Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Đẩy mạnh hội nhập Quốc tế trong du lịch sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.67 KB, 61 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam đã khẳng định
thực hiện nhất quán : “ Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các mối quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển” ( Tr. 19, văn
kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam, NXB CTQG, Hà
Nội 2001). Tại Việt Nam, du lịch là cầu nối giao lưu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với
chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế của Đảng
và Nhà nước. Mở rộng du lịch quốc tế gắn liền với tăng lượng khách phục vụ, trong đó
sự đi lại, tìm hiểu thị trường của khách thương nhân được chú trọng. Từ đó du lịch thúc
đẩy đầu tư, buôn bán quốc tế…Bản thân hoạt động kinh doanh du lịch phải phát triển
theo hướng quốc tế hố, vì khách du lịch thường được nhiều nước trong một chuyến đi
du lịch dài ngày. Hình thức liên doanh, liên kết ở phạm vi quốc tế trong kinh doanh du
lịch là phương thức kinh doanh đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Hoạt động kinh doanh du
lịch với lợi nhuận kinh tế cao, đến lượt nó lại kích thích đầu tư nước ngồi vào du lịch
và tăng cường chính sách mở cửa.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đặc biệt là xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng về các ngành dịch vụ đã mở
ra một cơ hội phát triển thuận lợi cho ngành du lịch đất nước. Do là một ngành khá
nhạy cảm đối với những sự biến động của môi trường xung quanh, đặc biệt là môi
trường vĩ mô nên bất cứ một động thái nào trong yếu tố vĩ mô đều ít nhiều ảnh hưởng
đến chất lượng cũng như tốc độ phát triển của du lịch. Việc hội nhập quốc tế của du lịch
Việt Nam, một mặt là do chính bản chất của ngành – lĩnh vực kinh tế Quốc tế đòi hỏi.
Mặt khác, là do đường lối phát triển xã hội của Việt Nam quyết định. Bởi du lịch vốn là
một ngành kinh tế dịch vụ đặc biệt, mang chuẩn mực quốc tế cao, tạo cảm giác thoải


mái cho du khách nên nó phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố xung quanh - những yếu tố
đem đến tâm lý thoải mái và dễ chịu như: chính trị ổn định, môi trường trong sạch, cơ


sở vật chất hấp dẫn, chính sách nhập cảnh đơn giản, thuận lợi….
Trong những năm qua, hội nhập Quốc tế của du lịch Việt Nam đã có nhiều thành
cơng góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh ngành du lịch, góp phần tích cực trong quá
trình đàm phán của Việt Nam vào WTO. Tuy nhiên khi Việt Nam đã là thành viên của
WTO thì yêu cầu đặt ra đối với hội nhập Quốc tế lại càng quan trọng hơn. Một mặt, hội
nhập Quốc tế tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc phát huy lợi thế so sánh và nâng cao
năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trên cả 3 cấp độ : Quốc gia, ngành và doanh
nghiệp. Mặt khác, phải giữ nguyên tắc hội nhập của Đảng và Nhà nước Việt Nam là :
Hội nhập nhưng phải giữ độc lập tự chủ, tự lực tự cường, bảo đảm an ninh quốc gia, ổn
định chính trị -xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và định hướng xã hội
chủ nghĩa. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, nhóm sinh viên ngành Quản
trị du lịch K46 chúng em mạnh dạn chọn đề tài : “Đẩy mạnh hội nhập Quốc tế trong
du lịch sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO” làm cơng
trình nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2007.
2. Đối tượng nghiên cứu : Hội nhập quốc tế của ngành du lịch Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu quá trình hội nhập quốc tế của ngành du lịch Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài : Tìm ra các bài học kinh nghiệm của Du
lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu : Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, thu thập các
dữ liệu thứ cấp về các sự kiện hội nhập kinh tế Quốc tế của ngành du lich Việt Nam,
phân tích các kết quả hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển của ngành du lịch.
5. Kết cấu đề tài nghiên cứu
Không kể mở đầu, kết luận cơng trình khoa học này được kết cấu thành 3
chương :
Chương 1. Cơ sở khoa học về hội nhập Quốc tế trong du lịch.

2


Chương 2. Khái quát về thực trạng hội nhập quốc tế của ngành du lịch Việt

Nam.
Chương 3. Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quan hệ quốc tế trong
du lịch sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học chúng em xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới
TS. Nguyễn Văn Mạnh, Hội đồng khoa học Khoa, Ban chấp hành Liên chi đoàn khoa
Du lịch và Khách sạn đã gợi ý, tạo điều kiện và tận tính hướng dẫn cho nhóm sinh viên
chúng em hồn thành cơng trình nghiên cứu khoa học đầu tay này.

3


Chương I:
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG DU LỊCH
1.1 Các khái niệm cơ bản về hội nhập quốc tế
Hội nhập là gì ?
Nhiều định nghĩa, thường gắn với các trường phái lý thuyết chức năng (Trường
phái thể chế): “ Hội nhập là một quá trình hướng tới và là sản phẩm cuối cùng của sự
thống nhất về chính trị giữa các quốc gia riêng rẽ ”. Cho đến nay có ba cách tiếp cận
tiêu biểu về hội nhập quốc tế . Cách tiếp cận thứ nhất: cho rằng hội nhập là sản phẩm
cuối cùng hơn là một q trình; sản phẩm đó là sự hình thành một nhà nước liên bang
kiểu Hoa Kỳ và Thụy Sỹ. Cách tiếp cận thứ hai cho rằng hội nhập là sự liên kết các
quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu thương mại, thông tin, du lịch, di trú…
từ đó hình thành dần các cộng đồng (vừa là quá trình vừa là sản phẩm). Cách tiếp cận
thứ ba cho rằng hội nhập vừa là quá trình vừa là sản phẩm cuối cùng, nhưng nhấn mạnh
hội nhập là sự hợp tác trong hoạch định chính sách và thái độ của tầng lớp tinh tuý.
Cách tiếp cận hội nhập ở Việt Nam
Hội nhập là cách nói gọn của cụm từ hội nhập kinh tế quốc tế, nên cần hiểu là quá
trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và
thế giới thơng qua các nỗ lực tự do hố và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song
phương và đa phương.. Như vậy hội nhập (hay hội nhập kinh tế quốc tế) thực chất cũng

là sự chủ động tham gia vào q trình tồn cầu hố, khu vực hố. Nguyên tắc hội nhập
của Việt Nam là: Hội nhập nhưng phải giữ độc lập tự chủ, tự lực tự cường , bảo đảm an
ninh quốc gia, ổn định chính trị -xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và
định hướng xã hội chủ nghĩa.

