TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI - WTO
(BẢN 2)
A/ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA WTO:
1. Lịch sử hình thành WTO:
The General Agreement on
Tariffs and Trade – GATT). Đây là
tổ chức quốc tế duy nhất đề ra
những nguyên tắc thương mại giữa
các quốc gia trên thế giới. Trọng
tâm của WTO chính là các hiệp
định đã và đang được các nước đàm
phán và ký kết.
Các nguyên tắc và các hiệp định của
GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở
rộng. Không giống như GATT chỉ có tính
chất của một hiệp ước, WTO là một tổ
chức, có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể.
Trụ sở chính: Geneva, Thụy
Sĩ
Thành viên: 149 nước ( tính
đến ngày 11 tháng 12 năm
2005)
Ngân sách: : 175 triệu francs
Thụy Sỹ ( theo số liệu 2006 )
Nhân viên: 635 người
Tổng giám đốc: Pascal Lamy
2. Quá trình phát triển:
Hội nghị Bretton Woods năm 1944
đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại
Quốc tế ( International Trade Organization
- ITO) với mục đích thiết lập các quy tắc
và luật lệ cho thương mại giữa các nước.
Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội
nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và
Việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948.
Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã
không phê chuẩn hiến chương này. Một số
nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt
nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ
lo ngại rằng Tổ chức Thương mại Quốc tế
có thể được sử dụng để kiểm soát chứ
không phải đem lại tự do hoạt động cho
các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ (Lisa
Wilkins, 1997).
ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà
ITO định dựa vào để điều chỉnh thương
mại quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT).
GATT ra đời sau Đại chiến Thế giới
lần thứ II trong trào lưu hình thành hàng
loạt cơ chế đa biên nhằm điều tiết các hoạt
động hợp tác kinh tế quốc tế. GATT đóng
vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ
thống thương mại đa phương trong suốt
gần 50 mà điển hình là Ngân hàng Quốc
tế Tái thiết và Phát triển, thường được biết
đến như là Ngân hàng Thế giới (World
Bank - WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(Internaltional Monetary Fund- IMF) ngày
nay. Với ý tưởng hình thành những nguyên
tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc
tế điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc
làm, về thương mại hàng hoá, khắc phục
tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt
động này phát triển, 23 nước sáng lập
GATT đã cùng một số nước khác tham gia
Hội nghị về thương mại và việc làm, dự
thảo Hiến chương La Havana để thành lập
Tổ chức Thương mại Quốc tế
(Internaltional Trade Oganization - ITO)
với tư cách là cơ quan chuyên môn của
Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các nước này
đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán
về thuế quan và xử lý các biện pháp bảo hộ
mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong
thương mại quốc tế từ đầu những năm 30,
nhằm thực hiện mục tiêu tự do hoá mậu
dịch, mở đường cho kinh tế và thương mại
phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao
thu nhập và đời sống của nhân dân các
nước thành viên.
Hiến chương thành lập Tổ chức
Thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã
được thoả thuận tại Hội nghị Liên Hiệp
Quốc về thương mại và việc làm ở Havana
từ 11/1947 đến 24/3/1948, nhưng do một
số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn,
nên việc thành lập Tổ chức Thương mại
Quốc tế (ITO) đã không thực hiện được.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã
định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt
được ở vòng đàm phán thuế đầu tiên là
45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các
bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5
tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước
sáng lập đã cùng nhau ký kết Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT), chính thức có hiệu lực vào tháng
1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8
vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy
nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ Hiệp
Uruguay (1986- 1994) do thương mại quốc
tế không ngừng phát triển, nên GATT đã
mở rộng diện hoạt động, đàm phán không
chỉ về thuế quan mà còn tập chung xây
dựng các Hiệp định, hình thành các chuẩn
mực, luật chơi điều tiết các vấn đề về hàng
rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ,
quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư
có liên quan tới thương mại, về thương
mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ
chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều
tiết của hệ thống thương mại đa biên được
mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT) với tư cách
là một sự thoả thuận có nhiều nội dung ký
kết mang tính chất tuỳ ý đã tỏ ra không
thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại
Marrakesh (Marốc), kết thúc Hiệp
Uruguay, các thành viên của GATT đã
cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục
và phát triển sự nghiệp của GATT. Theo
đó, WTO chính thức được thành lập độc
lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào
hoạt động từ 1/1/1995.
B/ MỤC TIÊU CỦA WTO
Các bên ký kết Hiệp định này thừa
nhận rằng: Tất cả những mối quan
hệ của họ (tức các bên ký kết thành
lập ra WTO) trong lĩnh vực kinh tế
và thương mại phải được thực hiện
với mục tiêu nâng cao mức sống,
bảo đảm đầy đủ việc làm và một
khối lượng thu nhập và nhu cầu
thực tế lớn và phát triển ổn định;
mở rộng sản xuất, thương mại hàng
hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn
đảm bảo việc sử dụng tối ưu nguồn
lực của thế giới theo đúng mục tiêu
phát triển bền vững, bảo vệ và duy
trì môi trường và nâng cao các biện
pháp để thực hiện điều đó theo cách
thức phù hợp với những nhu cầu và
mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên
ở các cấp độ phát triển kinh tế khác
nhau.
Các bên ký kết Hiệp định thừa nhận
thêm rằng: cần phải có nỗ lực tích
cực để bảo đảm rằng các quốc gia
đang phát triển, đặc biệt là những
quốc gia kém phát triển nhất, duy trì
được tỷ phần tăng trưởng trong
thương mại quốc tế tương xứng với
nhu cầu phát triển kinh tế của quốc
gia đó;
Các bên ký kết Hiệp định mong
muốn đóng góp vào những mục tiêu
này bằng cách tham gia vào những
thoả thuân tương hỗ và cùng có lợi
theo hướng giảm đáng kể thuế và
các hàng rào cản trở thương mại
khác và theo hướng loại bỏ sự phân
biện đối xử trong các mối quan hệ
thương mại quốc tế;
Do đó, các bên ký kết Hiệp định,
quyết tâm xây dựng một cơ chế
thương mại đa biên chặt chẽ, ổn
định và khả thi hơn; quyết tâm duy
trì những nguyên tắc cơ bản và tiếp
tục theo đuổi những mục tiêu đang
đặt ra cho cơ chế thương mại đa
biên này.
