Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI - WTO (BẢN 4) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.11 KB, 29 trang )

TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI - WTO
(BẢN 4)

I. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO):
Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) ra đời ngày 1/1/1995. Tiền thân
của WTO là Hiệp định chung về Thương
mại và Thuế quan (GATT), thành lập
1947. Trong gần 50 năm hoạt động, GATT
là công cụ chính của các nước công nghiệp
phát triển nhằm điều tiết thương mại hàng
hóa của thế giới. WTO là kết quả của vòng
đàm phán Uruguay kéo dài 8 năm (1987 –
1994), để tiếp tục theå chế hóa và thiết lập
trật tự mới trong hệ thống thương mại đa
phương của thế giới cho phù hợp với
những thay đổi mạnh mẽ đang diễn ra
trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa các
quốc gia. Về cơ bản, WTO là sự kế thừa và
phát triển của GATT. Sự ra đời của WTO
giúp tạo ra cơ chế pháp lý điều chỉnh
thương mại thế giới trong các lĩnh vực mới
là dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ, đồng
thời đưa vào khuôn khổ thương mại đa
phương hai lĩnh vực dệt may và nông
nghiệp.
Với 150 thành viên (tính đến tháng
04/2007), WTO là tổ chức quốc tế duy
nhất đưa ra các quy tắc, luật lệ điều tiết
quan hệ thương mại giữa các quốc gia.
Khối lượng giao dịch giữa các thành viên


WTO hiện chiếm trên 98% giao dịch
thương mại quốc tế.
- Trụ sở chính: Geneva, Thụy Sĩ
- Thành viên: 150 nước ( tính đến
ngày 10 tháng 04 năm 2007)
- Ngân sách: : 175 triệu francs Thụy
Sỹ ( theo số liệu 2006 )
- Nhân viên: 635 người
- Tổng giám đốc: Pascal Lamy
I.1 Chức năng chính của WTO:
Là diễn đàn thương lượng về mậu
dịch theo hướng tự do hoá thương mại
thông qua việc loại bỏ các rào cản trong
thương mại; Đưa ra các nguyên tắc và cơ
sở pháp lý cho thương mại quốc tế do các
nước thành viên thương lượng và ký kết
với mục đích đảm bảo thuận lợi hóa
thương mại giữa các thành viên WTO;
Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các
thành viên; Giám sát việc thực hiện các
Hiệp định trong khuôn khoå WTO.
I.2 Phạm vi điều tiết:
Hạt nhân của WTO là các hiệp định
thương mại hoặc “liên quan tới thương
mại" được các thành viên WTO thương
lượng và ký kết. Các hiệp định này là cơ
sở pháp lý cho thương mại quốc tế, bao
gồm Hiệp định về các lĩnh vực nông
nghiệp, kiểm dịch động thực vật, dệt và
may mặc, hàng rào kỹ thuật trong thưong

mại, đầu tư, chống bán phá giá, xác định
trị giá tính thuế hải quan, giám định hàng
hóa trước khi xếp hàng, quy tắc xuất xứ,
thủ tục cấp phép nhập khẩu, trợ cấp và các
biện pháp đối kháng, các biện pháp tự vệ,
thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, quy tắc
và thủ tục giải quyết tranh chấp Đây là
những hiệp định mang tính ràng buộc, các
chính phủ phải duy trì chính sách thương
mại trong những giới hạn đã thỏa thuận.
I.3 Các nguyên tắc pháp lý của WTO :

Về phương diện pháp lý, Định ước
cuối cùng của Vòng đàm phán Uruguay ký
ngày 15-4-1999 tại Marrakesh là một văn
kiện pháp lý có phạm vi điều chỉnh rộng
lớn nhất và có tính chất kỹ thuật pháp lý
phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao và
luật pháp quốc tế. Về dung lượng, các hiệp
định được ký tại Marraakesh và các phụ
lục kèm theo bao gồm 50.000 trang, trong
đó riêng 500 trang quy định về các nguyên
tắc và nghĩa vụ pháp lý chung của các
nước thành viên như sau:
 Hiệp định thành lập Toå chức
Thương mại Thế giới;
 20 hiệp định đa phương về thương
mại hàng hoá;
 4 hiệp định đa phương về thương
mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giải

quyết tranh chấp, kiểm điểm chính
sách thương mại;
 4 hiệp định nhiều bên về Hàng
không dân dụng, mua sắm của
chính phủ, sản phẩm sữa và sản
phẩm thịt bò;
 23 tuyên bố (declaration) và quyết
định (decision) liên quan đến một
số vấn đề chưa đạt được thoả thuận
trong Vòng đàm phán Uruguay.
Toå chức Thương mại Thế giới
được xây dựng trên bốn nguyên tắc pháp
lý nền tảng là : tối huệ quốc; đãi ngộ quốc
gia, mở cửa thị trường và cạnh tranh công
bằng.
I.3.1. Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)
Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng
Anh là MFN (Most Favoured Nation), là
nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của
WTO. Tầm quan trọng đặc biệt của MFN
được thể hiện ngay tại Điều I của Hiệp
định CATT (mặc dù bản thân thuật ngữ
"tối huệ quốc" không được sử dụng trong
điều này).
Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu
một nước dành cho một nước thành viên
một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này
cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả
các nước thành viên khác. Thông thường
nguyên tắc MFN được quy định trong các

hiệp định thương mại song phương. Khi
nguyên tắc MFN được áp dụng đa phương
đối với tất cả các nước thành viên WTO thì
cũng đồng nghĩa với nguyên tăc bình đẳng
và không phân biệt đối xử vì tất cả các
nước sẽ dành cho nhau sự "đối xử ưu đãi
nhất". Nguyên tắc MFN trong WTO không
có tính chất áp dụng tuyệt đối. Hiệp định
GATT 1947 quy định mỗi nước có quyền
tuyên bố không áp dụng tất cả các điều
khoản trong Hiệp định đối với một nước
thành viên khác (Trường hợp Mỹ không áp
dụng MFN đối với Cuba mặc dù Cuba là
thành viên sáng lập GATT và WTO).
Điều I.1 Hiệp định GATT quy định
nghĩa vụ của mọi bên ký kết dành "ngay
lập tức và không điều kiện” bất kỳ ưu đãi ,
ưu tiên, đặc quyền hoặc đặc miễn nào liên
quan đến thuế quan và bất kỳ loại lệ phí
nào mà bên ký kết đó áp dụng cho hoặc
liên quan đến việc nhập khẩu, xuất khẩu
hoặc cho việc chuyển tiền thanh toán quốc
tế , hoặc liên quan đến phương pháp tính
thuế quân và lệ phí hoặc liên quan đến tất
cả các quy định và thủ tục đối với việc
xuất và nhập khẩu một sản phẩm xuất xứ
hoặc nhập khẩu sang một Bên ký kết cho
một sản phẩm cùng loại xuất xứ hoặc nhập
khẩu sang các bên ký kết khác.
Nếu như ngày nay quy chế MFN

