Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

tài liệu triết học hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.85 KB, 22 trang )

1














TÀI LIỆU TRIẾT HỌC



















2



GỢI Ý TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI

Câu 1. Vật chất và ý thức. Khái niệm, quan hệ và ýnghĩa phương pháp luận
1. Định nghĩa phạm trù vật chất
Phạm trù vật chất là một phạm trù vơ bản, nền tảng của chủ nghĩa duy vật, nó
chứa đựng thế giới quan và phương pháp luận sâu sắc.
Quan điểm về vật chất của các nhà duy vật cổ đại mang tính trực quan cảm
tính; họ đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi
tồn tại.
Vào thế kỷ XVII - XVIII, thuyết nguyên tử được khẳng định. Trên cơ sở đó,
vào thế kỷ XIX các nhà triết học và khoa học đồng nhất vật chất với nguyên tử
hoặc đồng nhất vật chất với khối lượng. Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã quy vật
chất về các dạng cụ thể.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong vật lý học có những phát minh quan
trọng làm cho con người hiểu sâu hơn về thế giới vật chất. Đó là những phát hiện
ra tia X, hiện tượng phóng xạ, điện tử, khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của
nó tăng. Tất cả những phát minh đó đã chỉ ra những khuyết điểm của chủ nghĩa
duy vật trước Mác trong quan niệm về vật chất. Nó còn là cơ sở để chủ nghĩa duy
tâm lợi dụng chống chủ nghĩa duy vật và cho rằng “vật chất biến mất”.
Để bảo vệ quan điểm của chủ nghĩa duy vật, Lênin bác bỏ quan điểm trên của
chủ nghĩa duy tâm và cho rằng “không phải vật chất biến mất” mà giới hạn hiểu
biết của con người về vật chất là biến mất. Từ đó, Lênin đưa ra định nghĩa: “Vật
chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho

con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”.
* Phân tích định nghĩa vật chất:
- Vật chất là phạm trù triết học rộng nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như
khái niệm vật chất trong các khoa học cụ thể hay đời sống. Không thể đồng nhất
vật chất với vật thể hay các thuộc tính nào của vật chất.
3

- Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là thực tại khách quan, là tồn tại không
phu thuộc vào ý thức, không do ai sinh ra không mất đi tồn tại vĩnh viễn. Tất cả
những gì tồn tại bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức đều là vật chất.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi tác động đến giác quan
của con người và bản thân nó được phản ánh, chép lại bằng ý thức.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất
- Định nghĩa trên đưa ra thuộc tính của vật chất đã phân biệt phạm trù vật chất
của triết học với phạm trù của các khoa học chuyên ngành. Khắc phục hạn chế của
chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp nhận thức khoa học về vật chất; khắc phục được
những hạn chế của chủ nghĩa duy tâm.
- Định nghĩa trên khẳng định tính thứ nhất của vật chất và khả năng nhận thức
của con người.
- Cổ vũ cho khoa học đi sâu vào thế giới vật chất đặt nền móng cho hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn.
* Ý nghĩa khi học định nghĩa vật chất của Lênin
-Trang bị đươc thế giới quan duy vật, mọi chủ trương biện pháp phải căn cứ
trên tính thứ nhất của vật chất nhưng cũng thấy được vai trò riêng của ý thức trong
hoạt động thực tiễn.
- Giúp nhận thức rõ nguyên nhân kinh tế là đầu tiên và duy nhất dẫn đen mọi
biến đổi trong lịch sử.
2.Định nghĩa ý thức
“Ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật

chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao, đó là bộ óc
ngưới”. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông
qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là hiện
tượng xã hội.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ óc người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh còn vật chất là cái được phản ánh. Cái
được phản ánh tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với ý thức con người. Ý thức
là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là
thực tại chủ quan, không có tính vật chất; là hình ảnh tinh thần của sự vật khách
quan.
4

Tuy nhiên ý thức không phải là bản sao giản đơn thụ động, thụ động máy móc
của sự vật. Ý thức là sự phản ánh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiễn xã
hội. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những
cái đã có, ý thức có thể tạo ra những tri thức mới về sự vật, để tưởng tượng ra
những cái không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể
tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học
hết sức sức trừu tượng và khái quát cao, thậm chí ở một số người có khả năng đặc
biệt như tiên tri, thôi miên, ngoại cảm, thấu thị, những khả năng đó đòi hỏi khoa
học phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng
kỳ lạ đó.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và ý nghĩa phương pháp luận
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy
vật biện chứng cũng đã vạch rõ ý thức có vai trò vô cùng quan trọng với vật chất.
Vai trò của ý thức được thông qua hành động của con người. Ý thức của con người
có vai trò tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất khách quan theo nhu cầu của
mình. Quan hệ vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ tác động qua lại.

Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, bởi ý thức
là ý thức của con người. Bản thân ý thức không làm thay đổi hiện thực gì cả. Vai
trò của ý thức được thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, hình thành
mục tiêu, kế hoạch, ý chí, biện pháp cho hoạt động của con người. Ý thức có thể
quyết định làm cho con người hoạt động đúng hai sai, thành công hay thất bại trên
cơ sở của những điều kiện khách quan nhất định.
Vai trò của ý thức, tư tưởng trước hết là nhận thức thế giới khách quan, từ đó
làm cho con người hình thành mục đích, phương hướng biện pháp và ý chí cần
thiết cho hoạt động của mình. Sức mạnh của ý thức được thể hiện khi biết dựa vào
điều kiện vật chất, điều kiện khách quan, phản ánh đúng quy luật khách quan để
cải tạo thế giới.
Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác về thế giới khách quan thì việc
cải tạo thế giới càng có hiệu quả. Vì thế cần phải phát huy tính năng động sáng tạo
của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người để cải tạo thế giới.
Tuy nhiên, cơ sở cho việc phát huy nhân tố chủ quan là phải thừa nhận và tôn
trọng tính khách quan của vật chất, tức những quy luật của tự nhiên và xã hội. Cho
5

nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực
khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
Vì thế, không được lấy ý muốn chủ quan và tình cảm làm điểm xuất phát cho quá
trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
nhằm mục đích xây dựng một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ và văn minh để vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã rút ra bài học quan trọng là: “mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Vì thế trong giai đoạn phát triển
kinh tế xã hội hiện nay, chúng ta lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát và lấy
con người Việt Nam làm mục tiêu của sự phát triển nhanh bền vững.
Với vai trò quan trọng của ý thức, thì việc “phát huy nguồn lực con người làm

yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh bền vững”. Từ đó phải biết nâng cao trình độ
dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay. Đó là con đường duy nhất để thoát ra khỏi lạc hậu,
đói nghèo một cách hợp pháp của cá nhân cũng như gia đình và xã hội. Vì thế,
trong giai đoạn hiện nay phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật
cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo
nàn và lạc hậu”.

Câu 2. Hai nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù, nguyên
lý, quy luật được khái quát, đúc kết từ hiện thực và phù hợp với hiện thực. Cho nên
nó có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và phát triển của tự nhiên,
xã hội và tư duy của của con người. Cho nên, “phép biện chứng là môn khoa học
về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội
loài người và của tư duy”.
Phép biện chứng duy vật được xuất phát từ hai nguyên lý cơ bản: nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
Nguyên lý là cơ sở đầu tiên, tư tưởng chỉ đạo, quy tắc chủ yếu để hành động.
Trong triết học cổ đại sơ kỳ, người ta đã coi nguyên lý là sự biểu hiện tính tất yếu
hay quy luật các hiện tượng. Theo nghĩa logic, nguyên lý là khái niệm trung tâm,
là cơ sở của hệ thống, khái quát và vận dụng một luận điểm nào đó vào tất cả các
6

hiện tượng của mọi lĩnh vực mà từ đó nguyên lý ấy được trừu tượng hóa. Ví dụ,
người ta hiểu tiêu chuẩn đạo đức nói lên đặc trưng của mối quan hệ giữa người với
người trong xã hội là nguyên lý hành động hoặc có tên gọi khác là châm ngôn.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ phổ biến
Các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới bao la có
quan hệ, tác động, ảnh hưởng với nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?

Nếu có thì cái gì là đầu mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới?
Theo quan điểm duy vật biện chứng, các sự vật hiện tượng, các quá trình
khác nhau vừa tồn tại, vừa độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau. Đồng thời quan điểm duy vật biện chứng còn khẳng định tính thống nhất của
thề giới vật chất là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật,
hiện tượng dù có đa dạng, phong phú đến đâu thì các dạng ấy cũng chỉ là những
dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Chính
tính thống nhất đó là cơ sở, đầu mối của sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
Tóm lại, mối liên hệ là phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng dùng để
chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ được bộc lộ thông
qua sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các thuộc tính, các yếu tố khác trong sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau.
b.Các tính chất của mối liên hệ
Mối liên hệ mang tính khách quan. Tính khách quan thể hiện ở tính vật chất
– khách quan, vốn có của mọi sự vật. Vấn đề là con người phải hiểu biết mối quan
hệ, vận dụng vào hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm
phục vụ nhu cầu, lợi ích của xã hội và bản thân con người. Vd:xây nhà…
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến.
Tính phổ biến của mối liênhệ thể hiện ở:
Thứ nhất, bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác.
Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ với sự vật hiện tượng
khác.
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều
kiện nhất định.
7

Mối liên hệ luôn mang tính phổ biến và khách quan ở tất cả mọi sự vật và
hiện tượng. Mối liên hệ này diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.