Tuy nhiên, nếu "mục tiêu kinh
tế" của WTO là nhằm thúc đẩy tiến
trình tự do hoá thương mại hàng
hoá, dịch vụ, trao đổi các sáng chế,
kiểu dáng, phát minh (gọi chung là
quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các
hoạt động của WTO nhằm giải
quyết các bất đồng và tranh chấp
thương mại phát sinh giữa các thành
viên theo các quy định đã thoả
thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của công pháp quốc tế và luật lệ
của WTO chính là mục tiêu chính
trị của WTO.
Mục tiêu cuối cùng của các mục
tiêu kinh tế và chính trị nêu trên là nhằm
tới "mục tiêu xã hội" của WTO là nhằm
nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập cho người dân, phát triển
bền vững, bảo vệ môi trường
C/ NHỮNG NGUYÊN TẮC HOẠT
ĐỘNG VÀ CÁC HIỆP ĐỊNH CỦA
WTO:
1/ Nguyên tắc họat động:
* Nguyên tắc thứ nhất: Không phân biệt
đối xử.
Mỗi thành viên sẽ dành cho sản
phẩm của một thành viên khác đối xử
không kém ưu đãi hơn đối xử mà thành
viên đó dành cho sản phẩm của một nước
thứ ba (Đãi ngộ Tối huệ quốc- MFN).
Mỗi thành viên sẽ không dành cho
sản phẩm của công dân nước mình đối xử
ưu đãi hơn so với sản phẩm của người
nước ngoài (Đãi ngộ quốc gia- NT).
* Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải
ngày càng được tự do hơn thông qua đàm
phán.
Các hàng rào cản trở thương mại
dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà
sản xuất hoạch định chiến lược kinh doanh
dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao
sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu.
Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được
thoả thuận thông qua các cuộc đàm phán
song phương và đa phương.
* Nguyên tắc thứ ba: Dễ dự đoán.
Các công ty, nhà đầu tư và chính
phủ nước ngoài có thể vững tin rằng các
rào cản thương mại (gồm rào cản quan
thuế, phi quan thuế và các rào cản khác) sẽ
không được dựng lên tuỳ tiện; ngày càng
có thêm những cam kết về mặt pháp lý
trong việc giảm thuế suất và mở cửa thị
trường trong WTO.
* Nguyên tắc thứ tư: Tạo ra môi trường
cạnh tranh ngày càng bình đẳng.
Hạn chế tác động tiêu cực của các
biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như
bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc
quyền cho một số doanh nghiệp nhất định.
* Nguyên tắc thứ năm: Dành cho các
thành viên đang phát triển một số ưu đãi.
Dành cho các nước chậm phát triển
nhiều thời gian hơn để điều chỉnh, tính linh
hoạt cao hơn và những ưu đãi đặc biệt.
2/ Một số hiệp định chính của WTO:
Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại 1994 (GATT 1994)
Hiệp định chung về Thương mại
Dịch vụ (GATS)
Hiệp định về Các khía cạnh liên
quan đến Thương mại của Quyền
Sở hữu Trí tuệ (TRIPS)
Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư
liên quan đến Thương mại (TRIMS)
Hiệp định về Nông nghiệp (AoA)
Hiệp định về Hàng Dệt may (ATC)
Hiệp định về Chống bán Phá giá
Hiệp định về Trợ cấp và các Biện
pháp chống Trợ cấp
Hiệp định về Tự vệ
Hiệp định về Thủ tục Cấp phép
Nhập khẩu
Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh
và Kiểm dịch (SPS)
Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật
đối với Thương mại (TBT)
Hiệp định về Định giá Hải quan
Hiệp định về Kiểm định Hàng trước
khi Vận chuyển
Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa
(ROO)
Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết
Tranh chấp
VÀI NÉT VỀ HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ
THUẾ QUAN
VÀ THƯƠNG MẠI – GATT
1. Sự hình thành và phát triển của
GATT:
GATT ra đời do sự thất bại của
việc thành lập Tổ chức Thương mại Quốc
tế (International Trade Organization –
ITO).
Thoạt tiên, 50 nước thỏa thuận thiết
lập ITO, một cơ quan của Liên hiệp quốc,
để điều chỉnh các quan hệ thương mại
quốc tế.
Nhằm mục đích đó, năm 1946, 23
trong số 50 nước đã thương lượng và thoả
thuận giảm thuế quan và không tăng thuế
quan.
Thoả thuận trên được ký kết ngày
23/10/1947 với tên gọi là Hiệp định
Chung về Thuế quan và Thương mại
(General Agreement on Tariffs and Trade
– GATT), có hiệu lực vào 1-1-1948, trong
khi các nước vẫn đang thương lượng về
bản Dự thảo Điều lệ ITO.
Kết quả đã giảm 45.000 dòng thuế,
tác động đến một khối lượng thương mại
10 tỉ USD, 1/5 thương mại thế giới lúc bấy
giờ. Sau đó, Mỹ đã không phê chuẩn Điều
lệ của ITO nên tổ chức này không ra đời,
nhưng các nước ký kết GATT thì vẫn tiếp
tục thực hiện hiệp định này.
2. Chức năng của GATT
GATT có những chức năng cơ bản như
sau:
Là một hệ thống quy định quốc
tế chung điều tiết mọi hoạt động
thương mại của các nước tham
gia ký kết
Là diễn đàn thương lượng đa
phương lớn nhất để thảo luận
việc từng bước tự do hoá
thương mại quốc tế về hàng
hoá, dịch vụ
Là một cơ quan quốc tế để
chính phủ các nước giải quyết
các tranh chấp trong phạm vi
các nước thành viên.
3. Các nguyên tắc và nội dung cơ bản
của GATT
GATT gồm 4 phần và 38 điều, nội
dung có thể tóm gọn trong các nguyên tắc
sau đây:
* Nguyên tắc thứ nhất: Nguyên tắc không
phân biệt đối xử trong thương mại, hay là
đối xử tối huệ quốc
Đây là nguyên tắc quan trọng
nhất, quy định các nước thành viên
dành cho nhau ưu đãi tối huệ quốc
về thuế xuất nhập khẩu và đối xử
bình đẳng trong thương mại.
Nguyên tắc này có hai ngoại lệ là:
- Các nước tham gia các khối
mậu dịch tự do hay liên minh
thuế quan khu vực như EU,
NAFTA, AFTA… có quyền
áp dụng với nhau một biểu
thuế, một hàng rào phi quan
thuế riêng.