đồng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng thì
trong lịch sử đã chỉ có một nhóm nhỏ các
cường quốc phương Tây được hưởng quy
chế “Tối huệ quốc”, thực sự có tính ưu đãi
hơn các nước khác được đưa ra trong các
hiệp định thương mại và hàng hải ký với
các nước AÙ-Phi-Mỹ Latinh.
Nếu như nguyên tắc MFN trong
GATT 1947 chỉ áp dụng đối với ‘hàng
hoá’ thì trong WTO, nguyên tắc này đã
được mở rộng sang thương mại dịch vụ
(Điều 2 Hiệp định GATS), và sôû hữu trí
tuệ (Điều 4 Hiệp định TRIPS).
Mặc dù được coi là "hòn đá tảng “
trong hệ thống thương mại đa phương,
Hiệp định GATT 1947 và WTO vẫn quy
định một số ngoại lệ (exception) và miễn
trừ (waiver) quan trọng đối với nguyên tắc
MFN1. Ví dụ như Điều XXIV của GATT
quy định các nước thành viên trong các
hiệp định thương mại khu vực có thể dành
cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn mang tính
chất phân biệt đối xử với các nước thứ ba,
trái với nguyên tắc MFN. GATT 1947
cũng có hai miễn trừ về đối xử đặc biệt và
ưu đãi hơn với các nước đang phát triển.
Miễn trừ thứ nhất là Quyết định ngày 25-6-
1971 của Đại hội đồng GATT về việc thiết
lập “ Hệ thống ưu đãi phổ cập" (GSP) chỉ
áp dụng cho hàng hoá xuất xứ từ những

nước đang phát triển và châm phát triển.
Trong khuôn khổ GSP, các nước phát triển
có thể thiết lập số mức thuế ưu đãi hoặc
miễn thuế quan cho một sônhóm mặt hàng
có xuất xứ từ các nước đang phát triển và
chậm phát triển và không có nghĩa vụ phải
áp dụng những mức thuế quan ưu đãi đó
cho các nước phát triển theo nguyên tắc
MFN. Miễn trừ thứ hai là Quyết định ngày
26-11-1971 của Đại hội đồng GATT về
‘Đàm phán thương mại giữa các nước
đang phát triển”, cho phép các nước này có
quyền đàm phán, ký kết những hiệp định
thương mại dành cho nhau những ưu đãi
hơn về thuế quan và không có nghĩa vụ
phải áp dụng cho hàng hoá đến từ các nước
phát triển. Trên cơ sở Quyết định này,
Hiệp địnhvề “Hệ thống ưu đãi thương
mạitoàn cầu giữa các nước đang phát triển
” (Global System of Trade Preferences
among Developing Countries - GSPT) đã
được ký năm 1989.
Mặc dù được tất cả các nước trong
GATT/WTO công nhận là nguyên tắc nền
tảng, nhưng thực tế cho thấy các nước phát
triển cũng như đang phát triển không phải
lúc nào cũng tuân thủ nghiêm túc nguyên
tắc MFN và đã có rất nhiều tranh chấp
trong lịch sử của GATT liên quan đến việc
áp dụng nguyên tắc này. Thông thường thì

vi phạm của các nước đang phát triển dễ bị
phát hiện và bị kiện nhiều hơn vi phạm của
các nước phát triển.
Năm 1981, Braxin đã kiện Tây Ban
Nga ra tröôùc GATT về thuế suất đăc biệt
đối với cà phê chưa rang. Braxin cho rằng
Nghị định 1764/79 của Tây Ban Nha quy
định các mức thuế quan khác nhau đối với
năm loại cà phê chưa rang khác nhau (cà
phê Arập chưa rang, cà phê Robusta, cà
phê Côlômbia, cà phê nhẹ và cà phê khác).
Hai loại cà phê đều được nhập khẩu miễn
thuế, ba loại cà phê còn lại chịu mức thuế
giá trị gia tăng là 7%. Sau khi xem xeùt
nghị định nói trên, Nhóm chuyên gia của
GATT đã đi đến kết luận như sau: “Hiệp
định GATT không quy định nghĩa vụ cho
các bên ký kết phải tuân thủ một hệ thống
phân loại hàng hoá đặc biệt nào. Tuy
nhiên, Điều I.1 của GATT quy định nghĩa
vụ của các Bên ký kết phải dành một sự
đối xử như nhau cho những sản phẩm
tương tự Lập luận của Tây Ban Nha
biện minh cho sự cần thiết phải có sự đối
xử khác nhau đối với từng loại cà phê khác
nhau chủ yếu dựa trên những yếu tố như
địa lý, phương pháp trồng trọt, quá trình
thu hoạch hạt và giống. Những yếu tố này
tuy có khác nhau nhưng không đủ để Tây
Ban Nha có thể áp dụng những thuế suất