Nghiên cứu mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới còn thấy tính đa dạng,
nhiều vẻ của nó. Tính đa dạng của mối liên hệ phụ thuộc vào tính đa dạng, phức
tạp của thế giới vật chất.
Tính phức tạp của mối liên hệ phổ biến được thể hiện ở mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ
trực tiếp hay mối liên hệ gián tiếp Các mối liên hệ trên của sự vật, hiện tượng
phụ thuộc vào từng giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt, các yếu tố, các yếu tố, các thuộc tính bên trong bản thân sự vật; nó quy
định sự tồn tại và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là là mối liên hệ
giữa các sự vật khác nhau; nó có vai trò ảnh hưởng đến quá trình tồn tại và phát
triển của sự vật.
Việc phân biệt các mối liên hệ trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Nhưng sự phân
chi này đó lại hết sức cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác
định trong sự vận động và phát triển của sự vật.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu các hình thức liên hệ chung nhất, tức là
nghiên cứu hình thức mối liên hệ tồn tại trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Còn mối
liên hệ riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới là đối tượng nghiên cứu
của các khoa học cụ thể.
c. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho ta quan điểm toàn diện trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi nhận thức sự vật, chung ta phi xem xét nó: (1)
trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau
của chính sự vật nó; (2) trong mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi nhận thức được sự vật, chúng ta cần xem xét nó
trong mối liên hệ với thực tiễn của con người.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm toàn diện
chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự

vật đó. Như vậy quan điểm toàn diện không đồng nhất với quan điểm dàn trải mà
8

nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện
tượng đó.
Trong hoạt động nhận thức, quan điểm toàn diện còn yêu cầu chúng ta phải
biết sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động
nhằm thay đổi những liên hệ tương ứng. Vì thế, trong hoạt động thực tiễn chúng ta
phải kết hợp chính sách “dàn đều” và “chính sách có trọng điểm”.
Cần chú ý rằng một sự vật bao giờ cũng tồn tại trong một không gian, thời
gian cụ thể. Do vậy, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm
lịch sử cụ thể.
Vận dụng quan điểm lịch sử – cụ thể vào việc xem xét và giải quyết các vấn
đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức tời hoàn cảnh lịch sử –
cụ thể đã làm phát sinh về vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển của nó. Khi xem
xét một quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó trong mối quan hệ như vậy.
2. Nguyên lý về sự phát triển
a. Phạm trù phát triển
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: “phát triển là một phạm trù triết học
dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn”.
Phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc. Nguồn gốc của sự phát triển nằm
ngay trong bản thân của sự phát triển. Đó là do chính mâu thuẫn của sự vật đó quy
định.
Phát triển là một hình thức đặc biệt của vận động. Phát triển thể hiện rất
khác nhau trong hiện thực, nó tuỳ thuộc vào hình thức cụ thể của vật chất.
Sự phát triển ở giới vô cơ biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố vật chất,
sự tác động qua lại làm nảy sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó xuất hiện các hợp
chất hữu cơ ban đầu – tiền đề của sự sống.

Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng cường khả năng thích
nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường.
Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo
xã hội để tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu
sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực tự nhiên và xã hội.
9

Như vậy, phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy con người. Sự phát triển trong hiện thực và trong tư duy diễn ra bằng con
đường quanh co, phức tạp, trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối. Nếu xét
trong không gian rộng, thời gian dài thì vận động đi lên là khuynh hướng của sự
vật.
b.Tính chất của sự phát triển
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Vì nguồn gốc của sự phát
triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Phát triển là tiến trình khách quan, không
phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức của con người. Dù con người
muốn hay không muốn thì phát triển vẫn là khuynh hướng chung của thế giới vật
chất.
Sự phát triển mang tính phổ biến tính phổ biến của phát triển được diễn ra ở
mọi lĩnh vực: tư nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế
giới khách quan.
Giải tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn mang tính đa dạng,
phong phú. Do chúng tồn tại khác nhau, thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ
khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển còn chịu nhiều yếu tố, điều kiện
khác nhau.
c. Ý nghĩa của nguyên phương pháp luận
Tự nhiên, xã hội và tư duy nằm trong quá trình vận động và phát triển không
ngừng vì thế, chúng ta cần phải có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi
xem xem xét sự vật và hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động và phát triển, phải