- Các nước đang phát triển được
ưu đãi riêng, được các nước
phát triển dành cho Hệ thống
ưu đãi phổ cập (GSP) với thuế
suất thấp hơn thuế suất tối huệ
quốc.
* Nguyên tắc thứ hai: Nguyên tắc có đi có
lại.
Một nước quyết định mở cửa thị
trường của mình (hạ thuế nhập khẩu, bỏ
bớt các quy định đối với hàng nhập) có
quyền đòi hỏi các thành viên khác có
những nhượng bộ tương tự.
* Nguyên tắc thứ ba: Nguyên tắc công
khai và cạnh tranh lành mạnh
Yêu cầu các nước thành viên không
được tăng và từng bước giảm hàng rào phi
thuế quan, thừa nhận quyền đánh thuế
chống phá giá và chống trợ cấp xuất khẩu.
* Nguyên tắc thứ tư: Nguyên tắc khước từ
một số nghĩa vụ của GATT.
Cho phép mỗi thành viên có quyền
áp dụng biện pháp cấp thiết (như hạn chế
nhập khẩu hoặc đình chỉ những nhượng bộ
về quan thuế) để bảo vệ ngành công
nghiệp trong nước đang bị thương tổn,
hoặc do khó khăn về cán cân thanh toán.
* Nguyên tắc thứ năm: Nguyên tắc ưu
tiên cho hàng hoá của các nước đang phát
triển.
Ngoài hệ thống GSP, còn có các ưu
đãi về tiếp cận thị trường, hoặc ít bị ràng
buộc bởi nguyên tắc có đi có lại.
4. Quá trình hoạt động
Hoạt động của GATT chủ yếu
thông qua các Vòng Đàm phán, cụ thể là:
5 Vòng Đàm phán đầu (1947 –
1961) nhằm giảm thuế quan.
Vòng Đàm phán thứ 6 (1964 –
1967) mở rộng thêm đối với các
biện pháp chống bán phá giá (62
nước tham gia).
Vòng Đàm phán thứ 7 (1973 –
1979), gọi là Vòng Đàm phán
Tokyo, mở rộng thêm các biện pháp
phi thuế quan và các hiệp định
khung (102 nước tham gia).
Vòng Đàm phán thứ 8 (1986 –
1994), còn gọi Vòng Đàm phán
Urugoay, mở rộng cho cả thuế
quan, phi thuế quan, các nguyên tắc
về dịch vụ và đầu tư liên quan đến
thương mại, quyền sở hữu trí tuệ,
giải quyết tranh chấp, hàng dệt may,
hàng nông nghiệp và đặt cơ sở cho
sự ra đời của WTO (123 nước tham
gia).
Tính đến tháng 7/1994, GATT có
123 nước thành viên, chiếm khoảng 90%
tổng kim ngạch thương mại thế giới. Từ
1/1/1995, WTO đã thay thế cho GATT,
với 123 nước thành viên và 25 nước nộp
đơn xin gia nhập.
5. Sự giống và khác nhau giữa GATT và
WTO:
Theo như đã nói ở trên, WTO ra đời
dựa trên cơ sở kế tục của GATT, nên nội
dung của cả hai hiệp định này đều đưa ra
các nguyên tắc về hiệp định chung về thuế
quan và thương mại, tuy nhiên đi phân tích
sâu hơn thì GATT và WTO có sự khác
nhau như sau:
GATT WTO
- GATT
chưa bao
giờ là một
tổ chức,
chỉ là một
hiệp ước
giữa các
bên ký
kết.
- Hiệp định
chỉ mang
- WTO là một
tổ chức quốc
tế được các
nước thành
viên phê
chuẩn.
- Hiệp định
mang tính
thường trực
tính chất
lâm thời.
- GATT chỉ
gồm
những
bên ký
kết
- GATT chỉ
điều
chỉnh
thương
mại hàng
hóa
- WTO Gồm
các thành
viên.
- Điều chỉnh cả
thương mại
dịch vụ và sở
hữu trí tuệ.
- Cơ chế giải
quyết tranh
chấp của
WTO nhanh
chóng và
mang tính tự
động hơn của
GATT
- Phán quyết
không thể bị
phong tỏa.
D/ VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ GIA NHẬP
WTO CỦA VIỆT NAM:
1.Các mốc đánh dấu chặng đường gia
nhập WTO của Việt nam:
Chúng ta đã đàm phán 11 năm với
hơn 200 cuộc, trong đó đàm phán đa
phương (14 phiên), song phương (28 đối
tác); nước nhanh nhất (3 phiên), nước
chậm nhất (13 phiên). Ðây là số lượng
nhiều nhất trong đàm phán Việt Nam với
các tổ chức quốc tế (với ASEAN chúng ta
mất hai năm, Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ chúng ta mất bốn năm).
- 4-1-1995: Đơn xin gia nhập WTO của
Việt Nam được Đại hội đồng tiếp nhận.
- 31-1-1995: Ban xem xét công tác gia
nhập (WP) của Việt Nam được thành lập
với chủ tịch là ông Eirik Glenne, đại sứ Na
Uy tại WTO.
- 24-8-1995: Việt Nam nộp bị vong lục về
chế độ ngoại thương VN và gửi tới Ban
thư ký WTO để luân chuyển đến các thành
viên của ban công tác.
Năm 1998-1999: Các phiên hỏi và trả lời
với ban xem xét công tác xét duyệt.
Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào
ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO
và bắt đầu tiến hành đàm phán song
phương với một số thành viên trên cơ sở
bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ.
- 9-10-2004: Việt Nam và EU đạt thỏa
thuận về việc Việt Nam gia nhập WTO.
- 9-6-2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt
được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở
đường cho Việt Nam sớm gia nhập WTO.
- 12-6-2005: Việt Nam cử một phái đoàn
đàm phán hùng hậu sang Washington
trước thềm chuyến thăm Mỹ chính thức
của Thủ tướng Phan Văn Khải với quyết
tâm đi đến kết thúc đàm phán song
phương.
- 18-7-2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt
thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để
Việt Nam gia nhập WTO.
-31-5-2006: Ký thỏa thuận kết thúc đàm
phán song phương với Mỹ - nước cuối
cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán
song phương.
- 26-10-2006: Việt Nam hoàn tất đàm phán
đa phương tốt đẹp với các nước. Cuộc đàm
phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng
chừng không thể kết thúc được cho đến
phút chót.