4


Nội dung của hội nhập
- Với bên ngoài: ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế quốc tế; cùng
các thành viên đàm phán, xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam
kết đối với thành viên của các định chế tổ chức đó.
- Bên trong: Tiến hành các cơng việc cần thiết để đảm bảo đạt được mục tiêu của
quá trình hội nhập cũng như thực hiện các quy định, cam kết về hội nhập (Điều chỉnh
chính sách; Điều chỉnh cơ cấu kinh tế; Cải cách cần thiết về kinh tế, xã hội; Đào tạo
phát triển nguồn nhân lực).
Tồn cầu hố hố
Theo quan niệm rộng:, tồn cầu hóa là hiện tượng hay qúa trình trong quan hệ
quốc tế làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau trên nhiều mặt của đời sống xã hội (kinh tế, văn
hố, chính trị, an ninh, mơi trường…) giữa các quốc gia. Hiện tượng đa phương diện
trong nhiều hình thức hoạt động xã hội đa dạng, vừa mang tính tích cực vừa có tác động
tiêu cực.
Theo quan niệm hẹp: (khái niệm kinh tế), tồn cầu hóa là hiện tượng hay q trình
hình thành thị trường tồn cầu làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế quốc gia.
Theo TS.Nguyễn Văn Lưu, toàn cầu hóa là một sự liên kết, theo đó những gì
diễn ra trong một lĩnh vực ở một phần thế giới đều tác động đến lĩnh vực và phần còn
lại của thế giới.
Theo cách nói của Bill Clinton- cựu Tổng thống Hoa Kỳ, tồn cầu hố là một
thuật ngữ kinh tế tương đương với sức mạnh của tự nhiên, như gió hay nước. Có thể lợi

dụng sức gió để thổi căng những cánh buồm. Có thể lợi dụng sức nước để tạo ra năng
lượng. Chúng ta có thể nỗ lực bảo vệ con người và tài sản khỏi gió bão và lũ lụt.
Nhưng, khơng có lý do gì để phủ định sự tồn tại của gió và nước, cũng như khơng có cớ
gì để phải huỷ diệt chúng. Điều này cũng đúng với q trình tồn cầu hố. Có thể tối đa

5


hố những lợi ích của nó và giảm thiểu những rủi ro mà nó đem lại, nhưng khơng thể bỏ
qua nó và chắc chắn là nó sẽ chẳng ra đi.
Xu hướng của q trình tồn cầu hố
Có thể nói, ngày nay xu thế tồn cầu hố đã và đang trở thành xu thế tất yếu của
nền kinh tế thế giới. Xu thế này khiến cho những rào cản kinh tế ngăn cách giữa các
quốc gia dần dần được dỡ bỏ, một thị trường toàn cầu với nguyên tắc luật lệ thống nhất
đang được hình thành cùng với nó là sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học
công nghệ càng làm tăng thêm độ “nóng bỏng” cho nền kinh tế thế giới. Hơn nữa,
khơng phải ngẫu nhiên mà tồn cầu hoá lại là xu thế phát triển chung của thế giới. Sự
hội tụ đầy đủ các yếu tố như: tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, quá trình tự do hố thương mại và đầu tư quốc tế,
sự mở rộng liên kết của các công ty đa quốc gia và các vấn đề về môi trường đã cùng
nhau thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng hội nhập trên tất cả các lĩnh
vực. Những nguyên nhân này có thể là do chủ quan hay cũng có thể là do khách quan
mang lại song chúng đều là những yếu tố mang tính quy luật khơng sớm thì muộn sẽ
xuất hiện và tác động vào nền kinh tế thế giới như một cú huých quan trọng làm thay
đổi toàn bộ bộ mặt của kinh tế toàn cầu.
Xu thế tồn cầu hố đã xuất hiện từ lâu. Có thể nói “ con đường tơ lụa” từ Á sang
Âu đã biểu hiện sơ khai của xu thế này. Tới thế kỷ VI, với những đại phát kiến về địa lý
và đặc biệt là từ thế kỷ XVIII, khi lồi người chuyển từ thời đại nơng nghiệp sang thời
đại cơng nghiệp thì nền kinh tế dần dần mang tính chất tồn cầu hố với những xu
hướng sau:

- Xu hướng tồn cầu hố kinh tế
-

Xu hướng hồ bình, hợp tác và phát triển kinh tế

-

Xu hướng phát triển dân số thế giới

-

Xu hướng phát triển khoa học và công nghệ

Hai mặt của q trình tồn cầu hố

6


Tồn cầu hố phá bỏ hoặc ít ra giảm bớt những rào cản ngăn cách, mở rộng thị
trường, kích thích sản xuất, đồng thời cũng làm cho sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt.
Trình độ tồn cầu hố cao gia tăng chưa từng thấy tính tuỳ thuộc lẫn nhau C.Mác và Ph.
Ăng-ghen gọi là “sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc”. Nền sản xuất của nhiều quốc
gia được đưa vào dây chuyền sản xuất mang tính tồn cầu; một khâu trong dây chuyền
ấy trục trặc có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của toàn bộ hệ thống. Điều đó làm cho
nền kinh tế của mỗi nước bị cột chặt vào nền kinh tế chung, đồng thời cũng củng cố vị
thế của các nước nếu biết giành vị trí tối ưu trong phân cơng lao động quốc tế. Những
hiện tượng mới như hệ thống thông tin, truyền hình vượt biên giới quốc gia mang tính
tồn cầu; hàng rào thuế quan được dỡ bỏ hoặc hạ thấp; sự chuyển dịch hàng hố, tiền tệ,
dịch vụ, lao động thơng thống, thậm chí ở một khu vực rộng lớn, cơng dân qua lại
khơng cần hộ chiếu, thị thực địi hỏi cách đề cập hoàn toàn mới trong việc bảo vệ độc

lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Sự giao lưu về văn hố tư tưởng cũng khác hẳn
trước; nhờ thơng tin hiện đại cái hay lan truyền rất nhanh, cái độc hại cũng được phổ
biến trong chớp nhoáng; một sự kiện xảy ra ở bất cứ đâu khó bề giữ kín và chịu phản
ứng tức thì.
Tồn bộ tình hình trên đặt ra sự lựa chọn thật không dễ dàng: không quan tâm tới
tính tồn cầu hố cao, co cụm, khép kín thì khơng phát triển được, thậm chí có muốn
cũng khó bề thực hiện được; nắm bắt và lựa cách tận dụng xu thế mới thì có cơ phát
triển song cũng phải gánh chịu những tác động không đơn giản của những làn gió từ
bên ngồi lùa vào. Xu hướng chung trên thế giới là chọn cách thứ hai; vấn đề là khôn
khéo khai thác những tác động thuận chiều, hạn chế ảnh hưởng khơng thuận chiều
hướng đó.
Đi đơi với xu thế tồn cầu hố, gần đây chúng ta được chứng kiến sự phát triển rất
mạnh mẽ của xu thế khu vực hố.
Khu vực hố
Theo nghĩa rộng, khu vực hóa là hiện tượng hay khuynh hướng hợp tác hoặc liên
kết giữa các nước và hình thành các nhóm hoặc tổ chức, khu vực hoạt động trên một
hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau.