khác nhau đối với từng loại cà phê khác
nhau. Đối với tất cả những người tiêu thụ
cà phê trên thế giới thì cà phê chưa rang
được bán dưới dạng hạt cho dù thuộc nhiều
loại khác nhau cũng chỉ là một lại sản
phẩm cùng loại, có tính năng sử dụng duy
nhất là để uống mà không phân biệt độ
cafein mạnh hay nhẹ. Năm loại cà phê
chưa rang nhập khẩu có tên trong danh
mục thuế uancủa Tây Ban Nha đều là
những sản phẩm cùng loại. Việc Tây Ban
Nha áp dụng mức thuế quan cao hơn đối
với hai loại càc phê là A rập và Robusta,
được nhập khẩu từ Braxin mang tính chất
phân biệt đối xử đối với những sản phẩm
cùng loại và như vậy trái với quy định của
Điều I, khoản 1 Hiệp định GATT”.
I.3.2. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
(National Treatment - NT), quy định tại
Điều III Hiệp định GATT, Điều 17 GATS
và Điều 3 TRIPS. Nguyên tắc NT được
hiểu là hàng hóa nhập khẩu, dịch vụ và
quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được
đối xử không kém thuận lợi hơn so với
hàng hoá cùng loại trong nước. Trong
khuôn khổ WTO, nguyên tắc NT chỉ áp
dụng đối với hàng hoá, dịch vụ, các quyền
sở hữu trí tuệ, chưa áp dụng đối với cá
nhân và pháp nhân. Phạm vi áp dụng của

nguyên tắc NT đối với hàng hoá, dịch vụ
và sở hữu trí tuệ có khác nhau. Đối với
hàng hoávà sở hữu trí tuệ, việc áp dụng
nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung
(general obligation), có nghĩa là hàng hoá
và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài sau khi
đã đóng thuế quan hoặc được đăng ký bảo
vệ hợp pháp được đối xử bình đẳng như
hàng hoá và quyền sở hữu trí tuệ trong
nước đối với thuế và lệ phí nội địa, các quy
định về mua, bán, phân phối vận chuyển .
Đối với dịch vụ, nguyên tắc này chỉ áp
dụng đối với những lĩnh vực, ngành nghề
đã được mỗi nước đưa vào danh mục cam
kết cụ thể của mình và mỗi nước có quyền
đàm phán đưa ra những ngoại lệ
(exception).
Các nước, về nguyên tắc, không
được áp dụng những hạn chế số lượng
nhập khẩu và xuất khẩu, trừ những ngoại
lệ được quy định rõ ràng trong các Hiệp
định của WTO, cụ thể, đó là các trường
hợp: mất cân đối cán cân thanh toán (Điều
XII và XVIII.b) ; nhằm mục đích bảo vệ
ngành công nghiệp non trẻ trong nước
(Điều XVIII.c); bảo vệ ngành sản xuất
trong nước chống lại sự gia tăng đột ngột
về nhập khẩu hoặc để đối phó với sự khan
hiếm một mặt hàng trên thị trường quốc
gia do xuất khẩu quá nhiều (Điều XIX); vì

lý do sức khoẻ và vệ sinh (Điều XX) và vì
lý do an ninh quốc gia (Điều XXI).
Một trong những ngoại lệ quan
trong đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
là vấn đề trợ giá cho sản xuất hoặc xuất
hay nhập khẩu. Vấn đề này được quy định
lần đầu tại Điều VI và Điều XVI Hiệp định
GATT 1947 và sau này được điều chỉnh
trong thoả thuận vòng Tokyo 1979 và hiện
nay trong Thoả thuận vòng đàm phán
Uruguay về trợ cấp và thuế đối kháng, viết
tắt theo tiếng Anh là SCM. Thoả thuận
SCM có một điểm khác biệt lớn so với
GATT 1947 và thoả thuận Tokyo ở chỗ nó
được áp dụng cho cả các nước phát triển
và đang phát triển. Hiệp định mới về trợ
giá phân chia các loại trợ giá làm 3 loại :
loại "xanh"; loại "vàng" và loại "đỏ” theo
nguyên tắc "đèn hiệu giao thông" (traffic
lights).
Riêng về vấn đề hạn chế số lượng
đối với hàng dệt may được quy định trong
Hiệp định đa sợi (MFA) và hiện nay được
thay thế bởi Hiệp định về hàng dệt may
của Vòng đàm phán U ruguay (ATC).
Hiệp định ATC đã chấm dứt 30 năm các
nước phát triển phân biệt đối xử đối với
hàng dệt may của các nước đang phát
triển. Các nước phát triển sẽ có một thời
gian chuyển tiếp là 10 năm để bãi bỏ chế

độ hạn ngạch về số lượng hiện hành. Điều
I của Hiệp định ATC cũng quy định điều
khoản cứu xét đặc biệt đối với một số
nhóm nước; ví dụ như các nước cung cấp
nhỏ, các nước mới bước vào thị trường
(new entrants), các nước chậm phát triển
nhất, các nước đã ký hiệp định MFA từ
1986 cũng như các nước xuất khẩu bông.
Việc áp dụng quy chế đãi ngộ quốc
gia trên thực tế đã gây ra rất nhiều tranh
chấp giữa các bên ký kết GATT/WTO bởi
một lý do dễ hiểu là nếu các nước dễ chấp
nhận nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với
các nước thứ 3 thì nước nào cũng muốn
dành một sự bảo hộ nhất định đối với sản
phẩm nội địa. Mục tiêu chính của nguyên
tắc đãi ngộ quốc gia là tạo ra những điều
kiện cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hoá
nhập khẩu và hàng hoá nội địa cùng loại.
Trong vụ Venezuela kiện Mỹ về thuế môi
trường đối với xăng dầu, bồi thẩm đoàn
của GATT đã khẳng định lại.
Điều III. 2 Hiệp định GATT quy
định nghĩa vụ của các bên ký kết tạo ra
những điều kiện cạnh tranh bình đẳng cho
cả hàng hoá nhập khẩu và hàng sản xuất
trong nước. Trong vụ kiện khác mà Mỹ
liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
rượu và bia, bồi thẩm đoàn của GATT đã
khẳng định lại nguyên tắc việc áp dụng

