mua thường
xuyên, hay khi theo đuổi một thị trường mục tiêu mới. Tần suất quan trọng hơn khi có
những đối thủ cạnh tranh, sự phản đối mạnh của người tiêu dùng, hay mua theo định
kỳ.
4.2. Lựa chọn phương tiện quảng cáo
Người lựa chọn phương tiện quảng cáo phải kết hợp các khả năng của các loại
phương tiện truyền thông có thể đạt đến phạm vi, tần suất và cường độ tác động nào.
Những loại phương tiện chính, theo cường độ quảng cáo được xếp theo thứ tự là báo
chí, truyền hình, thư trực tiếp, truyền thanh, tạp chí, quảng cáo ngoài trời. Mỗi phương
tiện đều có một số ưu và hạn chế sau:
Ưu Nhược
Truyền hình: Gây chú ý cao, bắt mắt; hấp dẫn; Làm
người tiêu dùng liên tưởng đến chất
lượng; Có thể kết hợp nghe, nhìn, từ
ngữ và hành động, tác động mạnh
Chi phí cao, khán thính giả ít chọn lọc,
thời gian tồn tại ngắn
Truyền

thanh
Đại chúng, Dễ nhắm vào một đối tượng
người nghe nào đó (bằng cách chọn đài,
chương trình), không đắt, có thể thôi
thúc khách hàng mua một sản phẩm
đang quảng cáo ngay.
Không nhìn thấy, không chứng minh sản
phẩm được; Khách hàng không phải lúc
nào cũng tập trung chú ý.
Báo Được đánh giá là đáng tin cậy nhất; Có
đủ diện tích để diễn đạt thông điệp của
mình đến khách hàng; có thể sử dụng
hình ảnh; Có thể nhắm vào một đối
tượng nhân khẩu học nào đó căn cứ trên
Khó nhắm vào các đối tượng dựa trên
các yếu tố khác ngoài yếu tố địa lý; thời
gian có hiệu lực ngắn (khách hàng xé bỏ
trong ngày); Hình ảnh chất lượng thấp
Trang
12

yếu tố địa lý
Tạp chí Có thể nhắm vào đối tượng người đọc
dựa trên nhân khẩu học hoặc những mối
quan tâm đặc biệt; Thời gian hiệu lực
lâu vì người đọc có thể giữ lại, hoặc cắt
trang họ thích ra dáng nơi khác
Thời gian chuẩn bị lâu
Thư tín Cho phép nhắm chính xác vào một đối
tượng khách hàng nào đó; Đủ diện tích

cho những thông điệp phức tạp; Có thể
kèm thêm phiếu giảm giá; Có thể gởi
mẫu hàng
Thể bị xem là rác rưởi
Quảng cáo
ngoài trời
Có thể nhắm vào một khu vực địa lý
nhất định; Có thể đặt gần nơi bán hàng;
Nhìn thấy nhiều lần.
Thông điệp phải ngắn gọn vì khách hàng
thường đi lướt qua; Đối tượng nhìn thấy
thường chỉ giới hạn trong những người
có việc đi ngang qua khu vực ấy
Thư tín
Quảng cáo
trên internet
Tương đối chính xác trong việc nhắm
vào một đối tượng nào đó thậm chí có
thể điều chỉnh thông điệp nhắm đến
từng cá nhân; nếu bạn có được cơ hội,
thì khả năng được đọc rất cao; Khả
năng ứng dụng công nghệ nghe nhìn rất
đa dạng
Có thể bị cắt bỏ ngay cả trước khi đọc;
Ứng dụng công nghệ nghe nhìn hiện đại
có thể làm cho những người có cấu hình
yếu không đọc được; Có thể bị xem là
thư điện tử rác rưởi
Ngoài các đặc điểm của phương tiện truyền thông, người lựa chọn phương tiện
cần phải chú ý một số yếu tố quan trọng khác nữa đó là: Thói quen sử dụng phương

tiện Truyền thông của công chúng mục tiêu, sản phẩm, thông điệp, chi phí.
Trang
13