7


Theo nghĩa hẹp, khu vực hóa là một hiện tượng trong quan hệ kinh tế quốc tế, bao
gồm các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế giữa một số nước tập hợp thành những nhóm
khu vực có mức độ liên kết kinh tế khác nhau.
Khu vực hoá thể hiện trên ba cấp. Thứ nhất, cấp “đại khu vực”, mở rộng Liên
minh Châu Âu (EU), mở ra triển vọng biến toàn bộ Châu Âu thành một thực thể. Ở
Châu Á – Thái Bình Dương, Hội nghị hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương) họp
ở Bơgo (Indonexia) vừa quyết định hình thành khu vực mậu dịch tự do. Ở Châu Mỹ,
Hội nghị cấp cao họp ở Maiami (Mỹ) cũng quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự
do toàn Châu Mỹ (FTAA). Thứ hai, “tiểu khu vực”, các khu vực mậu dịch tự do Bắc

Mỹ (NAFTA), khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực mậu dịch tự do Nam
Mỹ (MERCOSỦ)…ra đời. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều tổ chức hợp tác khu vực
như: Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC), Tổ chức hợp tác kinh tế của Tây Á
(ECO), Diễn đàn Nam Thái Bình Dương (SPF)… Thứ ba, cấp tầm liên quốc gia gần
đây xuất hiện nhiều tam- tứ giác phát triển, nhất là ở Đơng Nam Á; tam giác phát triển
phía nam bao gồm Singapore, bang Giơho của Malayxia và đảo Baatm phía nam Thái
Lan, các bang phía Bắc Malayxia và tỉnh Xumatowra của Indonexia; tam giác phát triển
phía đơng bao gồm đảo Minđanao của Philippin, Xulavêxi của Indonexia và miền đông
Malayxia; tứ giác vàng bao gồm Thái lan, Mianma, Lào và Vân Nam (Trung Quốc); ở
Đơng Bắc Á có tam giác sơng Chumen bao gồm các khu vực biên giới của Cộng hoà
dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Trung Quốc, Nga..
Xu thế này phản ánh lợi ích của các nước mở rộng thị trường, phối hợp nguồn
nhân lực, tài lực, kết cấu hạ tầng, tài nguyên để cùng nhau phát triển. Xu hướng khu vực
hoá đồng thời cũng là một sự “phản ứng” đối với xu thế tồn cầu hố, một sự tập hợp
lực lượng để đối khó với sự cạnh tranh đang diễn ra mạnh mẽ. Một số nước, nhất là các
nước cơng nghiệp phát triển, muốn thơng qua việc hình thành các khu vực mậu dịch tự
do để giành thị trường và phát huy ảnh hưởng, xác định vai trò của mình. Khác với
trước đây, xu hướng khu vực hố diễn ra đồng thời với xu hướng tồn cầu hố, các tổ
chức khu vực bao gồm các nước có chế độ chính trị - xã hội và trình độ phát triển khác
nhau, đều có xu hướng mở chứ khơng khép kín. Tuy nhiên, nếu khơng khéo xử lý thì
hai xu hướng ấy có thể trở thành đối lập nhau. Các tổ chức khu vực sẽ biến thành các

8


khối khép kín. Khu vực hố tăng khả năng phát triển của các quốc gia song không phải
là thang thuốc vạn năng nếu như bản thân mỗi nước không gia tăng nội lực của mình;
ngược lại sẽ gánh chịu sự cạnh tranh chèn ép mãnh liệt.
Nhìn chung lại, hai xu thế lớn là tồn cầu hố và khu vực hố có nguồn gốc sâu
xa, đang phát triển mạnh mẽ, có tác động sâu sắc về nhiều mặt tới quan hệ quốc tế,

chính sách của các quốc gia, đời sống các dân tộc. Tiến hành chính sách đối ngoại rộng
mở, đa dạng hố, đa phương hố cả về quan hệ chính trị lẫn quan hệ kinh tế, chúng ta
không thể không nghiên cứu sâu hơn nguồn gốc, nội dung, hình thức biểu hiện và
những tác động của chúng để tìm cách thích nghi, ứng phó.
Các biểu hiện cụ thể của nền kinh tế du lịch tồn cầu:
- Sự hình thành của các khối kinh tế khu vực, trong đó du lịch-dịch vụ đóng vai trị
quan trọng: EU, khối Bắc Mỹ, ASEAN…
- Sự hình thành của nhiều tổ chức tồn cầu, khu vực, tiểu khu vực, trực thuộc
hoặc không trực thuộc liên hợp quốc đang tham gia trực tiếp hoặc giántiếp điều tiết hoạt
động du lịch thế giới: các tổ chức như: GO, NGOs.
- Sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia, một dạng ban đầu của tổ chức
kinh tế tương lai của nền kinh tế du lịch toàn cầu đang phát triển và chi phối quan hệ
kinh tế du lịch quốc tế: các liên minh, hiệp hội lữ hành, khách sạn, hàng không…
1.2 Các tổ chức hội nhập quốc tế tiêu biểu trong du lịch
Tổ chức quốc tế mang tính chính phủ về du lịch
Tổ

chức

du

lịch

thế

giới

(United

Nations


Word

Tourism

Organization_UNWTO)
Ngày thành lập: 02-01-1975 do việc cải tổ Hiệp hội Quốc tế các tổ chức du lịch
Quốc gia. Đây là một tổ chức có tính chất liên chính phủ của Liên hiệp quốc. Để phân
biệt với tổ chức Thương mại Thế giới (WORD TRADE ORGANIZATION-WTO) cũng
có tên viết tắt như Tổ chức Du lịch Thế giới WORD TOURISMS RGANIZATIONWTO) tháng 11 năm 2005 Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) được đổi tên theo tiếng
Anh là UNITED NATIONS WORDL TOURISM ORGANIZATION và viết tắt là

9


UNWTO.UNWTO có khoảng 500 thành viên gồm 3 loại: Thành viên độc lập, thành
viên liên kết, thành viên chi nhánh. Trụ sở chính đặt tại thủ đơ Madrid của Tây Ban
Nha. Mục đích của UNWTO là khuyến khích phát triển các hoạt động du lịch quốc tế
nhằm phát triển kinh tế, giao lưu văn hố và chung sống hồ bình giữa các dân tộc.
Các hoạt động chính của UNWTO: Tổng kết kinh tế du lịch thế giới, thống kê du
lịch, tổ chức các hội nghị, hội thảo, hoạt động nghiên cứu về du lịch toàn cầu, hoạt
động marketing du lịch, tổ chức quản lý du lịch, bảo vệ môi trường, thông qua các văn
kiện quan trọng như Hiến chương du lịch, bộ luật du lịch, các tuyên bố về du lịch
khuyến cáo Liên hợp quốc và các chính phủ, các nhà nước có các những giải pháp phát
triển du lịch phù hợp.
Ngơn ngữ sử dụng chính: ANH, PHÁP, TÂY BAN NHA.
Tài liệu phát hành: Tạp chí Du lịch Thế giới, Thống kê Du lịch, Tổng kết Du lịch
Thế giới, địa chỉ website: http: //www.world-tourism.org
Việt Nam tham gia UNWTO năm 1981. Năm 1987, Việt Nam được bầu là Phó
chủ tịch Uỷ ban Đơng Á-Thái Bình Dương, tích cực tham gia đại hội thường niên, đại

hội khu vực, tranh thủ sự hỗ trợ của UNWTO về thông tin, đào tạo nhân lực và hỗ trợ
kỹ thuật.
Tổ chức phi chính phủ ( Non - govermental Organization, gọi tắt là NGOs)
Đã tồn tại hàng trăm năm trên thế giới với nhiều dạng khác nhau. Nguồn gốc từ
xa xưa của NGOs vốn là những nhóm nhỏ làm từ thiện. Tiêu chí hoạt động của họ là
hoạt động nhân đạo đối với nạn nhân chiến tranh, thiên tai và người nghèo, khơng phân
biệt chính kiến và địa dư. Cho tới nay trên thế giới các nước có quan điểm khác nhau về
phân loại và định nghĩa về NGOs.
* Một số nước coi tất cả các tổ chức khơng phải của chính phủ là các NGOs.
* Theo luật pháp một số nước, các tổ chức NGOs nước ngồi bao gồm các tổ thể
có tư cách pháp nhân là các Viện, các tổ chức tư nhân hay công cộng hoặc các quỹ, là
những tổ chức khơng có chính phủ. Các NGOs đó là các tổ chức phi lợi nhuận, được