thuế nội địa, luật và quy định về mua bán
vận chuyển, phân phối và sử dụng hàng
hoá không được mang tính chất bảo hộ
hàng hoá sản xuất trong nước.
Về vấn đề “doanh nghiệp nhà nước
độc quyền thương mại” , Hiệp định không
cấm các bên ký kết thành lập hoặc duy trì
những doanh nghiệp nhà nước kiểu như
vậy nhưng phải đảm bảo nguyên tắc đãi
ngộ quốc gia vẫn được áp dụng đối với
những doanh nghiệp này. Trong vụ Mỹ
kiện Thái Lan về những hạn chế số lượng
và tăng thuế tiêu thụ đánh vào thuốc lá
điếu nhập khẩu, nhóm chuyên gia của
GATT đã quyết định rằng chính phủ Thái
Lan có quyền thành lập "Thai Tobacco
Monopoly" là công ty của nhà nước độc
quyền trong lĩnh vực nhập khẩu và phân
phối thuốc lá ở Thái Lan và có quyền sử
dụng công ty này để điều chỉnh giá và hệ
thống bán lẻ thuốc lá. Tuy nhiên, ngựoc
lại,Thái Lan cũng có nghĩa vụ theo đãi ngộ
quốc gia không được đối xử với thuốc lá
nhập khẩu kém ưu đãi hơn so với thuốc lá
sản xuất trong nước. Vì vậy, việc Thái lan
hạn chế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất
thuốc lá ngoại và tăng thuế tiêu thụ nội điạ
căn cứ vào tỷ lệ "nội hoá" trong thuốc lá là
vi phạm Điều III của GATT về đãi ngộ
quốc gia. Bồi thẩm đoàn của GATT đồng

thời cũng bác bỏ lập luận của Thái lan viện
dẫn điều khoản cho phép hạn chế số lượng
vì lý do sức khoẻ vì cho rằng mục tiêu thực
sự của chính phủ Thái lan không phải là để
hạn chế việc tiêu thụ thuốc lá nói chung
(việc hạn chế nhập khẩu và tăng thuế
không áp dụng đối với sợi và giấy để sản
xuất thuốc lá nội địa) mà thực chất là nhằm
bảo hộ ngành sản xuất thuốc lá của Thái
lan.
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia cùng
với MFN là hai nguyên tắc nền tảng quan
trọng nhất của hệ thương mại đa phương
mà ý nghĩa thực sự là bảo đảm việc tuân
thủ một cách nghiêm túc những cam kết về
mở cửa thị trường mà tất cả các nước
thành viên đã chấp nhận khi chính thức trở
thành thành viên của WTO.
I.3.3. Nguyên tắc mở cửa thị trường
Nguyên tắc "mở cửa thị trường" hay
còn gọi một cách hoa mỹ là "tiếp cận" thị
trường (market access) thực chất là mở cửa
thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư
nước ngoài. Trong một hệ thống thương
mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia
đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình
thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một
hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa.
Về mặt chính trị, "tiếp cận thị
trường" thể hiện nguyên tắc tự do hoá

thương mại của WTO. Về mặt pháp lý,
"tiếp cận thị trường" thể hiện nghĩa vụ có
tính chất ràng buộc thực hiện những cam
kết về mở cửa thị trường mà nước này đã
chấp thuận khi đàm phán ra nhập WTO.
I.3.4. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng
Cạnh tranh công bằng (fair
competition) thể hiện nguyên tắc "tự do
cạnh tranh trong những điều kiện bình
đẳng như nhau” và được công nhận trong
án lệ của vụ Uruguay kiện 15 nước phát
triển (1962) về việc áp dụng các mức thuế
nhập khẩu khác nhau đối với cùng một mặt
hàng nhập khẩu. Do tính chất nghiêm
trọng của vụ kiện, Đại hội đồng GATT đã
phải thành lập một nhóm công tác
(Working group) để xem xét vụ này.
Nhóm công tác đã cho kết luận rằng, về
mặt pháp lý việc áp dụng các mức thuế
nhập khẩu khác nhau đối với cùng một mặt
hàng không với các quy định của GATT,
nhưng việc áp đặt các mức thuế khác nhau
này đã làm đảo lộn những “điều kiện cạnh
tranh công bằng” mà Uruguay có quyền
"mong đợi” từ phía những nước phát triển
và đã gây thiệt hại cho lợi ích thương mại
của Uruguay. Trên cơ sở kết luận của
Nhóm công tác, ñại hội đồng GATT đã
thông qua khuyến nghị các nước phát triển
có liên quan "đàm phán" với U ruguay để

thay đổi các cam kết và nhân nhượng thuế
quan trước đó. Vụ kiện của Uruguay đã tạo
ra một tiền lệ mới, nhìn chung có lợi cho
các nước đang phát triển. Từ nay các nước
phát triển có thể bị kiện ngay cả khi về mặt
pháp lý không vi phạm bất kỳ điều khoản
nào trong hiệp định GATT nếu những
nước này có những hành vi trái với nguyên
tắc "cạnh tranh công bằng.
I.4 Mục tiêu của WTO :
Hình dung đơn giản về WTO như
nêu trên cũng chính là nội dung của các
mục tiêu củaWTO như được ghi nhận tại
Lời mở đầu của Hiệp định thành lập WTO.
 "Các bên ký kết Hiệp định này thừa
nhận rằng: Tất cả những mối quan
hệ của họ (tức các bên ký kết thành
lập ra WTO) trong lĩnh vực kinh tế
và thương mại phải được thực hiện
với mục tiêu nâng cao mức sống,
bảo đảm đầy đủ việc làm và một
khối lượng thu nhập và nhu cầu
thực tế lớn và phát triển ổn định;
mở rộng sản xuất, thương mại hàng
hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn
đảm bảo việc sử dụng tối ưu nguồn
lực của thế giới theo đúng mục tiêu
phát triển bền vững, bảo vệ và duy
trì môi trường và nâng cao các biện
pháp để thực hiện điều đó theo cách

thức phù hợp với những nhu cầu và
mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên
ở các cấp độ phát triển kinh tế khác
nhau.
 (Các bên ký kết Hiệp định) thừa
nhận thêm rằng: cần phải có nỗ lực
tích cực để bảo đảm rằng các quốc
gia đang phát triển, đặc biệt là
những quốc gia kém phát triển nhất,
duy trì được tỷ phần tăng trưởng
trong thương mại quốc tế tương
xứng với nhu cầu phát triển kinh tế
của quốc gia đó;
 (Các bên ký kết Hiệp định) mong
muốn đóng góp vào những mục tiêu
này bằng cách tham gia vào những
thoả thuân tương hỗ và cùng có lợi
theo hướng giảm đáng kể thuế và
các hàng rào cản trở thương mại
khác và theo hướng loại bỏ sự phân
biện đối xử trong các mối quan hệ
thương mại quốc tế;
 Do đó, (Các bên ký kết Hiệp định),
quyết tâm xây dựng một cơ chế
thương mại đa biên chặt chẽ, ổn
định và khả thi hơn; quyết tâm duy
trì những nguyên tắc cơ bản và tiếp
tục theo đuổi những mục tiêu đang
đặt ra cho cơ chế thương mại đa
biên này.