phát hiện ra xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng.
Quan điểm phát triển không chỉ thấy sự vật là cái đang có mà phải nắm
khuynh hướng phát triển tương lai của nó.
Sự phát triển được diễn ra trong cả một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn.
Quan điểm phát triển được vận dụng vào quá trình nhận thức cũng đòi hỏi chúng ta
phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển là một hiện tượng phổ
biến. Thiếu quan điểm như vậy, người ta dễ rơi vào những bi quan, giao động khi
gặp những khó khăn trắc trở.
Sự phát triển của hiện thực và tư duy được diễn ra trên cơ sở tích lũy về
lượng thay đổi về chất, thông qua phủ định của phủ định vì thế trong nhận thức và
trong hoạt động thực tiễn phải biết tiếp thu hai quá trình nêu trên.
10

Câu 3. Phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn nhất
Phạm trù là những khái niệm chung nhất, phản nánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, phổ biến của các sự vật, hiện tượng thuộc
lĩnh vực hiện thực.
Phạm trù cái chung và cái riêng
1. Khái niệm
Cái riêng là một phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
Cái chung là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung
không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lập lại ở nhiều sự
vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mới biểu hiện sự
tồn tại của mình.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ những cái chung với nhau.
Như vậy, bất kỳ sự vật nào cũng có cái chung và cái riêng, hai mặt này đều
tồn tại khách quan.

Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận
nhưng chúng sâu sắc và bản chất hơn cái riêng.
Cái riêng phong phú hơn cái chung, bởi vì ngoài những đặc điểm gia nhập
vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có.
Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng, bởi vì nó phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên ổn định phổ biến tồn tại trong cái
riêng cùng loại. Vì vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương
hướng tồn tại và phát triển của sự vật.
Chú ý: Cái đơn nhất là để chỉ những nét, những mặt, những đặc điểm chỉ
có một sự vật và hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở sự vật hiện tượng khác.
Trong những trường hợp nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái
chung và ngược lại. Sự chuyển hóa của cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện
của sự phát triển đi lên, cái mới ra đời thay thế cái cũ. Sự chuyển hóa của cái
chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
11
Nếu cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối mọi cái riêng thì trong
nhận thức và hoạt động nhận thức, chúng ta phải biết phát hiện ra cái chung, vận
dụng cái chung, vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng. Muốn phát hiện ra cái
chung cần phát xuất từ cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không biết những
nguyên lý chung, phổ biến sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, mù quáng.
Cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng, nên bất cứ cái chung nào khi áp
dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hóa. Nếu không chú ý đến
sự cá biệt hóa đó, đem áp dụng nguyên xi cái chung thì sẽ rơi vào bệnh dập khuôn,
giáo điều. Ngược lại nếu xem thường cái chung tuyệt đối hóa cái riêng sẽ rơi vào
bệnh cục bộ địa phương chủ nghĩa.
Câu 4. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
1. Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Với cách thức nhất định của nền sản

xuất xã hội sẽ xuất hiện tính chất, kết cấu và đặc điểm tương ứng về mặt xã hội. sự
vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi của phương thức sản xuất bao giờ cũng
là sự thay đổi có tính chất cách mạng. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó
người ta có thể phân chia được sự khác nhau của các thời đại kinh tế khác nhau.
Phương thức sản xuất – cách thức tiến hành làm ra của cải vật chất là sự
thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
a. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Trong đó, con người đã khai thác, cải tạo, chinh phục tự nhiên bằng tổng hợp sức
mạnh của mình, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật khái quát thành khái niệm
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người
trong quá trình sản xuất xã hội. lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động và tư
liệu lao động, trước hết là công cụ lao động. Những yếu tố đó kết hợp với nhau tạo
thành lực lượng sản xuất.
Với đặc trưng sinh học – xã hội, con người lao động có sức mạnh và kỹ
năng bởi thần kinh – cơ bắp. Trong thực tiễn, sức mạnh và kỹ năng ấy được nâng
lên gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động
có trí tuệ và lao động trí tuệ.
12
Trong quá trình lịch sử lâu dài, trí tuệ phát triển làm cho lao động ngày
càng có hàm lượnng tri thức cao. Ngày nay hàm lượng trí tuệ trong lao động đã
làm cho con người trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ
bản và là nguồn vốn vô tận.
Công cụ lao động là “sức mạnh của tri thức được vật chất hóa có tác dụng
nối dài bàn tay người và nhân lên sức mạnh của con người. Khi công cụ lao động
đạt đến trình độ tin học hóa, tự động hóa thì vai trò của công cụ lao động trở nên
kỳ diệu hơn. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh
phục tự nhiên của con người.
Trải qua các cuộc cách mạng của khoa học, cùng với sự tiến triển của sản
xuất, khoa học ngày càng chiếm ưu thế trong lĩnh vực sản xuất. Khoa học ngày nay

đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn
trong sản xuất và trong đời sống xã hội.
Khoa học và công nghệ hiện đại là đặc điểm nổi bật của lực lượng sản xuất
hiện đại. Vì thế, ĐCSVN chủ trương thực hiện nhiệm vụ “Từ nay đến năm 2020, ra
sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Lực lượng sản
xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được
thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hóa cơ bản được thực hiện
trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn
nhiều so với hiện nay Khoa học tự nhiên và công nghệ có khả năng nắm bắt và
vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ. Khoa học xã hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình
thái ý thức xã hội mới. sự phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ cho việc
hoạch định các chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển”(khoá VIII,80 –81).
b. Quan hệ sản xuất
Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thể hiện ở những
trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mối quan hệ đó được xây
dựng thông qua những mối quan hệ khác nhau giữa người với người trong quá
trình sản xuất, tức là những quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là do con người tạo ra, song nó phải tuân theo những quy
luật tất yếu, khách quan của sự vận động phát triển xã hội. quan hệ sản xuất là quan
hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất được thể hiện
trên ba mặt:
13
(1). Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
(2). Các quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất.
(3). Các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sản xuất là quan hệ mang tính vật chất của đời sống xã hội. quan
hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời
sống tinh thần. Ba mặt của quan hệ sản xuất luôn gắn bó với nhau tạo thành một hệ
thống mang tính tương đối ổn định so với sự vận động không ngừng của lực lượng

sản xuất. Mỗi mặt của quan hệ sản xuất có vai trò, ý nghĩa riêng khi tác động đến
nền sản xuất xã hội cũng như toàn bộ tiến trình của lịch sữ nhân loại.
Tính chất của quan hệ sản xuất được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất. Nó biểu hiện thành chế độ sở hữu và là đặc trưng cơ bản của
phương thức sản xuất. Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối
với tất cả các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ
cơ bản, quan hệ trung tâm của quan hệ sản xuất. Chính quan hệ sở hữu đã quy định
quan hệ giữa các tập đoàn trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất và địa vị của
họ trong hệ thống sản xuất. Đến lượt mình, địa vị của từng tập đoàn người trong hệ
thống sản xuất lại quy định cách thức mà các tập đoàn tổ chức quá trình sản xuất.
Cuối cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản
phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất xã hội.
Lịch sử đã được chứng kiến sự tồn tại của hai hình thức sở hữu cơ bản đối
với tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công công. Sở hữu công cộng là loại
hình sở hữu mà ở đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng.
Nhờ cơ sở đó, các thành viên trong cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức
lao động và phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất là tài sản chung nên quan hệ
xã hội trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Chế độ tư hữu do tư liệu sản xuất chỉ nằm trong tay một số ít người nên
của cải xã hội không phụ thuộc về số đông mà thuộc về số ít. Các quan hệ xã hội
do đó trở thành quan hệ bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. đối kháng xã hội chỉ
tồn tại trong xã hội có chế độ sở hữu tư hữu là cơ sở tiềm tàng khả năng trở thành
đối kháng gay gắt.
Chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại sở hữu tư
nhân. Còn chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu vầ tư liệu sản xuất dù sớm
hay muộn cũng sẽ phủ định chế độ sở hữu tư nhân.
14
Trong hệ thống sản xuất, các quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất là các
quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả và
xu hướng của nền sản xuất cụ thể. Quan hệ này có khả năng kìm hãm hoặc thúc