4.3. Quyết định lịch trình sử dụng phương tiện quảng cáo
Phần lớn các doanh nghiệp quyết định lịch trình quảng cáo trên các phương tiện
truyền thông theo thời vụ hay theo chu kỳ kinh doanh, chứ không rải đều trong năm.
Tiếp theo nó phải quyết định nó phải quảng cáo trước hay vào thời vụ bán hàng; quảng
cáo phải mạnh hơn, tương ứng hay yếu hơn doanh số của mỗi thời vụ đó. Người quảng
cáo cáo còn phải lựa chọn nên quảng cáo đều đặn trong một thời gian nhất định, hay
quảng cáo ngắt quãng, dồn dập trong một khoảng thời hạn ngắn của khoảng thời gian
đó.
Lịch trình quảng cáo có hiệu quả phụ thuộc vào các mục tiêu truyền thông, đặc
điểm của sản phẩm, khách hàng mục tiêu kênh phân phối và những yếu tố marketing
khác. Khi tung một sản phẩm mới ra thị trường, người quảng cáo phải lựa chọn các loại
quảng cáo liên tục, quảng cáo tập trung, quảng cáo lướt qua và quảng cáo từng đợt.
Quảng cáo liên tục là đảm bảo lịch trình quảng cáo đều đặn trong suốt thời
gian nhất định. Chi phí cho quảng cáo này thường cao và không nên áp dụng cho
những sản phẩm mua sắm theo thời vụ, mà chỉ áp dụng trong trường hợp cần mở rộng
thị trường và những sản phẩm mua thường xuyên.
Quảng cáo tập trung đòi hỏi phải chi toàn bộ kinh phí quảng cáo trong một
thời kỳ, và chỉ phù hợp với những sản phẩm mua theo thời vụ.
Quảng cáo lướt qua là kiểu quảng cáo chỉ phát sống trong một thời gian nào
đó, tiếp đến là ngừng quảng cáo, và lại tiếp tục quảng cáo vào thời gian tiếp theo. Kiểu
này được sử dụng trong trường hợp kinh phí có hạn.
Quảng cáo từng đợt là kiểu quảng cáo liên tục với cường độ thấp nhưng được
cũng có bằng những đợt quảng cáo có cường độ cao. Quảng cáo từng đợt khai thác
điểm mạnh của quảng cáo liên tục và quảng cáo lướt qua để tạo ra một sự dung hoà
trong lịch trình quảng cáo. Những người ủng hộ quảng cáo từng đợt cho rằng công
chúng sẽ hiểu được thông điệp thấu đáo hơn mà vẫn tiết kiệm được chi phí.

Trang
14

4.4. Quyết định về phương diện địa lý của phương tiện quảng cáo
Doanh nghiệp phải quyết định phân bổ ngân sách quảng cáo cáo theo không
gian và thời gian. Doanh nghiệp có thể quyết định quảng cáo toàn quốc nó đăng quảng
cáo trên mạng truyền hình toàn quốc hay trong tạp chí và báo chí phát hành toàn quốc.
Doanh nghiệp cũng có thể quảng cáo trong phạm vi một vài địa phương khi nó đăng tải
các chương trình quảng cáo trên kênh truyền hình hay tạp chí và báo của địa phương
đó.
5. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢNG CÁO
Quảng cáo cần được đánh giá liên tục. Các nhà nghiên cứu dùng nhiều kỹ thuật
để đo lường hiệu quả truyền thông và doanh số tác động của quảng cáo.
5.1. Nghiên cứu hiệu quả truyền thông
Nghiên cứu hiệu quả quảng cáo nhằm tìm cách xác định một quảng cáo có
truyền đạt hiệu quả hay không. Phương pháp gọi tắt là trắc nghiệm văn bản quảng cáo
được thực hiện trước và sau khi đưa ra văn bản đó vào phương tiện truyền thông thực
sự. Có ba phương pháp chính để trắc nghiệm trước:
Đánh giá trực tiếp, tức là đề nghị người tiêu dùng đánh giá các phương án
quảng cáo khác nhau. Các kết quả đánh giá này được sử dụng để đánh giá mức độ chú
ý, độc hết, nhận thức, tác động và dẫn đến hành động quảng cáo. Mặc dù cách định
lượng này về tác dụng thực tế của quảng cáo ít tin cậy hơn những bằng chứng cụ thể,
nhưng số điểm đánh giá cao hơn và cho biết một quảng cáo có khả năng đạt hiệu quả
cao hơn.
Trắc nghiệm quảng cáo, yêu cầu người tiêu dùng xem hay nghe một loạt các
quảng cáo trong một thời gian cần thiết, sau đó đề nghị họ nhớ lại các quảng cáo đó và
nội dung của chúng. Mức độ ghi nhớ của họ cho thấy khả năng một quảng cáo được để
ý đến và thông điệp có dễ hiểu và dễ nhớ hay không.
Trắc nghiệm phòng thí nghiệm. Một số nhà nghiên cứu đã dùng các thiết bị để
ghi nhận phản ứng tâm sinh ly của người tiêu dùng đối với quảng cáo: nhịp tim, huyết