2. Vài nét về lịch sử gia nhập WTO của
Việt nam
a/ Bối cảnh chung: Việt Nam xin
gia nhập WTO trong bối cảnh sau đây:
- Việc gia nhập WTO của Việt Nam
diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đã
là thành viên của ASEAN (từ ngày
25/7/1995), thành viên của Asem
(3/1996) và APEC (11/1998). Việt
Nam đang trong quá trình xúc tiến
tự do hoá thương mại nhằm thực thi
các nghĩa vụ thành viên của các tổ
chức này.
- Tiến trình tự do hoá thương mại
toàn cầu đang được các nước nỗ lực
thúc đẩy. Đặc biệt, Vòng Đàm phán
Thiên niên kỷ sắp được khởi xướng
sẽ là một bước đi lớn thúc đẩy tự do
hoá thương mại sâu rộng hơn nữa.
Các nước trong tiến trình gia nhập
WTO hiện đang hết sức cố gắng
xúc tiến việc gia nhập của mình.
- Với chủ trương hội nhập, Việt Nam
đã có nhiều biến chuyển về mặt
chính sách, cơ cấu nhằm thực hiện
tốt hơn tiến trình tự do hoá thương
mại của mình. Tình hình kinh tế
trong nước đã có nhiều biểu hiện
tích cực.
- Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền
tệ châu Á tuy không trực tiếp nhưng
đã có những ảnh hưởng đáng kể đến
tình hình kinh tế của Việt Nam. Đến
nay, các nước trong khu vực đã bắt
đầu tỏ ra có những dấu hiệu phục
hồi.
b/ Tiến trình gia nhập WTO:
- Tháng 12/1994, Việt Nam chính
thức gởi đơn xin gia nhập WTO.
- Ngày 30/1/1995, WTO thành lập
Ban Công tác về Việt Nam gia nhập
WTO.
- Ngày 26/8/1996, Việt Nam nộp Bản
Bị vong lục về chế độ Ngoại
Thương.
Sau khi Bản Vị vong lục được
luân chuyển giữa các nước thành
viên, Việt Nam đã nhận được rất
nhiều câu hỏi về chế độ ngoại
thương của mình và đã tiến hành
nhiều đợt trả lời các câu hỏi đó.
Việt Nam đã nhận được 1.174 câu
hỏi và đã trả lời 1.148 câu. Các câu
trả lời của Việt Nam được đánh giá
là nghiêm túc, có chất lượng cao.
Đến nay, Việt Nam cùng Ban Công tác
về việc gia nhập WTO của Việt Nam đã
tiến hành 3 phiên họp.
Phiên I: ngày 27-
28/7/1998.
Phiên II: ngày 3/12/1998.
Phiên III: ngày 22/7/1999.
Trong ba phiên họp này, đoàn Việt
Nam đã thực hiện minh bạch hoá một cách
tổng thể, toàn diện và sâu sắc thực trạng hệ
thống và diễn biến chính sách thương mại
của Việt Nam về hàng hoá, dịch vụ, sở hữu
trí tuệ. Việt Nam cũng đưa ra chương trình
thể chế hoá pháp luật.
Việt Nam cũng tiến hành xây dựng một
số tài liệu quy định của WTO, bao gồm:
- Bảng hiện trạng về hỗ trợ
trong nước và trợ cấp xuất
khẩu đối với nông sản (theo
mẫu biểu WT/ACC/4).
- Bảng doanh nghiệp thương
mại nhà nước (theo mẫu biểu
G/STR/4).
- Bảng trợ cấp công nghiệp.
Các tài liệu này về cơ bản đã
hoàn thành, đang trong quá trình
hoàn thiện có thể nộp cho Ban Thư
ký theo quy định. Sau đó, Việt Nam
phải chuẩn bị các nội dung đàm
phán mở cửa thị trường, đặc biệt là
các bản chào về hàng hoá mà trọng
tâm là thuế và phi thuế để nộp cho
Ban Thư ký, trước khi phiên họp
thứ 4 của Ban Công tác về việc gia
nhập của Việt Nam được tiến hành
vào tháng 2/2000.
Sau phiên họp này, Việt Nam tiếp
tục hoàn chỉnh các câu trả lời để kết thúc
giai đoạn 1 của quá trình gia nhập WTO
(giai đoạn tường trình) và chuyển sang giai
đoạn 2 (giai đoạn đàm phán song phương).
Giữa tháng 4-2002, Việt Nam đã có
phiên họp với Ban Công tác và đã thoả
thuận tiếp tục đàm phán vào tháng 9 hoặc
10 năm 2002 để kết thúc giai đoạn đàm
phán song phương, chuyển sang giai đoạn
3 (soạn thảo điều kiện và lộ trình gia nhập
WTO)
Cho đến nay, Việt Nam đã thương
lượng việc ký hiệp định thương mại song
phương với hơn 40 nước thành viên WTO.
Việc hai nước đã phê chuẩn Hiệp định
Thương mại Song phương Việt – Mỹ là
một đóng góp lớn thúc đẩy quá trình này,
vì thương lượng với Mỹ được coi là khó
khăn nhất trong quá trình gia nhập. Oâng
Ho Seung, Chủ tịch Ban Công tác, đã đề
nghị Ban Thư ký WTO soạn thảo một báo
cáo nêu những quyền lợi và nghĩa vụ của
Việt Nam khi gia nhập WTO, nhưng một
số nước như Mỹ, Úc cho là còn quá sớm,
và yêu cầu Việt Nam tiếp tục thể chế hoá
những cam kết của mình về đầu tư, vệ sinh
thực phẩm, hàng rào kỹ thuật, sở hữu trí
tuệ và chế độ hải quan trước khi gia nhập.
E/ NHỮNG CAM KẾT LỚN CỦA VIỆT
NAM KHI GIA NHẬP WTO:
1. Cam kết đa phương
a/ Về nền kinh tế thị trường:
Việt Nam chấp nhận bị coi là nền
kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là
không muộn hơn 31/12/2018.
Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu
ta chứng minh được với đối tác nào là kinh
tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ
chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng
chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế độ
“phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các
vụ kiện chống bán phá giá. Và các thành
viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế
tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu nước
ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
b/ Về dệt may:
Các thành viên WTO sẽ không
được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với
Việt Nam khi vào WTO (riêng trường hợp
ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị
cấm đối với hàng dệt may thì một số nước
có thể có biện pháp trã đũa nhất định).
Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không
được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng
dệt may của nước ta.
c/ Về trợ cấp:
Phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý
bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm
theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu
và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các
ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã
cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo
lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành
dệt may).
d/ Về trợ cấp nông nghiệp:
Việt Nam cam kết không áp dụng
trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời
điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu
quyền được hưởng một số quy định riêng
của WTO dành cho nước đang phát triển
trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà
WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung
ta duy trì được ở mức không quá 10% giá
trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo
lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào
khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại
trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay
trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp
được WTO cho phép nên ta được áp dụng
không hạn chế.
e/ Về quyền kinh doanh (quyền
xuất nhập khẩu hàng hóa):
Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp
và cá nhân nước ngoài được quyền xuất
nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam
kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc
danh mục thương mại nhà nước (như xăng
dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình,
báo chí) và một số mặt hàng nhạy cảm
khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian
chuyển đổi (như gạo và dược phẩm).
Cam kết của Việt Nam đồng ý cho
phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài
không có hiện diện tại Việt Nam được
đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt
Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền
đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ
tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp,
DN và cá nhân nước ngoài sẽ không được
tự động tham gia vào hệ thống phân phối
trong nước. Các cam kết về quyền kinh
doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của
ta trong việc đưa ra các quy định để quản
lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản
phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu,
báo - tạp chí…
f/ Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
rượu và bia:
Các thành viên WTO đồng ý cho ta
thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để
điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
rượu và bia cho phù hợp với quy định
WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên
20 độ cồn hoặc sẽ áp dụng một mức thuế
tuyệt đối hoặc một mức thuế phấn trăm.
Đối với bia, sẽ chỉ áp dụng một mức thuế
phần trăm.
Đối với doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), doanh nghiệp thương mại nhà
nước, cam kết trong lĩnh vực này là nhà
nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián
tiếp vào hoạt dộng DNNN. Tuy nhiên, nhà
nước với tư cách là một cổ đông được can
thiệp bình đẳng vào hoạt động của DN như
các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách
hiểu mua sắm của DNNN không phải là
mua sắm Chính phủ.
g/ Về tỷ lệ cổ phần thông qua quyết
định tại DN:
Điều 52 và 104 của Luật DN quy
định một số vấn đề quan trọng có liên quan
đến hoạt động của công ty TNHH và Công
ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có
số phiếu đại diện ít nhất là 65% hoặc 75%
vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể
vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn
trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo
hướng cho phép các bên tham gia liên
doanh được thỏa thuận vấn đề này trong
điều lệ công ty
h/ Về một số biện pháp hạn chế
nhập khẩu:
Ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy
phân phối lớn không muộn hơn ngày
31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta
đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ
thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có
một DN nhà nước được quyền nhập khẩu
toàn bộ thuốc lá điều và xì gà. Mức thuế
nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai
mặt hàng này là rất cao. Với ôtô cũ ta cho
phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng
không quá 5 năm.
i/ Về cam kết thực hiện minh bạch
hóa:
Ngay từ khi gia nhập Việt Nam sẽ
công bố dự thảo các văn bản quy phạm
pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý
kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp
ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam
cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn
bản pháp luật trên các tạp chí, trang tin
điện tử của bộ, ngành.
j/ Một số cam kết liên quan khác:
thuế xuất khẩu:
Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế
xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và
màu theo lộ trình, không cam kết về thuế
xuất khẩu của các sản phẩm khác.
Về đa phương, Việt Nam còn đàm
phán một số vấn dề đa phương khác như
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử
dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan
Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập
khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ
thuật trong thương mại… Với nội dung
này, ta cam kết tuân thủ các quy định của
WTO kể từ khi gia nhập.
2. Cam kết về thuế nhập khẩu
Mức cam kết chung của Việt Nam
là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ
biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình
quân toàn biểu được giảm từ mức hiện
hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện
dần trung bình 5 - 7 năm. Mức thuế bình
quân đối với hàng nông sản giảm từ mức
hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực
hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công
nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực
hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm.
Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng
hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ phải cắt
giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên
20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm
đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng,
sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy…
vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế
nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản
phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác,
máy móc và thiết bị điện - điện tử. Bên
cạnh đó, Việt Nam đạt được mức thuế trần
cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm
hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là
phương tiện vận tải.
Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm
thuế theo một số hiệp định tự do theo
ngành của WTO (giảm thuế xuống 0%
hoặc mức thấp). Đây là hiệp định tự
nguyện của WTO nhưng các nước mới gia
nhập đều phải tham gia một số ngành.
Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm
công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y
tế. Ta cũng tham gia một phần với thời
gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành
thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây
dựng.
Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo
lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia
cầm, lá thuốc lá và muối.
3. Cam kết về mở của thị trường dịch vụ
a/ Về diện cam kết:
Trong Hiệp định thương mại song
phương (BTA) với Hoa Kỳ ta đã cam kết 8
ngành dịch vụ (khoảng 65 phân ngành).
Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11
ngành dịch vụ, tính theo phân ngành
khoảng 110 ngành. Về mức độ cam kết,
với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có
những ngành nhạy cảm như bảo hiểm,
phân phối, du lịch… ta giữ được mức độ
cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn
thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm
kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước
tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với
hiện trạng và đều phù hợp với định hướng
phát triển đã được phê duyệt cho các
ngành này.
b/ Cam kết chung cho các ngành
dịch vụ:
Về cơ bản như BTA, rước hết, công
ty nước ngoài không được hiện diện tại
Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ
phi điều đó được ta cho phép trong từng
ngành cụ thể. Ngoài ra, công ty nước ngoài
tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm
việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán
bộ quản lý của công ty phải là người Việt
Nam. Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá
nhân nước ngoài được mua cổ phần trong
các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ
phải phù hợp với mức mở cửa thị trường
ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép
ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ
phần.
c/ Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí:
Đồng ý cho phép các DN nước
ngoài được thành lập công ty 100% vốn
nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập
để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác
dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam còn giữ
nguyên quyền quản lý các hoạt động trên
biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các ty
thăm dò, khai thác tài nguyên. Bảo lưu
được một danh mục các dịch vụ dành riêng
cho các DN Việt Nam như dịch vụ bay,
dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm
cho dàn khoan xa bờ… Tất cả các công ty
vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu
khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
d/ Dịch vụ viễn thông:
Việt Nam có thêm một số nhận
nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp
lý, phù hợp với chiến lược phát triển của
ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh
đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ
viễn thông không gắn với hạ tầng mạng
(phải thuê mạng do DN Việt Nam nắm
quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút về
việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi
lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông
có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các các
doanh nghiệp nhà nước nắm đa số vốn mới
đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được
góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên
doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp
phép).
e/ Dịch vụ phân phối:
Về cơ bản giữ được như BTA, tức
là khá chặt só với các nước mới gia nhập.
Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập
DN 100% vốn nước ngoài là như BTA
(1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta
không mở cửa thị trường phân phối xăng
dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng
hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý
cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm
như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ
mở cửa thị trường sau 3 năm. DN có vốn
đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai
trở đi phải được ta cho phép theo từng
trường hợp cụ thể.
f/ Dịch vụ bảo hiểm:
Về tổng thể, mức độ cam kết ngang
BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Hoa Kỳ
thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ
sau 5 năm kể từ ngày gia nhập.
g/ Dịch vụ ngân hàng:
Ta đồng ý cho thành lập ngân hàng
con 100% vốn nước ngoài không muộn
hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng
nước ngoài muốn được thành lập chi
nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó
không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn
phi chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng
VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5
năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn
giữ được hạn chế về mua cổ phần trong
ngân hàng Việt Nam (không quá 30%).
h/ Dịch vụ chứng khoán:
Ta cho phép thành lập công ty
chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi
nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO
Các cam kết khác, với các ngành
còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế
toán, xây dựng, vận tải… mức độ cam kết
về cơ bản không khác nhiều so với BTA.
Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn -
xuất bản.
G/ CAM KẾT CỦA VIỆT NAM KHI GIA
NHẬP WTO TRONG LĨNH VỰC DU
LỊCH NÓI RIÊNG:
Ngành
và phân
ngành
Hạn chế
tiếp cận
thị
Hạn chế
đối xử
quốc gia
Cam
kết
bổ
trường sung
II. Cam k
ết cụ thể
từng ngành
9. Dịch vụ du lịch và
dịch vụ liên quan
A. Khách
sạn và
nhà
hàng
bao
gồm:
- Dịch vụ
xếp chỗ ở
khách
hàng
- Dịch vụ
cung cấp
thức ăn
và đồ
uống.
(CPC
641-643)
(1)
a
Không
hạn chế
(2)
Không
hạn chế
(3)
Không
hạn chế,
ngoại
trừ trong
vòng 8
năm kể
từ ngày
gia
nhập,
việc
cung cấp
dịch vụ
cần tiến
(1) Không
hạn chế
(2) Không
hạn chế
(3) Không
hạn chế
(4) Chưa
hành
song
song với
đầu tư
xây
dựng,
nâng
cấp, cải
tạo hoặc
mua lại
khách
sạn. Sau
đó
không
hạn chế.
(4) Chưa
cam kết,
ngoại
trừ các
cam kết
chung
cam kết,
ngoại trừ
các cam kết
chung
B. Dịch
vụ đại lý
lữ hành
& điều
hành tour
(CPC
(1)
Không
hạn chế
(2)
Không
(1) Không
hạn chế
(2) Không
hạn chế
7471) hạn chế
(3)
Không
hạn chế,
ngoại
trừ các
nhà
cung cấp
DV
nước
ngoài
được
phép
cung cấp
DV dưới
hình
thức liên
doanh
với đối
tác Việt
Nam mà
không bị
hạn chế
phần
góp vốn
của phía
NN.
(3) Không
hạn chế,
trừ HDV
trong
doanh
nghiệp có
vốn đàu tư
NN là công
dân VN.
Được phép
đưa khách
vào du lịch
VN
(Inbound)
và lữ hành
nội địa đối
với khách
vào du lịch
Việt Nam
như là một
phần của
dịch vụ đưa
khách vào
du lịch Việt
Nam
(4) Chưa
cam kết,
trừ các cam
kết chung
(4) Chưa
cam kết,
trừ các
cam kết
chung
C. Dịch
vụ HDV
du lịch
Dịch vụ
khác
a
Phương thức cung cấp: 1. Cung cấp qua
biên giới; 2. Tiêu dùng ở nước ngoài; 3.
Hiệndiện thương mại; 4. Hiện diện thể
nhân
* Nội dung cam kết
- Diện cam kết: Việt Nam chỉ cam
kết dịch vụ khách sạn và nhà hàng, dịch vụ
đại lý lữ hành và điều hành tour du lịch.
Không cam kết dịch vụ hướng dẫn viên du
lịch.
- Đối với dịch vụ đại lý lữ hành và
điều hành tour du lịch:
+ Mở cửa thị trường: Việt
Nam chỉ cho phép các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài thành lập liên
doanh với đối tác Việt Nam, không
hạn chế vốn nước ngoài trong liên
doanh.
+ Đối xử quốc gia: Không
hạn chế, ngoại trừ:
• Hướng dẫn viên du lịch trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải là
người Việt Nam;
• Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có
vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép cung
cấp dịch vụ Inbound và lữ hành nội địa đối
với khách vào du lịch Việt Nam như là
một phần của dịch vụ đưa khách vào du
lịch VN.
- Một số lưu ý:
+ Mở cửa thị trường:
• Không cho phép doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài (phù hợp với Điều
51 Luật Du lịch);
• Không hạn chế vốn nước ngoài
trong liên doanh (Luật Du lịch Việt Nam -
2005 chưa có);
• Chưa cam kết cho phép thành lập
chi nhánh (Điều 42 Luật Du lịch);
• Không hạn chế đối tác Việt Nam
trong liên doanh (Điều 51 Luật Du lịch).