10


lập ra hợp pháp và có tư cách pháp nhân theo luật và quy đinh của nước đó khơng theo
đuổi mục đích chính trị.
* Theo định nghĩa của tổ chức Liên hợp quốc, NGOs là bất kỳ tổ chức quốc tế
nào đựơc lập ra không phải do một thoả thuận liên chính phủ quốc tế, nhưng NGOs đó
có thể bao gồm các tổ chức có các thành viên do chính phủ cử ra, với điều kiện tư cách
thành viên không cho phép thành viên đó tự do bày tỏ ý kiến của tổ chức đó.
Có thể rút ra đặc điểm chung của loại hình tổ chức này là nó đựơc thành lập một
cách tự nguyện và hợp pháp, không thuộc bộ máy hành chính nhà nước và khơng nhằm
mục đích lợi nhuận.
Liên đoàn hiệp hội các hãng lữ hành (Universal Federation ò Travel agent
Association UFTTA
Thành lập: tháng 11 năm 1966 tại Roma.
Trụ sở chính hiện nay:Thủ đơ Brussel, Vương quốc Bỉ.
Tính chất: Tổ chức liên kết quốc tế phi chính phủ về du lịch.

Thành viên có khoảng 900. Bao gồm các thành phần doanh nghiệp độc lập, hiệp
hội lữ hành, thành viên đại diện cho quốc gia.Phạm vi hoạt động ở 10 khu vực trên
phạm vi toàn thế giới, mỗi khu vực có một giám đốc điều hành. Mục đích của các tổ
chức này chứng minh cho các chính phủ thấy được sự đóng góp to lớn của lữ hành cho
sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia và tồn thế giới.
Các hoạt động chính là bảo vệ quyền lợi nghề nghiệp của các thành viên, tiêu
chuẩn hoá chức danh nghề nghiệp, phổ biến các văn bản pháp luật quốc tế về du lịch
đến các thành viên, khuyến nghị các biện pháp nhằm giảm thủ tục hành chính đỡ gây
phiền hà cho khách, do an ninh an toàn, tổ chức hội thảo hội nghị trao đổi kinh nghiệm
nghề nghiệp.
Ngơn ngữ sử dụnh chính: ANH, PHÁP, TÂY BAN NHA.
Tài liệu phát hành ấn phẩm hàng tháng UFTTA WORLD MAGAZINE
Địa chỉ Website: http: //www.uftta.org

11


Hiệp hội thế giới các đại lý lữ hành (World Association of Travel Agent –
WATA)
Thành lập: Năm 1949 theo sáng kiến của Thụy Sỹ
Trụ sở chính hiện nay: Thủ đơ Genever.
Tính chất: Tổ chức liên kết quốc tế phi chính phủ về du lịch.
Thành viên có khoảng 240 từ 90 quốc gia, các doanh nghiệp độc lập, hiệp hội lữ
hành, thành viên đaị diện cho quốc gia.
Phạm vi hoạt động ở 210 thành phố trên tồn thế giới.
Mục đích nhằm giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong việc bảo đảm quyền
lợi kinh tế thông qua việc trao đổi dịch vụ thương mại, kỹ thuật, thông tin, soạn thảo và
phân phát những tài liệu cần thiết về chuyên môn nghiệp vụ, quảng bá sản phẩm cho
các thành viên.
Các hoạt động chính: Thu thập các loại dữ liệu về quảng cáo cho du lịch quốc tế,

tham gia các hoạt động thương mại, tài chính có liên quan đến lữ hành, tổ chức hội nghị
hội thảo quốc tế có liên quan đến lữ hành, giữ mối quan hệ với hiệp hội khách sạn quốc
tế.
Ngơn ngữ sử dụng chính: ANH, PHÁP.
Tài liệu ấn phẩm hàng tháng GENERAL TARIFT, W.A.T.A MASTERKEY. địa
chỉ Website:
Hiệp hội du lịch Châu Á Thái Bình Dương (FACIFIC AREA TRAVEL
ASSOCIATION –PATA)
Thành lập: Năm 1951 tại HAWAI.
Trụ sở chính:trước năm 1997 ở SANFRANCISCO (Hoa Kỳ); vào năm 1998 đến
nay chuyển tới Bangkok, Thái Lan.
Tính chất: tổ chức liên kết quốc tế phi chính phủ về du lịch.

12


Thành viên có 80 cơ quan du lịch nhà nước, lãnh thổ, địa phương của 40 quốc gia,
hơn 2000 tổ chức du lịch được tổ chức thành 80 chi bộ. Cơ quan lãnh đạo hội nghị hàng
năm, Ban giám đốc và Ban chấp hành.
Phạm vi hoạt động chia thành 9 khu vực: Đơng Á, Nam Á, Đơng Nam Á, Thái
Bình Dương, quần đảo Hawai, Nam Thái Bình Dương, Châu Đại Dương, Alasca, Mỹ
và Canada.
Mục đích của PATA: Tuyên truyền và khuyến khích sự phát triển du lịch ở khu
vực Châu Á _Thái Bình Dương.
Các hoạt động chính: giúp đỡ các thành viên trong nhiều lĩnh vực như tuyên
truyền quảng cáo, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự liên kết, hợp tác giữa các thành viên, tổ chức nghiên cứu thi trường, thống kê du lịch,
thực hiện mối liên kết với các tổ chức Quốc tế khác.
Việt Nam tham gia vào PATA tháng 4 năm 1989. Năm 1994 được thành lập chi
hội PATA Việt Nam. Năm 2002 chi hội PATA Việt Nam có 149 thành viên. Chi hội

PATA Việt Nam tham gia tích cực đại hội thường niên, hội nghị các chi hội, hội nghị
giám đốc PATA nhằm tranh thủ hỗ trợ PATA tổ chức các hội nghị, hội thảo ở Việt
Nam để trao đổi kinh nghiệm quản lý, tổ chức kinh doanh và xúc tiến du lịch.
Ngơn Ngữ sử dụng chính: ANH
Tài liệu phát hành ấn phẩm hàng tháng PATA NEW, PATA GUIDE BOOK,
PATA STATISCS,( các ấn phẩm được gửi miễn phí cho các thành viên) Địa chỉ
website: />Hiệp hội du lịch ASEAN (ASEAN TRAVEL ASOCIATION- ASEAN -TA)
Thành lập: 01-1971
Trụ sở chính hiện nay: Thủ đơ JAKARTA(INDONEXIA).
Tính chất: Tổ chức liên kết khu vực phi chính phủ về du lịch.