Trang
15

áp, sự giãn nở đồng tử, hiện tượng đổ mồ hôi . trắc nghiệm này đo lường khả năng thu
hút của quảng cáo chứ không đo được niềm tin, thái độ và dự định của khách hàng.
5.2. Nghiên cứu hiệu doanh số
Nghiên cứu hiệu quả truyền thông cho phép người quảng cáo nhận ra hiệu quả
truyền thông của quảng cáo, nhưng chưa phản ánh được gì về tác động của nó về
doanh số. Một quảng cáo làm tăng số người biết đến sản phẩm lên 20% và tăng sở
thích đối với nhãn hiệu lên 30% thì đã kéo doanh số lên bao nhiêu ?
Hiệu quả quảng cáo về doanh số khó đo lường hơn hiệu quả truyền thông.
Doanh số chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoài quảng cáo, như đặc điểm sản phẩm,
giá cả mức độ sẵn có của sản phẩm, ảnh hưởng của sản phẩm cạnh tranh .Những yếu
tố này càng ít và dễ kiểm soát thì việc đo lường hiệu quả của quảng cáo về doanh số
càng dễ dàng. Tác động về doanh số dễ đo lường nhất là khi bán theo thư đặt hàng và
khó đo lường nhất là khi quảng cáo cho nhãn hiệu hoặc kèm theo ý đồ xây dựng hình
ảnh doanh nghiệp. Các nghiên cứu cố gắng đo lường doanh số bằng những phân tích
thực nghiệm lẫn phân tích quá trình lịch sử.
III. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA QUẢNG CÁO VÀ ĐIỀU KIỆN ỨNG
DỤNG TẠI VIỆT NAM
Ngày này với sự phát triển như vũ bão của khao học kỹ thuật, đặc biệt là trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, vi điện tử . nó cung cấp cho nhiều phương tiện truyền
thông ra đời và lợi ích mà chúng mang lại cho xã hội loài người ngày càng nhiều hơn.
Sự ứng dụng của nó vào nhiều hoạt động đời sống của con người, đặc biệt là trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông ngày càng
phong phú và đa dạng hơn, đây là những phương tiện mà người làm marketing ứng
dụng để thực hiện các chương trình truyền thông với các khách hàng mục tiêu của
mình.
Ngày này quảng cáo trực tuyến tăng mạnh với sự phát triển của internet với
những lợi ích của nó mang khi ứng trong kinh doanh, đó là thương mại điện tử. Với