I.5 Sự khác nhau và giống nhau
giữa GATT và WTO:
I.5.1 Giống nhau:
 Điều là hệ thống quy đònh
quốc tế chung, điều tiết môi
hoạt động thương mại của các
nước tham gia ký kết ; là diễn
đàn thương mại đa phương lớn
nhất để thảo luận từng bước
tự do hóa thương mại quốc tế
về hàng hóa, dòch vụ; là cơ
chế kiểm điểm chính sách
thương mại của các nước
thành viên, đảm bảo mục
tiêu thúc đẩy tự do hóa
thương mại và tuân thủ các
quy đònh
 Là khuôn khổ thể chế đế
tiến hành các vòng đàng
phán thương mại đa phương
giữa các nước thành viên.
 Là cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa các nước thành
viên.
 Đưa ra các quy đònh một số
ngoại lệ và miễn trừ quan
trọng đối với nguyên tắc
MFN.
I.5.2 Khác nhau:
GATT

- Là một loạt
các qui đònh,
hiệp đònh đa
biên không có
nền tảng về
thể chế. Điều
hành nó chỉ là
một ban thư ký
nhỏ gắn với
mục đích ban đầu
là cố gắng
thành lập tổ
chức thương mại
quốc tế vào
những năm 40.
- Các hiệp đònh
của GATT mang
tính tạm thời,
được thay đổi,
bổ sung qua các
vòng đàm phán
thương mại.
- Các quy đònh
áp dụng cho
thương mại mại
WTO
- Là một tổ chức
thường trực có
ban thư ký riêng
với 150 thành

viên được điều
hành bởi 1 tổng
giám đốc và 4
phó giám đốc.

- Các hiệp đònh
của WTO mang
tính cam kết cố
đònh và vónh viễn.
.
- Các quy đònh
còn bao gồm cả
thương mại dich vụ
và các khía cạnh
liên quan tới
thương mại khác
như : vấn đề sở
hữu trí tuệ, hoạt
động đầu tư.
- Các hiệp đònh
WTO phần lớn là
hàng.


- Là một công
cụ đa biên đến
những năm 80,
nhiều hiệp đònh
mới được bổ
sung có tính chất

đa phương và do
đó mang tính
chọn lọc và tự
nhiên.
- Việc thực hiện
các phán quyết
giải quyết tranh
chấp khó đảm
bảo hơn WTO.
đa biên và do đó
bao gồm các cam
kết của các nước
trở thành thành
viên đầy đủ.
II. Tiến trình đàm phán gia nhập WTO
của Việt Nam:
Việt Nam chính thức nộp đơn gia
nhập WTO tháng 1/1995. Năm 1996, tại
WTO, Nhóm Cơng tác (WP) về Việt Nam
gia nhập WTO được thành lập với sự tham
gia của trên 20 nước (hiện nay con số này
là gần 40). Từ năm 1996 đến 2001, đàm
phán tập trung chủ yếu vào việc làm rõ chế
độ và chính sách thương mại của ta, với
việc ta phải trả lời hơn 2000 câu hỏi có
liên quan đến chính sách thương mại, kinh
tế, đầu tư.
Đến tháng 8/2001, Việt Nam chính
thức đưa ra bản chào ban đầu về hàng hóa
và dịch vụ (Ininitial Offer) để bước vào

giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa
thị trường với các nước thành viên Ban
Cơng tác.
II.1 Về đàm phán song phương:
Với việc Việt Nam và Hoa Kỳ ký
thỏa thuận chính thức kết thúc đàm phán
song phương về gia nhập WTO của Việt
Nam (TP Hồ Chí Minh, ngày 31/5/2006),
Việt Nam đã chính thức hồn tất đàm phán
với tồn bộ 28 đối tác u cầu đàm phán
với Việt Nam. Việt Nam đang tích cực vận
động Quốc hội Hoa Kỳ sớm thơng qua quy
chế thương mại bình thường vĩnh viễn
(PNTR) cho Việt Nam.
II.2 Về đàm phán đa phương:
Đến nay, Việt Nam đã tiến hành 15
phiên họp với Nhóm Cơng tác về Việt
Nam gia nhập WTO. Từ Phiên 9 (tháng
12/2004), Việt Nam cùng với Ban Cơng
tác đã bắt đầu xem xét và thảo luận Dự
thảo Báo cáo (DR) của Nhóm Cơng tác.
Tại các Phiên 14 và 15 (10/2006), Việt
Nam đã giải quyết được tồn bộ các vấn đề
đa phương còn tồn đọng giữa Việt Nam
với một số đối tác, hồn tất về cơ bản đàm
phán gia nhập WTO, hồn chỉnh tồn bộ
các tài liệu, chuẩn bị cho phiên họp đặc
biệt của Đại hội đồng WTO xem xét, thơng
qua việc gia nhập của Việt Nam sẽ được tổ
chức vào ngày 7/11/2006.

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao Phạm Gia Khiêm sẽ dẫn đầu
đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham
dự Lễ kết nạp Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của WTO. Tại Lễ gia nhập
ngày 7/11/2006, Phó Thủ tướng và các
thành viên WTO sẽ chứng kiến việc ký
Nghị định thư gia nhập giữa Bộ trưởng
Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng
Giám đốc WTO Pascal Lamy.
Sau đó, văn kiện này sẽ được trình lên
Quốc hội để xem xét thông qua và gửi lại
cho Ban thư ký WTO. 30 ngày kể từ sau
khi Ban thư ký WTO nhận được văn bản
phê chuẩn này của Quốc hội Việt Nam,
Việt Nam sẽ trở thành thành viên chính
thức của WTO.
III. CÁC CAM KẾT LỚN CỦA VIỆT
NAM:
III.1. Cam kết đa phương:
Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ
các hiệp định và các quy định mang tính
ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập.
Tuy nhiên, do là nước đang phát triển ở
trình độ thấp, lại đang trong quá trình
chuyển đổi nên Việt Nam đã yêu cầu và
WTO đã chấp nhận hưởng một thời gian
chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có
liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB), trợ cấp cho phi nông nghiệp,