+ Đối xử quốc gia:
• Không cam kết cho phép doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
cung cấp dịch vụ Outbound
H/ THỰC TRẠNG CỦA NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM – CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC NGƯỠNG
CỬA GIA NHẬP WTO:
1. Thực trạng của nền kinh tế Việt nam:
Ngoại thương và hội nhập kinh tế
quốc tế: Chính sách đổi mới, mở cửa và
công nghiệp hóa đã mở ra cho Việt Nam
những cơ hội mới để phát huy những lợi
thế so sánh vốn có về tài nguyên thiên
nhiên và nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, sử
dụng những lợi thế đó vào việc phát triển
các nguồn hàng xuất khẩu ngày càng lớn,
tiêu thụ tại thị trường các nước, mang lại
một nguồn thu ngoại tệ ngày càng cao
phục vụ cho tăng trưởng kinh tế và công
nghiệp hóa. Trong thời kì đổi mới, kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi
năm tăng khoảng 20%, nhờ đó đã đưa tổng
giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ mức
khoảng nửa tỷ USD/năm trong những năm
trước đổi mới lên 26 tỷ USD năm 2004 và
32,23 tỉ USD năm 2005.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự
chuyển dịch tiến bộ. Trong giai đoạn
1991-1995, hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam gồm dầu thô, thủy sản, gạo, dệt
may, cà phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều.
Đến năm 2005, các mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy
sản, sản phẩm gỗ, điện tử và gạo. Cơ cấu
này phản ánh xu hướng gia tăng các chủng
loại mặt hàng chế biến, chế tạo, và sự giảm
đi về tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu
thô, chủ yếu là các mặt hàng nông, lâm,
hải sản và khoáng sản. Dù có sự tiến bộ
như vậy, nhưng các mặt hàng xuất khẩu
thô của Việt Nam đến nay vẫn còn chiếm
tỷ trọng cao, đòi hỏi một sự nỗ lực lớn hơn
nữa để tăng nhanh các mặt hàng công
nghiệp xuất khẩu.
Chính sách “đa dạng hóa, đa
phương hoá” quan hệ quốc tế đã giúp
Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng
hơn với nền kinh tế thế giới và khu vực.
Nếu như trước năm 1990, Việt Nam mới
có quan hệ thương mại với 40 nước, thì
ngày nay nhờ thực hiện chính sách đối
ngoại rộng mở, làm bạn, hợp tác với tất cả
các nước trên thế giới trên cơ sở bình
đẳng, cùng có lợi, Việt Nam đã có quan hệ
ngoại giao với 169 nước trên thế giới, ký
kết các hiệp định thương mại đa phương và
song phương với trên 80 quốc gia, thực
hiện chế độ tối huệ quốc với trên 70 quốc
gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những
nước và khu vực có nguồn vốn lớn, công
nghệ cao và thị trường lớn như Mỹ, Nhật
Bản, EU và các nền kinh tế mới công
nghiệp hóa ở Đông Á.
Kể từ khi thực hiện đường lối mở
cửa, Việt Nam đã ký các hiệp định hợp tác
kinh tế - thương mại với EU (năm 1992),
tham gia tổ chức ASEAN (1996) và khu
vực mậu dịch tự do AFTA của ASEAN
(2001), tham gia APEC (1998), ký hiệp
định thương mại song phương Việt–Mỹ
(2001), và từ tháng 10/2006 Việt Nam đã
chính thức trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban
hành tháng 12 năm 1987 đã tạo ra khuôn
khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động đầu
tư nước ngoài trực tiếp tại Việt Nam.
Trước đòi hỏi của thực tế và sự góp ý của
các nhà đầu tư nước ngoài, Luật đã có một
số lần được sửa đổi, bổ sung, nổi bật là các
lần sửa đổi vào những năm 1996 và năm
2002 nhằm tạo ra một môi trường đầu tư
thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến
khích các nhà đầu tư nuớc ngoài đầu tư
vào những mục tiêu trọng điểm và những
lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo hướng vào xuất
khẩu và các vùng kinh tế trọng điểm của
đất nước.
Những biện pháp cải cách trên đã
trở thành một trong những yếu tố quan
trọng góp phần khôi phục và tăng nhanh
nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam trong
năm 2005. FDI tăng nhanh trở lại còn do
các nguyên nhân quan trọng khác như sự
ổn định về chính trị, kinh tế, an ninh và
quốc phòng; nền kinh tế tiếp tục đạt mức
tăng trưởng cao; công cuộc đổi mới kinh tế
theo cơ chế thị trường tiếp tục được duy trì
và đẩy mạnh; mức sống của người dân
được nâng cao góp phần làm tăng mức cầu
nội địa; tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
được đẩy mạnh, uy tín và thương hiệu của
các loại hàng hóa sản xuất tại Việt Nam
trên các thị trường thế giới ngày càng được
nâng cao.
Kết quả, Việt Nam đã thu hút được
một lượng FDI ngày càng lớn: hầu như từ
con số không vào năm 1986, đã tăng lên
tới 3,2 tỷ USD năm 1997, sau đó do bị ảnh
hưởng tiêu cực bởi cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á năm 1997 đã giảm xuống
trong các năm 1998-2000 (có năm chỉ thu
hút được 1,58 tỷ USD như năm 1999).
Những năm gần đây, FDI vào Việt Nam đã
được phục hồi và có xu hướng tăng trở lại,
từ 2,6 tỷ USD năm 2001 đã tăng lên 5,8 tỷ
USD năm 2005. FDI tăng lên không chỉ
hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao cho các
nhà đầu tư nước ngoài, mà còn đóng vai
trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn
vốn, chuyển giao công nghệ và phương
thức kinh doanh hiện đại, khai thác các
tiềm năng của đất nước, đào tạo tay nghề
và giải quyết việc làm cho hàng chục vạn
lao động Việt Nam.
2. Cơ hội và thử thách của nền kinh tế
Việt Nam hiện nay:
* Những cơ hội thuận lợi cơ bản:
Việt Nam sẽ được hưởng những ưu
đãi thương mại, tránh được tình trạng bị
phân biệt đối xử, nâng cao thế và lực trong
thương mại quốc tế
Với tư cách là nước thành viên
WTO, Việt Nam sẽ được hưởng các ưu đãi
trong thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư
mà các nước thành viên giành cho nhau
thông qua Chế độ đãi ngộ Tối huệ quốc
(MFN), Chế độ Đãi ngộ quốc gia (NT),
tránh được tình trạng bị phân biệt đối xử,
gây bất lợitrong quan hệ kinh tế – thương
mại.
Với tư cách là một nước đang phát
triển ở trình độ phát triển thấp, Việt Nam
còn có thể được hưởng những ưu đãi riêng
về miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện
các nghĩa vụ thành viên cũng như trong
việc tiếp cận thị trường để bán các sản
phẩm của mình.