Trang
16

phương tiện truyền thông mới là internet, làm cho xu hướng của quảng cáo trên
internet ngày một gia tăng. Vì ưu điểm nổi bật nhất của nó là lựa chọn được chính xác
hơn so với các phương tiện khác về khách hàng mục tiêu, thông điệp được gửi đến
khách hàng mang tính cá nhân hoá hơn, như quảng cáo qua e-mail. Hình ảnh quảng cáo
được sống động hơn, như quảng cáo banner.
Quảng cáo ngoài trời cũng phát triển rất rầm rộ, với những pano, ap phích,
poster. Quảng cáo tại điểm bán cũng phát triển khá nhanh, những người làm marketing,
dùng nhiều phương thức trưng bày hàng hoá tại điểm bán, sao cho khách hàng đi đâu
trong quầy hàng của mình cũng nhìn thấy rõ nhất sản phẩm của mình. Bên cạnh đó,
quảng cáo qua catalog, trên đĩa CD-ROM, TV hay truyền hình thuê bao đang được
hình thành. Cùng với nhiều phương tiện để quảng cáo, ngân sách giành cho quảng cáo
của các công ty ngày một gia tăng, đặc biệt đối với những mặt hàng tiêu dùng thông
thường.
Tuy nhiên mức độ nào đó. Thì sức mạnh của quảng cáo trên truyền hình vẫn tồn
tại. Như một nhà quảng cáo đã nói”không có gì có thể so sánh nổi với truyền hình do
nó có khả năng tiếp xúc với khán giả rộng khắp. Các phương tiện truyền thông khác
không thể đống vai trò giải trí hay thông tin theo một cách đầy đủ hấp dẫn thư thế.”
Việt Nam là một nước tham gia kinh doanh trong nền kinh tế thị trường chưa
lâu, nên sự nhận thức đầy đủ về cơ chế thị trường, tư tưởng của cơ chế củ vẫn còn tồn
tại, do đó phần nào làm hạn chế sự cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt
là các doanh nghiệp nhà nước, trên nhiều khía cạnh khác nhau, đặc biệt là sự cạnh
tranh về khách hàng. Lý thuyết marketing đang còn mới mẻ đối với các doanh nghiệp
Việt Nam, sự ứng dụng marketing vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp Việt Nam nói chung còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa xác định được một
cách rõ ràng giữa mục tiêu kinh doanh và mục tiêu marketing. Marketing đồng nghĩa
với bán hàng, làm thế nào bán được nhiều hàng tốt, còn quảng cáo khi nào thấy doanh
số không như theo ý muốn thì quảng cáo với hy vọng là đạt được doanh số, không có

một kế hoạch truyền thông khuyến mãi rõ ràng, cho rằng quảng cáo là chi phí, mà quên
Trang
17

đi rằng thực chất ra là đó một khoản đầu tư, quảng cáo nó đòi hỏi công ty phải kiên trì
và thực hiện trong một thời gian dài, mới có thể mang lại hiệu quả.
Đa số doanh nghiệp của Việt Nam có tuổi đời còn rất trẻ. ‘các công ty Việt Nam
Khi xây dựng thương hiệu thường chỉ nhìn “ngắn hạn”, đầu tư là muốn thấy kết quả
ngay, không nghiên cứu khách hàng mục tiêu cũng như không theo dõi thị trường và
sức khoẻ thương hiệu’
4
Hiện nay Việt Nam có khoảng 160 000 doanh nghiệp, trong đó có đến 80% là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhiều DN còn mang tâm lý kinh doanh “sơ khai”, tức chỉ
cần làm sản phẩm tốt là “hữu xạ tự nhiên hương”, phân phối thường theo dòng chảy tự
nhiên và thích tự làm mọi việc vì nghĩ mình làm sẽ tốt hơn. Trong khi đó, các công ty
đa quốc gia thường đầu tư hơn 15% doanh số cho thương hiệu, phân phối có chiến lược
và thuê các đơn vị chuyên môn thực hiện.”
5
Thêm vào đó là luật Định chi phê cho quảng cáo khuyến mại không được vượt
quá 7% doanh số, với mức quy định như vậy làm thế nào những doanh nghiệp nhỏ của
chúng ta có đủ chi phí để thực hiện chương trình quảng cáo, và quảng cáo thường
xuyên để tạo dựng hình ảnh thương hiệu, sản phẩm trong tâm trí khách hàng, làm sao
mà thuyết phục được khách hàng ngày một khó hơn. Làm sao khách hàng tin tưởng là
hàng Việt Nam của chúng ta là chất lượng để tin tưởng dùng, khi mà tâm lý của người
Việt Là ưa thích hàng ngoại.
Xu hướng phát triển tất yếu của các doanh nghiệp trên toàn thế giới, trong đó có
các doanh nghiệp Việt Nam là ngày một ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho
công việc kinh doanh. Thương mại điện từ là phương tiện hữu hiệu giúp các doanh
nghiệp, tổ chức và cá nhân tiến hành các giao dịch thương mại với nhau trên phạm vi
toàn cầu thông qua môi trường internet. Dịch vụ này ngày càng phát triển và trở nên

quan trọng đối với tất cả các nước trên thế giới do những lợi ích to lớn mà nó mang lại
cho những người tham gia dịch vụ như người mua, người bán , ngân hàng. Nhưng hiện
4
/>5
/>Trang
18

nay một thực trạng tại Việt Nam là cơ sở vật chất kỹ thuật để tiến hành thương mại
điện tử chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó kiến thức về internet của khách hàng
còn hạn chế. Làm cho hoạt động quảng cáo trên internet của các doanh nghiệp Việt
Nam hạn chế.
PHẦN II
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC
QUẢNG CÁO TẠI CÔNG TY TNHH SƠN SEAMASTER (VN)
A. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY TY TNHH SƠN SEAMASTER (VN)
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1.1. Giới thiệu khái quát về chủ đầu tư:
Trang
19