13


Thành viên bao gồm các hiệp hội lữ hành, hiệp hội khách sạn, các hãng hàng
không quốc gia của các nước, các doanh nghiệp du lịch và các hãng cung cấp sản phẩm
cho các ngành du lịch.Việt Nam tham gia tổ chức này năm 1995.
Phạm vi hoạt động trong khối các nước ASEAN_TA: Quảng bá du lịch cho 12
nước thành viên. ASEAN được coi như là một điểm du lịch thống nhất để bàn các biện
pháp hợp tác đa phương nhằm thu hút, đón tiếp và phục vụ khách du lịch.
Các hoạt động chính: hàng năm tổ chức diễn đàn du lịch. Diễn đàn này bao gồm
các nội dung chính: Hội nghị của các tổ chức du lịch quốc gia và các cuộc họp khơng
chính thức Bộ trưởng du lịch các nước thành viên ASEAN, họp thường niên của Hiệp
hội Du lịch ASEAN, hội chợ du lịch ASEAN. Năm du lịch ASEAN lần thứ nhất được
tổ chức năm 1992.
Ngôn ngữ sử dụng chính: ANH, địa chỉ Website .
Sự trợ giúp của NGOs không chỉ là viện trợ vật chất mà bao gồm cả chuyển giao
kinh nghiệm, công nghệ, nâng cao dân trí, chăm sóc y tế, phổ cập giáo dục…
Các diễn đàn
Sự ra đời của diễn đàn hợp tác Á – Âu, thành viên, cơ cấu và lĩnh vực hoạt động.

Sự ra đời của của diễn đàn hợp tác Á – Âu
Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20 là thời kỳ phát triển khá
thịnh vượng của các nền kinh tế châu Á, đặc biệt là của các nước thuộc khu vực Đông
Á và Đông Nam Á(ASEAN). Điều này được thể hiện rất rõ ở tỷ lệ tăng trưởng bình
quân tương đối cao của một số nước đang phát triển trong khu vực. Sự phát triển kinh
tế, văn hóa đi cùng với sự ổn định về chính trị, xã hội của các nước thuộc khu vực năng
động này ở châu Á đã thúc đẩy mạnh mẽ các quan hệ theo hướng hội nhập, hợp tác
cùng phát triển, không chỉ ở các nước trong khu vực với nhau mà cịn vươn rộng ra
ngồi Châu Á, tạo nên sự cân bằng trong phát triển kinh tế giữa các khu vực trong xu
hướng tồn cầu hố của kinh tế thế giới.

14


Trong khi đó, ở Châu Âu, mà nịng cốt là các nước EU sau thời kỳ chiến tranh
lạnh cũng đang có xu hướng mở rộng quan hệ ra ngồi bằng một “ chính sách Châu Á
mới ” được thơng qua vào những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20.
Trước bối cảnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho một nền kinh tế đang phát
triển, có vị trí và vai trị quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của các nước Đông
Nam Á(Asean), vào năm 1994, Singapo đã đưa ra sáng kiến hợp tác Á – Âu. Hai năm
sau, diễn đàn hợp tác Á -Âu chính thức thành lập tại hội nghị cấp cao Á- Âu (ASEAN –
Europe Meetings - gọi tắt là ASEM ) lần thứ nhất tại Băng Cốc Thái Lan vào tháng 3 –
1996, mở đường cho một tiến trình hợp tác Á- Âu mới trong quan hệ giữa hai châu lục.
Có thể thấy, trong bối cảnh đó sự ra đời của ASEM là “ thuận theo ý trời và hợp
lòng người”, có một ý nghĩa to lớn mang tính chiến lược khơng chỉ trên lĩnh vực kinh tế
mà cịn cả trên lĩnh vực chính trị, văn hóa - xã hội… của cả hai châu lục. Nó tạo điều
kiện củng cố, thúc đẩy, thắt chặt và đẩy lên một tầm cao mới, có hiệu quả hơn mối quan
hệ hợp tác giữa châu Âu nói chung và EU nói riêng với châu Á. Đồng thời nó cũng
mang một ý nghĩa to lớn cho lời giải của bài toán tạo đối trọng nhằm thiết lập, đảm bảo
duy trì sự cân bằng ngày càng ổn định trong phát triển kinh tế của ba trung tâm kinh tế

lớn trên Thế Giới: EU, Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Á đang phát triển.
Đầu tư trực tiếp( FDI)
Đầu tư trực tiếp (FDI) là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia, trong đó
người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử
dụng vốn đầu tư .
Về thực chất, FDI là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng
hoặc mua phần lớn, thậm chí tồn bộ các cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để là chủ sở
hữu toan bộ hay từng phần cơ sở đó và trực tiếp quản lý điều hành hoặc tham gia quản
lý điều hành hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Đồng thời, họ cũng chịu sự
trách nhiệm theo sở hữu về kết quả sản xuất kinh doanh của dự án . FDI có các đặc
điểm sau :
- Tỉ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định của dự án đạt mức
độ tối thiểu tuỳ theo luật đầu tư của từng nước qui định .

15


- Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp điều hành và quản lý dự án mà họ bỏ vốn
đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn đầu tư trong vốn pháp
định của dự án.
- Kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia theo tỉ lệ
góp vốn vào vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu
có).
- FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại
toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tinh
hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
Chính phủ có vai trị trực tiếp khuyến khích hay hạn chế FDI, quản lý q trình
FDI và tạo ra khn khổ thể chế hỗ trợ cho hoạt động FDI.
Liên kết kinh tế quốc tế
Liên kết quốc tế là một hình thức trong đó diễn ra q trình xã hội hố sản xuất,

phân phối, trao đổi tiêu dùng mang tính chất quốc tế với sư tham gia của các chủ thể
kinh tế quốc tế dựa trên các hiệp định đã thoả thuận và ký kết để hình thành nên các tổ
chức kinh tế với các cấp độ nhất định. Liên kết kinh tế quốc tế có các đặc trưng sau :
- Là một hình thức phát triển tất yếu và cao của phân công lao động quốc tế.
- Liên kết kinh tế quốc tế là sự tham gia tự nguyện của mỗi quốc gia thành viên
trên cơ sở những điều khoản đã thoả thuận bàn bạc và sau đó đi đến cam kết và kí kết
thành những hiệp định.
- Liên kết kinh tế quốc tế là sự phối hợp mang tính chất liên quốc gia giữa những
Nhà nước độc lập có chủ quyền.
- Trong quan hệ kinh tế quốc tế nói chung, thị trường thế giới nói riêng đang diễn
ra sự cạnh tranh gay gắt giữa hai xu hướng.
- Liên kết kinh tế quốc tế với các loại hình liên kết cụ thể ở những cấp độ khác
nhau do cho phép các mối quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các quốc gia thành viên trên
các lĩnh vực thương mại và đầu tư.