quyền kinh doanh, v.v. Cam kết chính thức
như sau:
III.1.1. Kinh tế phi thị trường:
Việt Nam chấp nhận bị coi là nền
kinh tế phi thị trường trong 12 năm (
không muộn hơn 31/12/2018). Tuy nhiên,
trước thời điểm trên, nếu chứng minh được
với đối tác nào đó là kinh tế Việt Nam đã
hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường
thì đối tác đó sẽ ngừng áp dụng chế độ
"phi thị trường". Chế độ "phi thị trường"
nói trên chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện
chống bán phá giá. Các thành viên WTO
không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc
thù (là cơ chế khác với cơ chế chung trong
WTO mà một số nước có nền kinh tế phi
thị trường khi gia nhập WTO phải chịu)
đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, kể
cả trong thời gian bị coi là nền kinh tế phi
thị trường.
III.1.2. Dệt may:
Các thành viên WTO sẽ không
được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với
Việt Nam khi vào WTO. Riêng trường hợp
vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm
đối với hàng dệt may thì một số nước có
thể có biện pháp trả đũa nhất định. Ngoài
ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp
dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may
của Việt Nam.

III.1.3. Trợ cấp phi nông nghiệp:
Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn
các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO
như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa
hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành
cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia
nhập WTO, Việt Nam được bảo lưu thời
gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may).
III.1.4. Trợ cấp nông nghiệp:
Việt Nam cam kết không áp dụng
trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời
điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền
được hưởng một số quy định riêng của
WTO dành cho nước đang phát triển trong
lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO
quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy
trì được ở mức không quá 10% giá trị sản
lượng. Ngoài mức này, Việt Nam còn bảo
lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào
khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Có thể
nói, trong nhiều năm tới, ngân sách của
Việt Nam cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho
nông nghiệp ở mức này.
Các loại trợ cấp mang tính chất
khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát
triển nông nghiệp được WTO cho phép
nên Việt Nam được áp dụng không hạn
chế.
III.1.5. Quyền kinh doanh (quyền
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa):

Tuân thủ quy định WTO, Việt Nam
đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước
ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng
hóa như người Việt Nam kể từ khi gia
nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh
mục thương mại nhà nước như: xăng dầu,
thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí
và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta
chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi
như gạo và dược phẩm.
Việt Nam đồng ý cho phép doanh
nghiệp và cá nhân nước ngoài không có
hiện diện tại Việt Nam được đăng ký
quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam.
Quyền xuất khẩu chỉ là quyền đứng tên
trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất
nhập khẩu.
Trong mọi trường hợp, doanh
nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không
được tự động tham gia vào hệ thống phân
phối trong nước. Các cam kết về quyền
kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền
của Việt Nam trong việc đưa ra các quy
định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt
đối với sản phẩm nhạy cảm như dược
phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí
III.1.6. Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
rượu và bia:
Các thành viên WTO đồng ý cho ta
thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để

điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
rượu và bia cho phù hợp với quy định
WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên
20 độ cồn Việt Nam hoặc sẽ áp dụng một
mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế
phần trăm. Đối với bia, Việt Nam sẽ chỉ áp
dụng một mức thuế phần trăm.
III.1.7. Doanh nghiệp Nhà nước /
doanh nghiệp thương mại Nhà nước:
Cam kết của ta trong lĩnh vực này là
Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay
gián tiếp vào hoạt động doanh nghiệp Nhà
nước. Tuy nhiên, Nhà nước với tư cách là
một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào
hoạt động của doanh nghiệp như các cổ
đông khác. Việt Nam cũng đồng ý cách
hiểu mua sắm của doanh nghiệp Nhà nước
không phải là mua sắm Chính phủ.
III.1.8. Tỷ lệ cổ phần để thông qua
quyết định tại doanh nghiệp:
Điều 52 và 104 của Luật doanh
nghiệp quy định một số vấn đề quan trọng
có liên quan đến hoạt động của công ty
TNHH và công ty cổ phần chỉ được phép
thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất
là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy
định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên
góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy,
Việt Nam đã xử lý theo hướng cho phép
các bên tham gia liên doanh được thỏa

thuận vấn đề này trong điều lệ công ty.
III.1.9. Một số biện pháp hạn chế
nhập khẩu:
Việt Nam đồng ý cho nhập khẩu xe
máy phân phối lớn không muộn hơn ngày
31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, Việt
Nam đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu
từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có
một doanh nghiệp Nhà nước được quyền
nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà.
Mức thuế nhập khẩu mà Việt Nam đàm
phán được cho hai mặt hàng này là rất cao.
Với ô tô cũ Việt Nam cho phép nhập khẩu
các loại xe đã qua sử dụng không quá 5
năm.
III.1.10. Minh bạch hóa:
Việt Nam cam kết ngay từ khi gia
nhập sẽ công bố dự thảo các văn bản quy
phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ quốc hội và Chính phủ ban
hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn
dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là
60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng
công khai các văn bản pháp luật trên.
III.1.11. Một số nội dung khác:
Về thuế xuất khẩu Việt Nam chỉ cam
kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu
kim loại đen và màu theo lộ trình, không
cam kết về thuế xuất khẩu của các sản
phẩm khác.

Việt Nam còn đàm phán một số vấn đề đa
phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp
pháp trong cơ quan Chính phủ. Định giá
tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp
đầu tư liên quan đến thương mại, các biện
pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại
Với nội dung này, Việt Nam cam kết tuân
thủ các quy định của WTO kể từ khi gia
nhập.
III.2. Cam kết về thuế nhập khẩu:
III.2.1. Mức cam kết chung:
Việt Nam đồng ý ràng buộc mức
trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng).
Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm
từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4%
thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm.
Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản
giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn
20,9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng
công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6%
thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm (xin
tham khảo Biểu 1 kèm theo báo cáo).
III.2.1. Mức cam kết cụ thể:
Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ
phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế
suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu,
nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông
sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng,
ôtô - xe máy vẫn duy trì được mức bảo

hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế
nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản
phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác,
máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta đạt
được mức thuế trần cao hơn mức đang áp
dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim
loại, hóa chất là phương tiện vận tải.
Việt Nam cũng cam kết cắt giảm
thuế theo một số hiệp định tự do theo
ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc
mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của
WTO nhưng các nước mới gia nhập đều
phải tham gia một số ngành. Ngành mà
Việt Nam cam kết tham gia là sản phẩm
công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y
tế. Ta cũng tham gia một phần với thời
gian thực hiện từ 3 – 5 năm đối với ngành
thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây
dựng.
Về hạn ngạch thuế quan, Việt Nam
bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng
gia cầm, lá thuốc lá và muối.
III.3. Cam kết về mở cửa thị trường
dịch vụ:
Về diện cam kết, trong BTA với
Mỹ, Việt Nam đã cam kết 8 ngành dịch vụ
khoảng 65 phân ngành. Trong thỏa thuận
WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính
theo phân ngành khoảng 110. Trong thỏa

thuận WTO đi xa hơn BTA nhưng không
nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ,
trong đó có những ngành nhạy cảm như
bảo hiểm, phân phối, du lịch Việt Nam
giữ được mức độ cam kết gần như trong
BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và
chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phán,
ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn
chung không quá xa so với hiện trạng và
đều phù hợp với định hướng phát triển đã
được phê duyệt cho các ngành này. Nội
dung cam kết của một số lĩnh vực chủ chốt
như sau:
III.3.1. Cam kết chung cho các ngành
dịch vụ:
Về cơ bản như BTA. Trước hết,
công ty nước ngoài không được hiện diện
tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ
phi điều đó được ta cho phép trong từng
ngành cụ thể mà những ngành như thế là
không nhiều. Ngoài ra, công ty nước ngoài
tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm
việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán
bộ quản lý của công ty phải là người Việt
Nam.
Cuối cùng, Việt Nam cho phép tổ
chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ
phần trong các doanh nghiệp Việt Nam
nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa
thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta

chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua
tối đa 30% cổ phần.
III.3.2. Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu
khí:
Việt Nam đồng ý cho phép các
doanh nghiệp nước ngoài được thành lập
công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm
kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ
hỗ trợ khai thác dầu khí.
Tuy nhiên, Việt Nam còn giữ
nguyên quyền quản lý các hoạt động trên
biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các
công ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Việt
Nam cũng bảo lưu được một danh mục các
dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp
Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung
cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn
khoan xa bờ Tất cả các công ty vào Việt
Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều
phải đăng ký với cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền (hiện nay ta không có chế độ
đăng ký này).
III.3.3. Dịch vụ viễn thông:
Việt Nam có thêm một số nhân
nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp
lý, phù hợp với chiến lược phát triển của
ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh
đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ
viễn thông không gắn với hạ tầng mạng
(phải thuê mạng do doanh nghiệp Việt

Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng
một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên
giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho
viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ
các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số
vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài
chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ
được liên doanh với đối tác Việt Nam đã
được cấp phép).
Như vậy, với dịch vụ có gắn với hạ
tầng mạng, Việt Nam vẫn giữ mức cam kết
như BTA, một yếu tố quan trọng góp phần
bảo đảm an ninh quốc phòng.
III.3.4. Dịch vụ phân phối:
Về cơ bản giữ được như BTA, tức
là khá chặt so với các nước mới gia nhập.
Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như
BTA vào 1/1/2009. Thứ hai, tương tự như
BTA, ta không mở cửa thị trường phân
phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp
chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và
kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản
phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng,
phân bón Việt Nam chỉ mở cửa thị
trường sau 3 năm.
Quan trọng nhất, Việt Nam hạn chế khá
chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta

cho phép theo từng trường hợp cụ thể.
III.3.5. Dịch vụ bảo hiểm:
Về tổng thể, mức độ cam kết ngang
BTA, tuy nhiên, Việt Nam đồng ý cho Mỹ
thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ
sau 5 năm kể từ ngày gia nhập.
III.3.6. Dịch vụ ngân hàng:
Việt Nam đồng ý cho thành lập
ngân hàng con 100% vốn nước ngoài
không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra
ngân hàng nước ngoài muốn được thành
lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi
nhánh đó không được phép mở chi nhánh
phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động
tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam
trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập
WTO. Việt Nam vẫn giữ được hạn chế về
mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam,
không quá 30%. Đây là hạn chế đặc biệt có
ý nghĩa đối với ngành ngân hàng.
III.3.7. Dịch vụ chứng khoán:
Việt Nam cho phép thành lập công
ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và
chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập
WTO
IV. Cơ hội và thách thức của VN khi gia
nhập WTO
IV.1 Những cơ hội khi gia nhập WTO:
Một là: Được tiếp cận thị trường
hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước

thành viên với mức thuế nhập khẩu đã
được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà
các nước mở cửa theo các Nghị định thư
gia nhập của các nước này, không bị phân
biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho
chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và
trong tương lai - với sự lớn mạnh của
doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở
rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới
quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở
lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch
xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì
điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố
bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện
công khai minh bạch các thiết chế quản lý
theo quy định của WTO, môi trường kinh
doanh của nước ta ngày càng được cải
thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để
không những phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế trong nước mà còn thu
hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp
nhận vốn, công nghệ sản xuất và công
nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển
dịch cơ cấu lao động, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo
đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng

cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ,
cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước
ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội:
năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37%
giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim
ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút
hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có
được vị thế bình đẳng như các thành viên
khác trong việc hoạch định chính sách
thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu
tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới
công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để
bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh
nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn
tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả
năng tập hợp lực lượng và năng lực quản
lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của
chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể
chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội
lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính
việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh
tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách
trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải
cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.

Năm là: Cùng với những thành tựu
to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi
mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế
của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện
cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối
ngoại theo phương châm: Việt Nam mong
muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình,
hợp tác và phát triển.