đẩy nhanh các quá trình khách quan của sản xuất.
Việc sử dụng quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ
thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Ngược lại, các quan hệ quản
lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển kinh tế xã hội.
Quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý
nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế xã hội. mặc dù bị
phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu, tổ chức và quản lý sản xuất song do có khả
năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là
“xúc tác” của quá trình phát triển kinh tế xã hội.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai nhân tố hợp thành phương
thức sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau
hình thành quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trong đó lực lượng
sản xuất là cơ sở để thiết lập quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất cũng có vai
trò tác động trở lại lực lượng sản xuất làm cho phương thức sản xuất phát triển từ
thấp tới cao, thay đổi hình thái kinh tế xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội
mới tiến bộ hơn.
Sự tác động giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là quy luật cơ
bản nhất của sự vận động phát triển xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật đó được thể
hiện khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều tiến bộ.
Sự biến đổi đó xét cho cùng bao giờ cũng bắt đầu biến đổi và phát triển của lực
lượng sản xuất, trước hết là của công cụ lao động. Do đó, lực lượng sản xuất là yếu
tố quyết định biến đổi của phương thức sản xuất.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn thể hiện trình độ chinh
phục tự nhiên ở giai đoạn đó. Khái niệm trình độ lực lượng sản xuất nói lên khả
15

năng của con người thông qua việc sử dụng lao động trong quá trình cải biến tự
nhiên. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở:
(1). Trình độ của công cụ lao động;
(2). Trình độ tổ chức lao động xã hội;
(3). Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất;
(4). Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người;
(5). Trình độ phân công lao động.
Bên cạnh khái niệm trình độ lực lượng sản xuất còn có khái niệm tính chất
lực lượng sản xuất. Tính chất lực lượng sản xuất được thể hiện ở tính chất cá nhân
hay tính chất xã hội hóa lao động. Trên thực tế, trình độ lực lượng sản xuất và tính
chất sản xuất không có sự tách biệt. Vì trình độ lực lượng sản xuất càng cao thì
tính chất xã hội hóa cáng mạnh mẽ bấy nhiêu.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là một trạng thái mà ở đó quan hệ hệ sản xuất tạo điều kiện cho lực lượng sản
xuất. Điều đó được thể hiện ở trình độ lực lượng sản xuất càng cao thì xã hội hóa
lực lượng sản xuất càng mạnh mẽ. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ lực lượng sản xuất là nhân tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo điều kiện
thuận lợi cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp đó tạo điều kiện thuận lợi
tối ưu việc kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất có cơ
sở phát triển hết khả năng.
Trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới sự thích
ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử
dụng kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất. Trong đều kiện như vậy, lực
lượng sản xuất có điều kiện phát triển hết khả năng.
Khuynh hướng chung của nền sản xuất xã hội là không ngừng phát triển. Sự
phát triển đó bao giờ cũng được bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của lực lượng sản
xuất, trước hết là của công cụ lao động. Xét cho cùng lực lượng sản xuất là nhân tố
quyết định đối với sự biến đổi phương thức sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất
phát triển lên một trình độ mới sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này
ngày một gay gắt trở thành xiềng xích trói buộc kìm hãm sự phát triển lực lượng

sản xuất. Lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ thiết
lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với nó, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có
16
nghĩa là sự diệt vong của phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất
mới cao hơn.
Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là mâu thuẫn trong quá trình sản xuất nhưng mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt
xã hội là mâu thuẫn giai cấp. Mâu thuẫn này trở thành cơ sở khách quan của cuộc
đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ vai trò của lực lượng sản xuất đối với quan
hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất có tính tương đối độc lập tác động trở lại lực
lượng sản xuất. Sự tác động đó sẽ quy định mục đích của sản xuất, tác động đến
khuynh hướng phát triển, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất còn quy định hệ thống tổ chức, quản lý, quy định phương
thức phân phối sản phẩm có vai trò tác động cho lực lượng sản xuất phát triển
Thực tiễn đã chứng minh lực lượng sản xuất chỉ được phát triển khi có quan
hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ và phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc
“tiên tiến quá” sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải được
giải quyết. Nếu mâu thuẫn đó không được giải quyết hoặc giải quyết một cách sai
lầm, chủ quan thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất trở thành nhân tố phá
hoại lực lượng sản xuất.
Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội, chuyển từ hình
thái kinh tế xã hội này lên một hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn. Đây là quy
luật phổ biến tác động đến toàn bộ tiến trình lịch sử từ chế độ công xã nguyên thủy
đến chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
trong tương lai.