16


- Là “bước quá độ” trong quá trình vận động của nền kinh tế thế giới theo hướng
tồn cầu hố.
Vai trò liên kết kinh tế quốc tế bao gồm :
- Từng quốc gia thành viên có cơ hội và điều kiện để khai thác tối ưu lợi thế của
mình, từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả hơn.
- Tạo nên sự ổn định tương đối để cùng phát triển và sự phản ứng linhhoạt trong
sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia thành viên.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng thành tựu khoa học kĩ thuật.
- Tạo thêm điều kiện và khả năng tạo công ăn việc làm cho người lao động.
- Tạo cơ hội và điều kiện xích lại gần nhau giữa các thành viên.
1.3 Vai trò của vịêc hội nhập quốc tế đối với phát triển du lịch Việt Nam sau
khi gia nhập WTO.

Tạo sân chơi bình đẳng, thực hiện các cam kết đối với WTO của ngành du
lịch Việt Nam
Hội nhập sẽ tạo áp lực rất lớn với doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong cạnh
tranh. Phần lớn doanh nghiệp du lịch của ta thuộc loại nhỏ, chất lượng dịch vụ hạn chế,
năng lực quản lý thấp. Ðội ngũ nhân lực du lịch thiếu và yếu về trình độ ngoại ngữ và
kinh nghiệm, nhất là thiếu những người có chun mơn cao. Q trình hội nhập, mở cửa
cũng có thể tạo ra nguy cơ phá hoại môi trường và cảnh quan du lịch nếu khơng có sự
quan tâm và những biện pháp quản lý hiệu quả. Ðó là một số thách thức chính đang đặt
ra đối với ngành du lịch nói chung và các doanh nghiệp du lịch Việt Nam nói riêng. Hội
nhập kinh tế là xu thế tất yếu. Trong quá trình hội nhập, Nhà nước chỉ hỗ trợ, tạo mơi
trường pháp lý thơng thống và thuận lợi, cịn thành cơng tùy thuộc vào sức cạnh tranh,
sự năng động của doanh nghiệp. Đã đến lúc các doanh nghiệp không thể trông chờ vào
sự bảo hộ của Nhà nước mà phải thật sự tự thân nỗ lực.
Tăng cường thu hút nguồn ngoại tệ vào Việt Nam:

17


Đối với các nước đang phát triển, nhất lo the chi y ko goi dien ầ những nước có
nền kinh tế chuyển đổi, mở cửa hội nhập như nước ta, thì việc thu hút nhiều ngoại tệ là
nhu cầu lớn và có vai trị quan trọng trong việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ, nguyên
nhiên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu... Có nhiều con đường để thu hút ngoại
tệ, trong đó việc thu hút khách du lịch quốc tế là con đường có nhiều lợi thế.
Việc thu hút khách quốc tế đến Việt Nam không chỉ đem lại một lượng ngoại tệ
khơng nhỏ, mà cịn là cách tốt nhất để giới thiệu hình ảnh của đất nước với thế giới.
Đây cịn là một hình thức xuất khẩu tại chỗ, đem lại lợi đơn, lợi kép.
Phát huy lợi thế so sánh và nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt
Nam
Trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của WTO, du lịch là một trong
những ngành nằm trong quá trình cạnh tranh gay gắt nhất thì liên kết hợp tác trong du

lịch để cùng nhau phát triển lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Mở rộng liên kết,
hợp tác trong du lịch cũng là mong muốn từ lâu của nhiều quốc gia. Ví dụ 5 nước trong
ASEAN là Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Lào và Việt Nam đã thoả thuận về nguyên
tắc kế hoạch “5 quốc gia, một điểm đến”. Và để thực hiện kế hoạch này, một chương
trình visa du lịch chung sẽ được áp dụng. Chính sự liên kết sẽ tạo nên sức hấp dẫn du
lịch chung cho vùng và hạn chế những nhược điểm trong du lịch của mỗi tỉnh, thành,
đồng thời khai thác được những nét đặc trưng trong sự liên kết giữa các khu vực này
với nhau. Bên cạnh đó, việc liên kết vừa góp phần tạo ra sản phẩm mới, nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ của địa phương, vừa làm giảm tối đa các thủ tục và chi phí
khơng cần thiết, tăng sức hấp dẫn, hiệu quả đầu tư, kinh doanh cho doanh nghiệp đầu tư
vào hoạt động kinh doanh du lịch tại địa phương. Liên kết trong phát triển du lịch cũng
giúp khẳng định thương hiệu du lịch của tỉnh (vùng) đó, đồng thời đổi mới hình thức
quảng bá xúc tiến, tăng khả năng cạnh tranh nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập của du
lịch Việt Nam trên trường quốc tế. Trong mảng kinh doanh, việc mở rộng liên kết sẽ
khắc phục trở ngại của du lịch Việt Nam khi hội nhập là các doanh nghiệp du lịch đang
hoạt động nhỏ lẻ, manh mún để hình thành các chuỗi liên kết hoặc các tập đồn đủ
mạnh, có khả năng cạnh tranh trên cả thị trường nội địa và quốc tế, nhất là khi Việt

18


Nam mở cửa thị trường, các doanh nghiệp, tập đoàn kinh doanh du lịch lớn nước ngoài
sẽ được tự do vào Việt Nam, trực tiếp cạnh tranh với các doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành nội địa. Với những lợi thế của mình, du lịch đã và đang dần phát triển và tự khẳng
định mình trong nền kinh tế quốc dân và chiếm một vị trí quan trọng trong q trình
hoạch đinh chính sách phát triển kinh tế của các cơ quan chức năng nhà nước. Do là
một ngành khá nhạy cảm đối với những sự biến động của môi trường xung quanh, đặc
biệt là môi trường vĩ mô nên bất cứ một động thái nào trong yếu tố vĩ mô đều ít nhiều
ảnh hưởng đến chất lượng cũng như tốc độ phát triển của du lịch. Việc điều chỉnh về
kinh tế, chính trị, luật pháp đặc biệt là chính sách ưu đãi du lịch có tác dụng quan trọng

trong việc kích thích và điều hồ hoạt động trong ngành du lịch song những điều chỉnh
này mà bất cập, bất hợp lý thì nó lại là ngun nhân quan trọng đưa du lịch nhanh chóng
trở thành “kẻ chiến bại” trong sự phát triển của kinh tế đất nước; không giống như các
ngành kinh tế khác, du lịch vốn là một ngành kinh tế dịch vụ đặc biệt tạo cảm giác thoải
mái cho du khách nên nó phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố xung quanh - những yếu tố
đem đến tâm lý thoải mái và dễ chịu như: chính trị ổn định, môi trường trong sạch, cơ
sở vật chất hấp dẫn, chính sách nhập cảnh đơn giản, thuận lợi….
Phát huy bản chất kinh tế quốc tế của du lịch Việt Nam
Quy luật có tính phổ biến của q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay, là giá
trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng sản phẩm xã hội và trong số
người có việc làm. Do vậy, các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch
là một lĩnh vực hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỷ suất lợi
nhuận cao, vì vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành cơng nghiệp nặng, giao
thông vận tải mà khả năng thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật không phức tạp. Đặc biệt
trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bổ sung thì nhu cầu về vốn đầu tư lại càng ít hơn mà
lại thu hút lao động nhiều hơn, thu hồi vốn nhanh hơn.
Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế, cụ thể
thông qua các mặt sau:
- Các tổ chức quốc tế mang tính chất chính phủ và phi chính phủ về du lịch tác
động tích cực trong việc hình thành các mối quan hệ quốc tế.

