Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

So sánh phương thức và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN với tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.94 KB, 8 trang )

Pháp luật cộng đồng ASEAN Nhóm KT33F2-3
MỤC LỤC
A.Nội dung...................................................................................................................................................2
I.Những điểm tương đồng trong phương thức thực hiện và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng
kinh tế ASEAN và tổ chức thương mại thế giới WTO.............................................................................2
3, Xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư............................................................................................3
II.Sự khác biệt trong phương thức thực hiện và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế
ASEAN với tổ chức thương mại thế giới WTO........................................................................................5
1, Nguyên nhân của sự khác biệt........................................................................................................5
M ở đầu.
Đầu tư trực tiếp được coi là một hoạt động kinh tế cơ bản và đặc biệt
quan trọng đối với các quốc gia đang trong giai đoạn phát triển. Theo họ, xu
hướng đầu tư chung của thế giới trong những năm tới sẽ thiên về đầu tư vào
từng nhóm quốc gia có những đặc điểm tương đồng về mặt địa lý, kinh tế, chính
sách, và môi trường đầu tư. Do đó, đầu tư khu vực sẽ là xu hướng đầu tư của
tương lai. Có thể thấy, riêng khu vực ASEAN, tổng thu nhập quốc dân của các
nước ASEAN năm 2009 đạt 1.492 tỉ USD. Đầu tư nội khối ASEAN đã được
duy trì khá ổn định trong nhiều năm qua. Năm 2008, thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) nội khối đạt 10,8 tỉ USD, chiếm 18,2% tổng mức FDI vào khu
vực này (59,7 tỉ USD). Năm 2009, FDI nội khối cũng đạt khoảng 11 tỉ USD.
Trong giai đoạn 2006 - 2008, tổng mức FDI vào ASEAN đã tăng 8,6%. Điều đó
có nghĩa rằng, đầu tư có xu hướng tăng nhanh. Với mức tăng trưởng này, có thể
thấy khu vực đầu tư ASEAN đang dần thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và
ngoài khối, vậy điều gì đã làm nên sức hút đó. Với đề tài So sánh phương thức
và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN với tổ chức thương
mại thế giới (WTO) sẽ phần nào giải thích được nguyên nhân của vấn đề trên.
Bài tập nhóm tháng 2 Trang 1
Pháp luật cộng đồng ASEAN Nhóm KT33F2-3
A. Nội dung
I. Những điểm tương đồng trong phương thức thực hiện và mức độ
tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN và tổ chức thương


mại thế giới WTO.
1, Nguyên nhân của sự tương đồng.
Do mục tiêu của cộng đồng kinh tế ASEAN và tổ chức thương mại thế
giới WTO là phát triển kinh tế ổn định, thịnh vượng, có tính cạnh tranh cao và
hội nhập nền kinh tế toàn cầu, nên chú trọng lĩnh vực đầu tư, thúc đẩy đầu từ
phát triển là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Bên cạnh đó, mục đích của
tự do hóa đầu tư là nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài khối, do vậy cả cộng
đồng kinh tế và WTO đều thực hiện các phương thức mở cửa đầu tư, xóa bỏ các
biện pháp hạn chế đầu tư, áp dụng các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và
nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) để xúc tiến hoạt động sản xuất, phát triển kinh
tế. Không giống như hợp tác an ninh chính trị, được các nhà lãnh đạo ASEAN
quan tâm từ những ngày đầu thành lập, vấn đế hợp tác kinh tế là kết quả của
một quá trình hợp tác lâu dài của ASEAN, là phản ứng của các nước thành viên
trong sự biến động của kinh tế khu vực và trên thế giới. Chính vì thế, trong
những năm gần đây, hợp tác kinh tế mới được các quốc gia ASEAN chú trọng,
cùng với đó là việc ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN. Với việc ra đời sau
tổ chức thương mại thế giới WTO, nên Cộng đồng kinh tế ASEAN ngoài việc
phát huy lợi thế của mình, cũng đã biết kế thừa những quy định của WTO nhằm
phù hợp với tình hình kinh tế của khối.
2, Mở cửa đầu tư.
Thành viên trong Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức thương mại thế
giới WTO đều cam kết mở cửa trong rất nhiều lĩnh vực như : sản xuất công
nghiệp, nông lâm ngư nghiệp, ngành công nghiệp khai khoáng và các dịch vụ đi
kèm các lĩnh vực trên.
Bài tập nhóm tháng 2 Trang 2
Pháp luật cộng đồng ASEAN Nhóm KT33F2-3
Bên cạnh những ngành mở cửa cho tự do đầu tư, cả hai tổ chức này đều
thừa nhận sự hạn chế đầu tư trong một số lĩnh vực nhạy cảm như xăng dầu,
thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác.
3, Xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư.