Nhà đầu tư thành lập Công ty TNHH Sơn Seamaster (Việt Nam) là Công ty
Seamaster Paint International Pte Ltd. Công ty Seamaster Paint International Pte Ltd là
một công ty được thành lập ở Singapore và là công ty con hoàn toàn thuộc quyền sở
hữu của Công ty Star Chemical Manufactures Pte Ltd (SCM).
Công ty Star Chemical Manufactures Pte Ltd (SCM) được thành lập năm 1959,
là Tổng công ty mẹ của công ty 100% vốn nước ngoài được thành lập ở Việt Nam. Với
lịch sử phát triển tương đối dài của mình, SCM đã phát triển từ một cửa hàng sơn nhỏ
thành nhà sản xuất thương mại công nghiệp hàng đầu về sơn và các sản phẩm cùng
loại.

Với 38 năm làm việc miệt mài và không ngừng tiến triển, công ty đã phát triển
thành một trong các hãng đứng đầu về kỹ nghệ sơn trong khu vực.
Công ty đã thành lập các công ty chi nhánh và nhà máy ở các nước thuộc khối
ASEAN. Chỉ riêng ở Malaysia có ba nhà máy có tầm cỡ và một nhà kho. Tất cả đều
đặt ở vị trí chiến lược nhằm bảo đảm cho chất lượng của sản phẩm và dịch vụ luôn
luôn làø yếu tố hàng đầu. Công ty cũng có nhà máy ở Brunei, Indonesia và Đài Loan.
Sự phát triển đi lên của SCM có thể xem là nhờ vào qui trình sản xuất hữu hiệu,
sáng tạo trong tiếp thị và chất lượng điều hành được kiểm soát chặt chẽ nhằm bảo đảm
chất lượng sản phẩm cao nhất cho khách hàng. Làm vừa lòng khách hàng và chất
lượng sản phẩm luôn luôn là triết lý hành động của công ty .
Công ty SCM được vinh dự là nhà sản xuất sơn đầu tiên ở Singapore được cấp
giấy chứng nhận chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002 năm 1991.
Trước khi được cấp giấy chứng nhận ISO 9002, SCM cũng đón nhận phần
thưởng về Phương Pháp Sản Xuất Đúng Chất Lượng (GMP) từ Viện Tiêu Chuẩn và
Nghiên cứu Công Nghiệp Singapore (SISIR) năm 1990. Hơn thế nữa đó là dấu hiệu về
sự quyết tâm trong việc thực hiện cơ chế kiểm soát chất lượng. SCM được Ủy ban
tuyên dương năm 1992. Thêm vào đó, trải qua sự chọn lọc gắt gao, SCM đã đăng ký
với Ủy Ban Phát Triển Công Nghiệp Xây Dựng (CIDB) - một Ủy ban được thành lập
Trang
20

để kiểm soát các nhà thầu bằng qui tắc ở Singapore.
1.2.Giới thiệu về Công ty TNHH Sơn Seamaster:
Tên gọi: Công ty TNHH Sơn Seamaster
Tên tiếng Anh: SEAMASTER PAINT (VIETNAM) CO.,LTD
Địa chỉ: Số 16 Đại lộ Tự Do – Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore – Huyện
Thuận An – Tỉnh Bình Dương
Giấy phép đầu tư: số 008/GP-KCN-VS ngày 03 tháng 10 năm 1997 do Ban
quản lý Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore cấp
Đại diện: TEO SECK CHUAN