19


- Du lịch quốc tế phát triển tạo nên sự phát triển đầu mối giao thông quốc tế.
- Du lịch quốc tế như một đầu mối “ xuất- nhập khẩu” ngoại tệ, góp phần làm
phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế.
Tại Việt Nam, du lịch là cầu nối giao lưu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với chính
sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Trong kinh doanh du lịch quốc tế khách du lịch có
thể là thương nhân. Mở rộng du lịch quốc tế gắn liền với tăng lượng khách phục vụ,

trong đó sự đi lại, tìm hiểu thị trường của khách thương nhân được chú trọng. Từ đó du
lịch thúc đẩy đầu tư, bn bán quốc tế…Bản thân họat động kinh doanh du lịch phải
phát triển theo hướng quốc tế hố, vì khách du lịch thường được nhiều nước trong một
chuyến đi du lịch dài ngày. Hình thức liên doanh, liên kết ở phạm vi quốc tế trong kinh
doanh du lịch là phương thức kinh doanh đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Hoạt động kinh
doanh du lịch với lợi nhuận kinh tế cao, đến lượt nó lại kích thích đầu tư nước ngồi
vào du lịch và tăng cường chính sách mở cửa.
Tóm lại, chương 1 đã trình bày các khái niệm cơ bản có liên quan đến hội nhập
Quốc tế của ngành du lịch, các tổ chức quốc tế, khu vực tiêu biểu về du lịch, vai trò của
hội nhập quốc tế đối với ngành du lịch sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Với các nội
dung này sẽ là cơ sở lý luận để phân tích thực trạng hội nhập quốc tế của du lịch Việt
Nam trước khi gia nhập WTO và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa Hội
nhập quốc tế của du lịch Việt Nam sau khi gia nhập WTO.

20


Chương 2:
THỰC TRẠNG VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG DU LỊCH CỦA
VIỆT NAM TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY
2.1 Khái quát về sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam trước khi gia
nhập WTO
Ngành Du Lịch Việt Nam trước khi gia nhập WTO có những bước phát triển
khích lệ và đang dần trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia.
Lượng kh¸ch quốc tế vào Việt Nam tăng trưởng nhanh, năm 1995 Việt Nam được 1,35
triệu lượt khách quốc tế. Đến năm 2005 con số đã tăng lên là 3,478 triệu lượt khách
quốc tế, tăng trung bình hàng năm là 22%. Trong 7 tháng đầu năm 2006, lượng khách
quốc tế vào Việt Nam đạt gần 2,2 triệu lượt, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2005. Bên
cạnh đó lượng khách nội địa cũng tăng trung bình hàng năm là 15%. Về thu nhập
ngành Du lịch cũng đã tăng trung bình hàng năm là 33% (năm 1995 thu nhập xã hội từ

du lịch đạt khoảng 500 triệu USD, 2005 thu nhập xã hội từ du lịch xấp xỉ 2 tỉ USD).
(Xem bảng trang 17).Kết cấu hạ tầng tại các trung tâm du lịch lớn và tại nhiều điểm du
lịch đã được quan tâm đầu tư xây dựng lớn. Cơ sở vật chất kỹ thuật đặc biệt là lưu trú
phát triển nhanh, năm 2005 Việt Nam có 3810 cơ sở lưu trú với tổng số 85381 phịng,
trong đó có 1951 khách sạn, 666 nhà nghỉ, 434 căn hộ và còn lại là các cơ sở lưu trú
khác. Trong số khách trên có 927 khách sạn, resort cao cấp được xếp hạng từ 1-5 sao
với tổng số phòng là 36687 chiếm hơn 1/3 tổng số phòng cơ sở lưu trú trên cả nước.
Khách sạn từ 3-5 sao chỉ chiếm khoảng 50% tổng số phòng ở trên. Tốc độ phát triển du
lịch nhanh,đặc biệt là các trung tâm du lịch lớn như Hà Nội, Hạ Long, SaPa, Đà Lạt,
Nha Trang, Hội An, Huế, Đà Nẵng, Phan Thiết, Thành Phố Hồ Chí Minh. Đến nay cả
nước có gần 500 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, khoảng trên 10000 doanh nghiệp đăng
kí kinh doanh lữ hành nội địa với đội ngũ hưóng dẫn viên là 5000 ngựời. Tính đến hết
năm 2005; 29 tỉnh thành trong cả nước đã thu hút được 190 dự án đầu tư trực tiếp từ

21


nước ngoài vào các lĩnh vực khách sạn, resort, sân golf...với tổng số vốn đăng ký là 4,64
tỷ USD. Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Lâm Đồng, Quảng Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu,
Khánh Hồ, Bình Thuận là các địa phương thu hút được nhiều dự án và vốn đầu tư lớn
nhất. Từ năm 2000, Tổng cục du lịch triển khai Chương trình Hành động quốc gia về du
lịch với nhiều hoạt động sơi nổi trong và ngồi nước đã tạo động lực thúc đẩy du lịch
phát triển. Để thu hút và tạo điều kiện thuận lợi cho khách quốc tế vào Việt Nam, Chính
Phủ Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách mới như thực hiện chính sách cấp thị
thực cửa khẩu, miễn thị thực song phương cho 6 nước ASEAN, miễn thị thực đơn
phương cho Nhật Bản, Hàn Quốc và 4 nước Bắc Âu, miễn thị thực cho khách quốc tế
đến đảo Phú Quốc trong vòng 15 ngày và đang tiếp tục nghiên cứu, miễn thị thực cho
khách từ một số thị trường trọng điểm khác.
Bảng Kết quả kinh doanh của ngành du lịch Việt Nam thời kỳ 1990-2006
Năm


Khách quốc tế

Khách nội địa

Thu nhập XH

Doanh thu du

(Lt khỏch)

(Lt khỏch)

t du lịch

lịch thuần tuý

(Tỷ VNĐ)

(Tỷ VNĐ)