Câu 5. Những nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta
hiện nay
1. Khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp
Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác
nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác
nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy
định và thừa nhận), đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức
17
lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà
tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn
có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của giai cấp
bị trị. Giai cấp, tầng lớp bị trị bị gtướ đoạt lao động và bị áp bức về chính trị, xã
hội và tinh thần. Giai cấp thống trị dùng mọi phương pháp, phương tiện để bảo vệ,
duy trì quyền lợi của họ. Công cụ bảo vệ quyền lợi đó nhà nước của giai cấp thống
trị. Lợi ích cơ bản của hai giai cấp đối lập nhau là nguyên nhân của mọi cuộc đấu
tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức.
Đấu tranh giai cấp, thực chất là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức chóng lại bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám.
2. Đấu tranh giai cấp ở ViệtNam hiện nay

Đấu tranh giai cấp trong gian đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Do
bối cảnh lịch sử của quá trình hình thnh giai cấp v điều kiện mới của xu thế quốc tế
hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh chuyển từ mục tiêu
giành chính quyền sang mục tiêu chủ yếu và cơ bản là củng cố chính quyền của
nhân dân lao động, trọng tâm là xây dựng kinh tế. Giai c6áp tư sản đã bị lật đổ, tiến
lại cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa xã hội nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản.
Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội diễn ra

trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Mục tiêu này chưa
thực hiện thì khả năng phục hồi chủ nghĩa tư bản còn rất lớn.
Trong điều kiện nắm vững chính quyền, giai cấp công nhân phải sử dụng sức
mạnh tổng hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh mới. Trong đó có đấu tranh bằng
bạo lực và hoà bình; bằng giáo dục, thuyết phục, phê bình, hành chính, quân sự,
kinh te; bằng liên minh giai cấp công – nông, các tầng lớp trung gian và “sử dụng”
giai cấp tư sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xã hội vẫn tồn tại lâu dài
giai cấp và mâu thuẫn giai cấp. Đấu tranh giai cấp là thực tế khách quan không thể
tránh khỏi. Vấn đề là nhận thức và cho đúng tính chất, nội dung, hình thức của
cuộc đấu tranh, xử lý đúng đắn các quan hệ giai cấp.
18
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh, điều cơ bản là phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Toàn bộ sự nghiệp trên là lợi ích dân tộc và nhân dân lao động.
Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta cho thấy đại đa số tán
thành mục tiêu trên đấu tranh với một bộ phận nhỏ chống lại sự nghiệp lớn lao mà
nhân dân ta đang xây dựng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đấu tranh đó được thể
hiện dưới một số hình thức sau:
Trước hết, một bên là quần chúng nhân dân lao động đang theo đuổi mục
tiêu trên và một bên là các thế lực thù địch đang ra sức chống phá mục tiêu trên.
Thứ hai, cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và con đường
tư bản chủ nghĩa.cuộc đấu tranh của hai khuynh hướng này diễn ra hàng ngày,
hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, tư tưởng, trật tự xã hội.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, lợi ích hợp pháp của các nhà tư sản căn
bản thống nhất với lợi ích chung của dân tộc. Dây là mặt thống nhất giữa giai cấp
công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân, nhân dân
lao động với giai cấp tư sản là quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong sự nghiệp
xây dựng mục tiêu trên.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, việc tuyệt đối, cường điệu hóa đấu tranh giai cấp hoặc mơ hồ về
đấu tranh giai cấp đều gây tổn hại cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ của nước ta cịn tồn tại một cch khch quan cc giai cấp v
đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta là "thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng x hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém
phát triển; thực hiện công bằng x hội, chống p bức, bất cơng; đấu tranh ngăn chặn
và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân
tộc, xây dựng nước ta thành một nước x hội chủ nghĩa phồn vinh, nhn dn hạnh
phc".
Câu 6. Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân kiệt xuất trong lịch sử
1. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân
a. Khái niệm
19
Quần chúng nhân dân là bộ phận có chung lợi ích căn bản liên kết thành tập
thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính
trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Quần chúng nhân dân được xác định bởi những nội dung:
Thứ nhất, những người làm ra của cải vật chất và tinh thần.
Thứ hai, những người chống lại giai cấp thống trị, áp bức bóc lột.
Thứ ba, những người thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
b. Vai trò của quần chúng nhân dân
Mọi lý tưởng giải phóng con người chỉ được thông qua sự tiếp thu, hoạt
động của quần chúng mới biến lý tưởng đó thành hiện thực. Bản thân lý tưởng đó
không làm thay đổi xã hội mà chỉ có hoạt động thực tiễn của quần chúng mới biến
ước mơ thành hiện thực trong đời sống. Vai trò quyết định của quần chúng nhân
dân được thể hiện ở ba vấn đề sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực

tếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của các cuộc cách mạng
xã hội. Họ là lực lượng cơ bản của cuộc cách mạng và đóng vai trò quyết định đến
sự tháng lợi của mọi cuộc cách mang, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Thứ ba, quần chúng nhân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh
thần. Mọi lĩnh vực hoạt động của quần chúng nhằm nhận thức và áp dụng những
thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Các giá trị văn hóa tinh thần tồn tại được khi
được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng.
2. Khái niệm lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ
a. Khái niệm
Lãnh tụ là một vĩ nhân gắn bó mật thiết với quần chúng, được quần chúng
tín nhiệm và nguyện hy sinh quên mình vì lợi ích của quần chúng nhân dân.
Lãnh tụ là người có những phẩm chất sau:
Thứ nhất, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt xu thế vận động của dân
tộc, quốc tế và thời đại.
Thứ hai, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí hành
động của quần chúng vì mục tiêu chung.
Thứ ba, gắn bó với quần chúng, hy sinh quên mình vì lợi ích của quần
chúng.
20
b. Vai trò của lãnh tụ
Lãnh tụ có nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nắm bắt được xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động.
Thứ ba, tổ chức, giáo dục quần chúng, thống nhất ý chí hành động của quần
chúng.
Từ nhiệm vụ đó, lãnh tụ có một số vai trò sau:
Thứ nhất, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội và là linh
hồn của tổ chức đó.

Thứ ba, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của thời đại
đó.
3. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
Thứ nhất, tính thất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Những lãnh tụ kiệt
xuất là sản phẩm của thời đại và là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi
ích của mình.
Thứ ba, sự khác nhau giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ biểu hiện trong
vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử.
Câu 7. Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hộ
1.Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn điều kiện sinh hoạt vật chất của đời sống xã hội. Mọi
hoạt động sinh hoạt, quan hệ mang tính khách quan của con người là vật chất của
đời sống xã hội. Vật chất của đời sống xã hội chính là tồn tại xã hội.
Những yếu tố khách quan của xã hội như phương thức sản xuất, điều kiện tự
nhiên và dân số là yếu tố tất yếu của tồn tại xã hội. Trong đó phương thức sản xuất
là yếu tố cơ bản nhất.
b. Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu ý thức xã hội
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội. Y thức xã hội là mặt tinh thần
của đời sống xã hội như quan điểm, tâm trạng,…
21
Y thức cá nhân là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi cá nhân
riêng biệt, cụ thể. Y thức cá nhân là đời sống tinh thần của mỗi cá nhân.
Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi cá nhân không tách rời với tồn tại xã
hội. Y thức xã hội và ý thức cá nhân có mối liên hệ hữu cơ với nhau, thâm nhập lẫn
nhau.
2. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
a. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quyết định

Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi thì tư tưởng, lý
luận, quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, nghệ thuật sớm muộn sẽ
thay đổi theo.
Tư tưởng, quan điểm, lý luận bao giờ cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp
những quan hệ kinh tế của thời đại.
b. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Khi xã hội cũ mất đi, ý thức của xã hội vẫn tồn tại. Tính độc lập tương đối
này biểu hiện trong lĩnh vực tâm lý xã hội: phong tục, tập quán, truyền thống…
Nguyên nhân lạc hậu vì:
(1).Sự biến đổi của tồn tại diễn ra với tốc độ nhanh, ý thức xã hội phản ánh
nó nhưng phải có thời gian được kiểm nghiệm, đúc kết trở thành lạc hậu hơn.
(2). Do sức mạnh thói quen truyền thống, tập quán, bảo thủ (bảo vệ quan
niệm của mình là oanh liệt).
(3). Y thức xã hội luôn gắn liền với lợi ích của giai cấp nhất định trong xã
hội. Những tư tưởng lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu
giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng tiến bộ.
Hiện tượng ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng, vì vậy
khi xây dựng xã hội mới phải tăng cường công tác tư tưởng, kiên quyết xóa bỏ ý
thức không còn phù hợp.
Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt là ý thức
về khoa học có thể vượt trước tồn tại xã hội có vai trò dự báo tương lai, tổ chức chỉ
đạo hoạt động thực tiễn.
Ý thức xã hội mang tính kế thừa
22
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội bao giờ cũng được phát triển
trên cơ sở kế thừa của các thế hệ đi trước. Nhờ đó mà có những nước lạc hậu hơn
về kinh tế nhưng vẫn có đời sống tinh thần cao.

Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Các hình thái của ý thức xã hội có sự tác động qua lại lẫn nhau làm cho
chúng ta nhiều khi không thể giải thích một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội hay
những điều kiện vật chất xuất hiện ý thức xã hội.
Trong sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội, thì ý thức chính
trị của giai cấp thống trị có vai trò quan trọng quyết định chiều hướng của ý thức
xã hội khác.
Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào
điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng
nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản
ánh đúng đắn với nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng
trong quần chúng.
Vai trò của ý thức xã hội tiến bộ làm cho xã hội phát triển còn ý thức phản
tiến bộ kìm hãm sự phát triển xã hội.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×