Chức vụ: Tổng Giám Đốc
Tổng vốn đầu tư : 3.360.000 USD, trong đó:
Vốn pháp định : 2.400.000 USD
Vốn vay : 960.000 USD
Trước tình hình ngày càng phát triển của công ty và cũng nhằm để mở rộng thị
trường tiêu thụ quốc tế của mình. Sau khi xem xét đánh giá và nghiên cứu về nhu cầu
sơn ở các nước bạn, SCM đã quyết định chọn Việt Nam làm đích đến cho cuộc nghiên
cứu này. Bởi vì:
Đất nước Việt Nam đang bước vào con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa,
phát triển lên con đường Xã hội chủ nghĩa. Để được như thế, chính phủ Việt Nam đã
có những quyết định đầu tư thích đáng nhằm phát triển đất nước hòa nhập vào cộng
đồng thế giới. Trong đó chính phủ đã đầu tư rất nhiều vào việc xây dựng và phát triển
hệ thống cơ sở hạ tầng ở mọi nơi. Điều này đòi hỏi các nhà đầu tư, các công ty chuyên
sản xuất các mặt hàng phục vụ cho việc xây dưng cơ sở hạ tầng phải ngày càng cố
gắng để có thể đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển của đất nước. Trước yêu cầu đó
SCM đã thành lập Công ty TNHH Sơn Seamaster một là để mở rộng thị trường tiêu thụ
của mình , hai là cùng Việt Nam đi vào con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Từ
Trang
21

đó Công ty TNHH Sơn Seamaster đã được ra đời và phát triển cho đến ngày nay. Công
ty TNHH Sơn Seamaster (Việt Nam) là công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, và là
một công ty TNHH có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, có con dấu riêng
theo mẫu Nhà Nước qui định, có quyền hạn và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý.
Sau vài năm hoạt động công ty nhận thấy rằng nhu cầu về mặt hàng sơn ở Việt
Nam ngày càng cao, thị trường tiêu thụ nội địa phải được mở rộng hơn. Trước tình
hình đó công ty đã thành lập văn phòng chi nhánh tại Hà Nội, Tp HCM và Đà Nẵng .
Ngoài ra công ty dự định sẽ thành lập thêm các văn phòng chi nhánh ở miền Tây Nam
Bộ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng của thị trường trong nước.

Trong thời điểm đó công ty Seamaster Paint International PTE.LTD – công ty
mẹ của công ty TNHH Sơn Seamaster (Việt Nam) đã chuyển nhượng một phần vốn,
quyền lợi và nghĩa vụ trong công ty TNHH Sơn Seamaster (Việt Nam) cho công ty
Seamaster Paint Manufacturing Berhad (chuyển nhượng 30% vốn).
2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA CÔNG TY
* Chức năng
- Công ty Sơn Seamaster là một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, chuyên
sản xuất kinh doanh các sản phẩm sơn trang trí và bột trét tường.
Các mặt hàng sản xuất chủ yếu của công ty:
 Sản xuất các loại sơn / chất phủ và các sản phẩm cùng loại
 Tiếp thị và tiêu thụ các sản phẩm nói trên;
 Dịch vụ tư vấn về sơn;
 Thực hiện các công việc về quét sơn, sơn lại, sữa chữa, trang trí nội
thất và các công việc liên quan trong lĩnh vực sơn;
 Đóng gói lại các loại sơn / chất phủ và các sản phẩm cùng loại để
phân phối và tiêu thụ;
Trang
22

* Nhiệm vụ của cơng ty:
- Xây dựng và thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách, chế độ của nhà nước, thực hiện đầy
đủ các hợp đồng kinh tế.
- Đối với xã hội: sản xuất kinh doanh góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh,
tạo cơng ăn việc làm cho người lao động, giúp xã hội xố bớt nạn thất nghiệp.
- Đối với địa phương: khơng làm ơ nhiễm mơi trường, phải có nghĩa vụ đóng
góp các khoản do địa phương đưa ra.
- Đối với nhà nước: quản lý chỉ đạo cơng ty theo chế độ hiện hành của nhà
nước, thực hiện nộp thuế đầy đủ đối với ngân sách nhà nước.
- Đối với người lao động: đảm bảo đời sống cho cán bộ cơng nhân viên trong