Biện pháp đầu tư được hiểu là bất kỳ biện pháp nào của các quốc gia
thành viên được thể hiện dưới dạng luật, quy định, quy tắc, thủ tục, quyết định
và các hoạt động quản trị hành chính hay những thông lệ được chính quyền
trung ương, khu vực, địa phương và các tổ chức phi lợi nhuận ( được chính
quyền trung ương, khu vực, địa phương ủy quyền thực hiện, áp dụng ).
Sự tương đồng của trong phương thức xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu
tư của Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức thương mại thế giới WTO được
thể hiện trong các nội dung sau :
+ Xóa bỏ các biện pháp về yêu cầu trong đầu tư ( Performance
Requirements ). ACIA không trực tiếp định nghĩa thế nào là biện pháp về yêu
cầu trong đầu tư hay liệt kê các biện biện pháp về yêu cầu, điều kiện trong đầu
tư bị cấm mà dẫn chiếu tới Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại (TRIMs) của WTO. Theo đó, các quốc gia phải loại bỏ, không được
áp dụng các biện pháp liệt kê tại Phụ lục 1A của TRIMs ( các biện pháp theo
TRIMs bao gồm 2 nhóm :
(i).các biện pháp về “yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa”, như quy định buộc doanh
nghiệp nước ngoài phải mua hoặc sử dụng một mức độ nhất định các sản phẩm
có xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước. Ví dụ Chính
phủ yêu cầu các nhà đầu tư xây dựng nhà máy phải dùng xi măng sản xuất trong
nước thay cho xi măng nhập khẩu, Chính phủ dành các ưu đãi thuế cho các
doanh nghiệp đạt tỉ lệ nội địa hóa cao hơn trong sản xuất và lắp ráp oto, xe
máy…;
(ii).các biện pháp “yêu cầu về cân bằng thương mại”, Chính phủ có thể
bắt buộc nhà đầu tư tạo lập cân bằng thương mại bằng hai cách. Thứ nhất,
Chính phủ hạn chế khả năng nhập khẩu của nhà đầu tư thông qua các chính sách
hạn chế nhập khẩu như thực hiện chế độ cấp giấy phép nhập khẩu; Thứ hai,
Bài tập nhóm tháng 2 Trang 3
Pháp luật cộng đồng ASEAN Nhóm KT33F2-3
Chính phủ yêu cầu nhà đầu tư không được nhập khẩu với doanh số vượt quá
doanh số xuất khẩu của doanh nghiệp

+ Trong quá trình mở cửa đầu tư, do trình độ phát triển nền kinh tế của
mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền kinh tế trước sức ép của đầu
tư nước ngoài tràn vào do mở cửa đầu tư là khác nhau, nói cách khác, đối với
nhiều nước, khi mở cửa đầu tư không chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những
khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước. Chính vì
thế Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức thương mại thế giới WTO đều quy
định cho phép các quốc gia thành viên được tạm thời áp dụng các biện pháp hạn
chế đầu tư và tiến tới xóa bỏ trong một thời gian nhất định đối với từng nhóm
nước theo quy định của từng tổ chức. Như đối với WTO, Điều 5 – TRIMs có
quy định các thành viên phải xóa bỏ các TRIMs đã thông báo trong vòng 2 năm
kể từ ngày Hiệp đinh WTO có hiệu lực đối với các nước phát triển, 5 năm đối
với các nước đang phát triển và 7 năm đối với các nước đang phát triển. Hoặc
như trong AEC, có lộ trình loại bỏ dần các biện pháp hạn chế đầu tư tạm thời
đến năm 2010 đối với ASEAN 6 và đối với Việt Nam, Lào và Myanmar,
Campuchia lần lượt là 2013, 2015 và 2017.
4, Áp dụng các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc tối huệ
quốc (MFN).
Nguyên tắc Đối xử quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc được coi là thông
lệ quốc tế để đảm bảo cạnh tranh công bằng. Cộng đồng kinh tế ASEAN và tổ
chức thương mại thế giới WTO áp dụng nguyên tắc này cũng không phải là
ngoại lệ.
+ Nguyên tắc về đối xử quốc gia yêu cầu các nước thành viên đối xử với các
nhà đầu tư của nước thành viên khác và khoản đầu tư của họ không kém thuận
lợi hơn đối với nhà đầu tư của nước mình, bao gồm nhưng không chỉ giới hạn
trong phạm vi tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và
chuyển nhượng đầu tư.
Bài tập nhóm tháng 2 Trang 4
Pháp luật cộng đồng ASEAN Nhóm KT33F2-3
+ Nguyên tắc tối huệ quốc, nhà đầu tư của một nước thành viên khi đầu tư vào
nước thành viên khác và khoản đầu tư của họ phải được hưởng chế độ đãi ngộ

(nhưng không giới hạn trong ) về tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản
lý, vận hành và chuyển nhượng đầu tư như nhà đầu tư một nước bất kỳ được
hưởng.
Ngoài các nội dung trên, cả Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức
thương mại thế giới WTO đều có những quy định cụ thể các trường hợp ngoại
lệ trong tự do hóa đầu tư vì các lý do an ninh quốc phòng, sức khỏe con người,
động thực vật, bảo vệ các di sản văn hóa, thuân phòng mỹ tục ( Xem thêm Điều
9, 10, 17 và 18 ACIA 2009 ).
II. Sự khác biệt trong phương thức thực hiện và mức độ tự do hóa
đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN với tổ chức thương mại thế
giới WTO.
1, Nguyên nhân của sự khác biệt
- WTO là một tổ chức bao gồm rất nhiều quốc gia thành viên trên toàn thế
giới do đó giữa các quốc gia này có sự khác biệt rất lớn về kinh tế, chính
trị, văn hóa xã hội. Còn ASEAN bao gồm các quốc gia Đông Nam Á,
Cộng đồng kinh tế của ASEAN không chỉ có các mục tiêu kinh tế cụ thể,
mà còn mang các mục tiêu chính trị với tính chất là “một quyết tâm chính
trị cả gói trong cộng đồng ASEAN”. Do đó, nền kinh tế ASEAN được
phát triển dựa trên nền tảng xã hội ASEAN hài hòa, tin cậy lẫn nhau và
ổn định của khu vực. Chính vì vậy, mức độ tự do hóa đầu tư trong cộng
đồng kinh tế ASEAN lớn hơn so với Tổ chức thương mại thế giới WTO.
- Sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới WTO là kết quả của những
cuộc đàm phán, tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con
đường đàm phán. Chính vì vậy, việc đàm phán thành công hay không đều
dựa trên thiện chí của từng quốc gia, điều kiện kinh tế và nhu cầu của
từng quốc gia thành viên.
Bài tập nhóm tháng 2 Trang 5

×