1990

250.000

1.000.000

1365

650


1991

300.0000

1.500.000

1680

800

1992

440.000

2.000.000

28,35

1350

1993

670.000

2.700.000

5250

2500


1994

1.350.000

3.500.000

87,33

5579

1995

1.350.000

5.500.000

113,60

6007

1996

1.600.000

6.500.000

13410

6330


1997

1.715.637

8.500.000

15050

7000

1998

1.520.000

9.600.000

14000

6400

1999

1.781.000

10.600.000

15600

7400


2000

2.140.000

11.200.000

17400

9567

22


2001

2.330.000

11.650.000

20500

9762

2002

2.600.000

13.000.000


23500

11200

2003

2.430.000

13.500.000

25000

14500

2004

2.930.000

14.500.000

26000

15000

2005

3.470.000

16.100000


30000

20.000

2006

3.600.000

16.500000

35000

24.000

(Nguồn : Báo cáo tổng kết hàng năm của TCDL Việt Nam)
Trong chiến lược phát triển đất nước đến năm 2010,Chính Phủ Việt Nam đã xác
định, phát triển Du lịch thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế
của đất nước; đồng thời, đưa ra những chủ trương chính sách và hành lang pháp lý quan
trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và hội nhập của du lịch Việt Nam vào
nền kinh tế Thế Giới. Bên cạnh đó, việc Việt Nam tham gia vào tổ chức dự án hội nghị,
diễn đàn cho du lịch Việt Nam như : tham gia vào tổ chức UN_WTO(1981),
PATA(4/1989), ASEAN, diễn đàn hợp tác kinh tế APEC, ASEM, đã cho ta thấy được
du lịch Việt Nam đang phát triển trên một tầm cao mới. Điều này cùng với các ưu thế
về đất nước và con người, an toàn-an ninh của Việt Nam đã tại nên lợi thế cạnh tranh
đặc biệt cho Việt Nam nâng cao uy tính của thương hiệu du lịch Việt Nam trên trường
quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam được mời đăng cai tổ chức các sự kiện lớn của PATA.
2.2.Cơ hội đối với ngành du lịch Việt Nam hội nhập Quốc tế sau khi gia
nhập WTO.
Hội nhập WTO có thách thức và cơ hội song cơ hội lớn hơn rất nhiều.
Thứ nhất, thị trường mở cửa rộng hơn

Khi gia nhập vào tổ chức thương mại Thế Giới thì Việt Nam sẽ có cơ hội để mở
rộng hơn thị trường khách du lịch của mình. Trước hết đó là cơ hội kinh doanh lữ hành
gửi khách từ Việt Nam sang các nước thành viên (out-bound). Khi đã cùng đứng trên

23


sân chơi WTO, cùng thực hiện những cam kết chung thì các nước trong thành viên
trong WTO cũng sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho Việt Nam so với trước khi gia nhập. Bên
cạnh đó cơ hội kinh doanh khách du lịch nội địa cũng được mở rộng hơn bởi vì khi gia
nhập vào WTO dựa trên bản cam kết về phương thức hiện diện thương mại sẽ phân
định thị trường “nhập khẩu du lịch” và thị trường khách du lịch nội địa cho các doanh
nghiệp trong nước. Mặt khác, nhu cầu du lịch của người Việt Nam đi du lịch trong nước
và nước ngoài được khơi dậy và làm tăng cầu về du lịch. Điều đó tạo cơ sở thuận lợi
cho việc trao đổi khách du lịch giữa các cơng ty du lịch. Chính vì vậy mà cơ hội đầu
tiên đối với Việt Nam nói chung và ngành du lịch Việt Nam nói riêng đó là thị trường
khách du lịch sẽ được mở rộng hơn.
Thứ hai,kinh nghiệm học tập từ các doanh nghiệp nước ngoài.
Việt Nam khi gia nhập WTO thì sẽ được giao lưu học hỏi và tiếp thu những kinh
nghiệm từ các thành viên. Việt Nam sẽ được mở rộng hơn nữa quan hệ với các đối tác
một các bình đẳng,khơng bị phân biệt đối xử khi xuất hiện trên thị trường trong và
ngoài WTO. Ngoài ra, nó cịn tạo cho các doanh nghiệp có thêm điều kiện tiếp thu công
nghệ, kinh nghiệm và cách làm du lịch mang tính chuyên nghiệp của các nước để mở
rộng quy mô và nâng cao hiệu quả trong kinh doanh. Nhờ đó mà người dân được nâng
cao hơn về đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần. Hình ảnh đất nước, con người Việt
Nam được quảng bá rộng hơn và tăng sức thu hút đối với khách du lịch.
Thứ ba, khả năng phát triển mạnh du lịch in-buond do nhiều hãng nước ngồi
sẽ đặt chi nhánh và có bề dày kinh nghiệm marketing hơn so với du lịch nội địa.
Việt Nam sẽ tạo được niềm tin và sức hút đối với các nhà đầu tư. Chính vì vậy mà
nhiều hãng lữ hành nước ngoài sẽ đầu tư và đặt chi nhánh của mình ngay tại Việt Nam

nhờ vậy mà việc kinh doanh in-bound sẽ dễ dàng hơn. Do khi khách du lịch nước ngoài
muốn vào Việt Nam du lịch thì họ sẽ phần nào đó thuận tiện hơn bởi vì những cơng ty
du lịch nước ngồi này có khả năng tài chính mạnh mẽ, kỹ năng quản lý chuyên nghiệp,
sự hiểu biết sâu sắc về hành vi tiêu dùng du lịch cuả khách quốc tế có ưu thế vượt trội
so với các nhà cung cấp dịch vụ du lịch Việt Nam. Bên cạnh đó việc cam kết khơng cho

24


phép hướng dẫn viên nước ngoài hành nghề tại Việt Nam cũng chính là cơ hội cho việc
phát triển kinh doanh khách in-bound.
Vì vậy khi mà các hãng gửi khách nước ngồi đặt chi nhánh tại Việt Nam thì sẽ
làm cho lượng khách quốc tế vào Việt Nam nhiều hơn, tạo cơ hội tốt cho du lịch Việt
Nam có thể phát triển sau khi hội nhập vào WTO.
Thứ tư, các ngành kinh tế khác phát triển cho nhiều loại hình du lịch dịch vụ và
khách sạn cũng phát triển kéo theo ngành lữ hành cũng phát triển tương ứng.
Khi Việt Nam thực hiện các cam kết thành viên của WTO theo quy định sẽ thúc
đẩy cơng cuộc đổi mới tồn diện trong cả nước, từ đó khơi dậy những tiềm năng vốn có
làm cho nhiều ngành kinh tế phát triển, lúc này nhu cầu du lịch dịch vụ của con ngưịi
tăng lên địi hỏi phải có các hãng , các cơng ty du lịch đóng vai trị cung cấp các dịch vụ
để đáp ứng nhu cầu đó. Mà du lịch chính là việc di chuyển từ nơi này đến nơi khác do
đó muốn đi du lịch được thì phải có các phương tiện vận chuyển. Từ đó mà nhiều ngành
lữ hành cũng ngày một phát triển để phục vụ cho nhiều nhu cầu du lịch của con người.
Bên cạnh đó ngành khách sạn cũng phát triển theo để phục vụ nhu cầu lưu trú của con
người.
Ngồi ra, lữ hành có vị thế trung gian để thực hiện phân phối sản phẩm trong du
lịch và các lĩnh vực khác trong ngành kinh tế quốc dân. Vì vậy, cam kết của Việt Nam
trong lĩnh vực du lịch mở rộng kênh phân phối sản phẩm du lịch Việt Nam đến 150
nước thành viên của WTO, khi đó ngành du lịch Việt Nam càng thu hút được nhiều
lượng khách du lịch đến Việt Nam.

Thứ năm, khả năng huy động vốn cho hoạt động du lịch thơng qua thị trường và
doanh nghiệp nước ngồi.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tạo niềm tin và sức thu hút mới đối với các nhà
đầu tư nước ngoài vào lĩnh vuẹc du lịch nhất là các nhà đầu tư chiến lược, các công ty
xuyên quốc gia hàng đầu Thế Giới có tiềm lực tài chính lớn, tăng vốn đầu tư trực tiếp,

25


×