cơng ty
* Quyền hạn:
- Tổ chức sản xuất kinh doanh, liên doanh, hợp tác với các đối tác trong và
ngồi nước.
- Được vay vốn, huy động các nguồn vốn trong và ngồi nước để phát triển sản
xuất kinh doanh.
- Có quyền tố tụng, khiếu nại đối với các cơ quan, đơn vị, cá nhân vi phạm hợp
đồng kinh tế, bảo vệ lợi ích chung cho nhà nước, cơng ty và người lao động.
Có quyền đầu tư vào các dự án, khơng nằm trong dự án của cơng ty.
3. SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC
Trang
23
Tổng Giám Đốc
Phó Tổng Giám Đốc
Giám đốc
sản xuất
Giám đốc
k.thuật
Trưởng phòng
kinh doanh &
tiếp thò
Trưởng phòng
công nợ &
điều phối kinh
doanh
Kế tóan
công nợ
Nhân viên
điều phối
kinh

doanh
Nhân viên
kinh doanh
& tiếp thò
Phó Giám
đốc sản
xuất
Nhân viên
sản xuất
Giám sát
Nhân viên kỹ
thuật
Trưởng
phòng Kế
toán
Kế toán
viên

4. CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CÁC PHÒNG BAN
- Đứng đầu cơ cấu điều hành của công ty là Ban giám Đốc. Ban giám Đốc bao
gồm Tổng Giám Đốc, Phó Tổng Giám Đốc và các Trưởng phòng khác được Hội đồng
quản trị thông qua, có trách nhiệm điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công
ty.
- Tổng Giám Đốc của công ty là người đại diện hợp pháp của công ty trước tòa
án và các cơ quan hữu quan khác của Việt Nam, đại diện cho cán bộ công nhân viên, là
người quản lý điều hành và chịu trách nhiệm trực tiếp về sự tồn tại và phát triển của
công ty, ra quyết định và lãnh đạo các bộ phận thông qua sự tham mưu trợ giúp của
Phó Tổng Giám Đốc và các Trưởng phòng. Tổng Giám Đốc sẽ bổ nhiệm nhân sự cho
các chức vụ: các trưởng phòng, trưởng bộ phận qui định trách nhiệm và quyền hạn cho
các chức vụ đó.

- Phó Tổng Giám Đốc: là người trợ giúp cho Tổng Giám Đốc phụ trách công
tác nội chính, giúp Tổng Giám Đốc quản lý về mặt sự vụ chung của công ty, được ủy
quyền một số mặt công tác, thay mặt Tổng Giám Đốc điều hành công ty. Ngoài ra Phó
Trang
24

Tổng Giám Đốc còn liên hệ ký hợp đồng kinh tế với các doanh nghiệp khác khi được
uỷ quyền.
- Dưới Phó Tổng Giám Đốc là các Trưởng phòng, là những người trợ lý cho
Tổng Giám Đốc và chịu trách nhiệm trực tiếp trước Tổng Giám Đốc về các công tác
sản xuất và kinh doanh mà họ đảm nhận.
Các phòng ban, bộ phận của công ty:
- Phòng sản xuất – kỹ thuật
- Phòng kinh doanh và tiếp thị
- Phòng công nợ và điều phối kinh doanh
- Phòng kế toán tài chính
II. ĐẶC ĐIỂM NGUỒN LỰC CỦA CÔNG TY
1. NGUỒN NHÂN LỰC
Hiện nay, tổng số nhân viên của công ty là 114 người, Trong đó cao học : 2 người,
cử nhân - kỹ sư 50người, TCCN&THPT là 62
Nam chiếm 85%, nữ 15%, do đặc điểm của công việc, nên nam chiếm đa số.
Về tình hình độ tuổi lao động của nhân viên còn khá trẻ, độ tuổi từ 24-40 chiếm gần
82%.
Để có nguồn nhân lực đáp ứng tốt công việc Công ty cần có chính sách, chế độ
tuyển dụng, thu hút cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân có trình độ tay nghề cao
để tạo nguồn lực cho sự phát triển trong hiện tại và tương lai.
2.Điều kiện cơ sở vật chất:
Nhà máy và văn phòng của công ty được xây dựng tại Lô 8, Khu công nghiệp
Việt Nam – Singapore (VSIP), huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Tổng diện tích khu đất mà công ty thuê để sử dụng là 10.000 m2. Hiện trạng ,

mặt bằng tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho việc xây dựng nhà xưởng.
Trang
25

×