Việt Nam có thể sử dụng các cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình trong
trường họp có tranh chấp thương mại với
các nước thành viên, đặc biệt khi nước
thành viên đó là cường quốc về kinh tế.
a/ Cơ hội mở rộng thị trường,
tăng cường xuất khẩu
+ Việt Nam sẽ tham gia vào một hệ
thống thương mại rộng mở, tự do và bình
đẳng, có cơ hội tiếp cận thị trường của trên
130 quốc gia với những hàng rào thương
mại ngày càng được hạ thấp, được hưởng
các cam kết ư đãi, mở cửa thị trường hàng
hoá, dịch vụ, đầu tư mà các nước thành
viên dành cho nhau thông qua kết quả các
vòng đàm phán tự do hoá thương mại, mở
cửa thị trường.
+ Tạo được môi trường thông
thoáng cho phát triển kinh tế, mở rộng thị
trường về mọi mặt, đặc biệt là cho hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam với những
mặt hàng có ưu thế như gạo, cà phê, hàng
dệt may, giày dép…
b/ Tăng thu hút đầu tư và sự
chuyển giao kỹ thuật, công nghệ
cao từ các nước
+ Tạo lập và củng cố lòng tin
của các nước vào cơ chế chính sách
của Việt Nam trên cơ sở đó tạo sự
hấp dẫn để các nhà đầu tư nước
ngoài an tâm đầu tư vào Việt Nam.
Đồng thời, Việt Nam cũng tăng
thêm cơ hội tiếp cận các nguồn vốn
vay ưu đãi, các hình thức tín dụng,
tài trợ của các tổ chức tài chính
quốc tế như WB, IMF….
c/ Nâng cao vị trí quốc tế của
Việt Nam, tạo thế đứng vững
chắc hơn cho Việt Nam trong
quan hệ quốc tế
Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia các
cuộc đàm phán đa phương, giải quyết các
nhu cầu về thị trường vì các quyền lợi
chính đáng của mình. Như vậy, Việt Nam
có điều kiện, cơ hội góp tiếng nói vì lợi ích
các nước đang phát triển, nắm bắt tốt hơn
các xu thế quốc tế cũng như sự điều chỉnh
chính sách kinh tế thương mại của các
nước khác, từ đó xác định được hướng
điều chỉnh phù hợp với tiến trình chung và
khai thác triệt để những cơ hội có lợi nhất
cho mình.
d/ Tăng sức cạnh tranh, nâng
cao hiệu quả
Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho các
nhà sản xuất kinh doanh Việt Nam mở
rộng quan hệ làm ăn, chấp nhận cạnh
tranh, nâng cao chất lượng quản lý và sản
xuất, tiếp thu khoa học công nghệ mới,
nâng cao hiệu quả hoạt động.
e/ Không phân biệt đối xử:
Khi gia nhập WTO, Việt Nam được
tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở
tất cả các nước thành viên với mức thuế
nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành
dịch vụ, không bị phân biệt đối xử.
* Thách thức
Bên cạnh những cơ hội to lớn, việc
gia nhập WTO cũng đặt ra cho Việt Nam
những thách thức chủ yếu như sau:
a/ Sức mạnh cạnh tranh của
hàng hoá, dịch vụ và đội ngũ
các nhà doanh nghiệp của Việt
Nam còn yếu kém.
Tham gia hợp tác kinh tế quốc tế sẽ
tạo điều kiện để hàng hoá và dịch vụ Việt
Nam có thêm cơ hội để xâm nhập thị
trường quốc tế thông qua các nguyên tắc
về đãi ngộ tối huệ quốc MFN và đãi ngộ
quốc gia (NT), nhưng sức cạnh tranh của
hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam còn
chưa cao nên cơ hội thâm nhập thị trường
quốc tế mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng,
trong khi đó hàng hoá và dịch vụ nước
ngoài với sức cạnh tranh cao sẽ có điều
kiện xâm nhập thị trường Việt Nam.
b/ Hệ thống luật pháp, chính
sách quản lý kinh tế – thương
mại chưa hoàn chỉnh
Trong tiến trình đàm phán gia
nhậpWTO, Việt Nam phải tiến hành điều
chỉnh chính sách kinh tế, thương mại nhằm
đáp ứng được các nguyên tắc của WTO,
đồng thời hỗ trợ đắc lực cho sản xuất, dịch
vụ trong nước phát triển mạnh mẽ để tạo
thành một công cụ đắc lực cho đàm phán
mở cửa thị trường. Nhưng chúng ta có thể
nhận thấy hệ thống chính sách kinh tế,
thương mại của Việt Nam còn chưa hoàn
chỉnh, đồng bộ, kỷ thuật xây dựng còn thô
sơ, trong đó đáng lưu ý là chính sách Thuế
và phi Thuế. Bên cạnh đó, về mặt quản lý
nhà nước, tổ chức và quản lý sản xuất kinh
doanh, hỗ trợ xúc tiến thương mại cũng
còn nhiều bất cập, thiếu hiệu quả, gây tình
trạng chồng chéo, trách nhiệm không rõ
ràng.
c/ Môi trường, an ninh quốc
gia, … có thể bị nguy hại:
Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra
những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi
trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền.
* Đối với các doanh nghiệp Việt nam:
+ Ðây là sân chơi lớn toàn cầu.
Doanh nghiệp Việt Nam cần gia nhập vào
sân chơi đó sẽ tăng vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
+ Doanh nghiệp cần thị trường toàn
cầu để phát triển kinh tế, thương mại và
thu hút đầu tư. Hiện nay, xuất khẩu của
doanh nghiệp tăng tương đối nhanh, có
năm 23%, có năm 19%, năm 2005 kim
ngạch của đạt 32,5 tỷ USD. So với các
nước trong khu vực thì như vậy là rất nhỏ.
+ Muốn thực hiện được mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh thì kim ngạch xuất khẩu
của doanh nghiệp phải đạt 100 tỷ USD trở
lên, nhập khẩu phải ở mức tương đương.
Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam còn bị phân
biệt đối xử, khi gia nhập WTO những phân
biệt đối xử đó mới được dỡ bỏ.
Thí dụ, xuất khẩu các mặt hàng dệt
may, giày dép sang châu Âu; vẫn không
được hưởng ưu đãi thuế quan đối với nông
sản, nên không bán gạo vào châu Âu được.
Hàn Quốc bảo hộ gạo, có hạn ngạch, gia
nhập WTO, doanh nghiệp Việt nam mới
được chia hạn ngạch. Với Hoa Kỳ, không