IV.2 Những thách thức khi gia nhập WTO:
Trong khi nhận thức rõ những cơ
hội có được do việc gia nhập WTO mang
lại, cần thấy hết những thách thức mà
chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều
kiện nước ta là một nước đang phát triển ở
trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều
yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội
ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách
thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa
năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu
hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm
tàng của chính quá trình hội nhập. Những
thách thức này gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay
gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình
diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh
tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm
các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với
doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị

trường thế giới và ngay trên thị trường
nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ
mức trung bình 17,4% hiện nay xuống
mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5
năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh
hơn. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ
sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với
doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa
nhà nước và nhà nước trong việc hoạch
định chính sách quản lý và chiến lược phát
triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu
tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có
phát huy được lợi thế so sánh hay không,
có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt
trước” trong một thế giới biến đổi nhanh
chóng hay không. Chính sách quản lý có
tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất
cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo
dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư
thông thoáng, thuận lợi hay không v.v…
Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ
tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền
kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối”
lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng
đều. Những nước có nền kinh tế phát triển
thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc
gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không
đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng
lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu

cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một
bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất
nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ
mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính
sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn;
phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ
trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi
đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế
trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên.
Sự biến động trên thị trường các nước sẽ
tác động mạnh đến thị trường trong nước,
đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế
vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và
phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo
cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng
tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực
trước những biến động trên thị trường thế
giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có
hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện,
kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị
trường chưa nhiều thì đây là khó khăn
không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu
vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và
trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước
dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt

ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi
trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền.
Như vậy, gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa
có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách
thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến
thành lực lượng vật chất trên thị trường mà
tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội
của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực
tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn
tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng
ta. Cơ hội và thách thức không phải “nhất
thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển
hoá và thách thức đối với ngành này có thể
là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận
dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới
để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ
hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận
dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ
hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành
những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.
Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất
nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn
dân tộc là quyết định nhất.
Với thành tựu to lớn sau 20 năm đổi
mới, quá trình chuyển biến tích cực trong
cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm

vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả
của nhiều nước gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới trước ta, cho chúng ta niềm tin
vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể
tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có
thể có một số doanh nghiệp khó khăn,
thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần
lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn
lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia
thị trường và toàn bộ nền kinh tế sẽ phát
triển theo mục tiêu và định hướng của
chúng ta.

IV.3 Cảm nhận cơ hội từ WTO :
Bà Nguyễn Thị Mai Thanh, Tổng giám
đốc CTCP Cơ điện lạnh (REE).
Tôi cảm thấy rất hãnh diện cho
Việt Nam chúng ta. Báo chí đã nói
nhiều về sự kiện này và DN cũng đã
biết sẽ phải chuẩn bị như thế nào? Tôi
cho rằng, gia nhập WTO, Việt Nam rất
thuận lợi vì đã có thời gian dài gia
nhập ASEAN (từ năm 1995), các DN
đã được "thử lửa", nên dù nhiều khó
khăn hơn, nhưng giới DN cũng tìm thấy
cơ hội.
Tôi cho rằng, không nên quá lo
lắng về khả năng cạnh tranh của DN
Việt Nam. Vào thời điểm này, mỗi DN
Việt Nam nên tự xét lại mình để nhận

biết rõ đâu là điểm mạnh, điểm yếu,
nguy cơ và thách thức để từ đó có
chiến lược thích hợp. Vào WTO, các
ngành hàng xuất khẩu sử dụng nguyên
liệu tại chỗ sẽ có lợi thế rõ ràng.
Riêng với REE, mảng hoạt động
Reetech sẽ cạnh tranh hơn và đòi hỏi
sự hoàn thiện về dịch vụ, thương hiệu
trong khi các mảng bất động sản, M&E
và tài chính lại có nhiều cơ hội. Vào
WTO, chắc chắn các DN có bộ máy
quản trị tốt đã có sự chuẩn bị. Tuy
nhiên, bên cạnh đó có nhiều DN lại
không đặt vấn đề rõ ràng về tương lai
của mình sau 3 năm nữa (lộ trình hội
nhập cho phép DN có khoảng 3 năm để
chuẩn bị).

Ông Trương Phú Chiến, Chủ tịch
HĐQT Bibica.
WTO là điều kiện tốt cho nền kinh
tế Việt Nam đón nhận những thành tựu
kinh tế của các nước. Người tiêu dùng
sẽ có lợi hơn, nhưng các DN sẽ phải
thận trọng xem xét từng vấn đề và phải
tìm cách gia tăng lợi thế của mình. Tôi
đang nghiên cứu các điều khoản và tiến
trình hội nhập cho sản phẩm bánh kẹo
của Bibica. Nhưng không riêng Bibica,
các DN cần phải hiểu tiến trình hội

nhập để hoạch định tương lai, phải đưa
ra hệ thống quản trị tiên tiến và thường
xuyên nắm bắt những cơ hội cũng như
nguy cơ từ bên ngoài.

Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân, Đại học
Kinh tế TP.HCM.
Lộ trình vào WTO đã có dự báo
trước, nên bên cạnh niềm vui lớn, tôi
nghĩ rằng, điều quan trọng nhất là phải
ý thức Việt Nam đã bước vào sân chơi
lớn, sân chơi không dễ tính. Chuyện
một DN có những sản phẩm hơi hướng
độc quyền sẽ không còn. Thực sự,
nhiều DN tên tuổi của Việt Nam đã
chuẩn bị tương đối với câu chuyện hội
nhập, nhưng phần lớn vẫn còn thờ ơ.
Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường
từ năm 1986 đến nay và chúng ta có 20
năm để quen dần với kinh tế thị trường.
Bản thân tôi không có nhiều kinh
nghiệm thực tế, nhưng nghiên cứu của
tôi cho thấy rằng, những DN lớn có
nhiều lợi thế hơn nhờ việc tiết giảm chi
phí.
Theo tôi, các DN nhỏ nếu biết
khai thác những sản phẩm nhỏ một
cách chuyên nghiệp thì cũng tạo ra
được lợi thế, không nên tham vọng làm
việc quá lớn khi quy mô còn nhỏ. Với

TTCK, WTO mang lại một luồng gió
mới, đầu tư nước ngoài sẽ tăng và xu
hướng chung có thể là giá chứng khoán
sẽ tăng.

Ông Nguyễn Băng Tâm, Giám đốc
Công ty Gilimex.
WTO là cơ hội lớn cho các DN
xuất khẩu phát huy hết tiềm năng,
nhưng với những DN chỉ chọn thị
trường nội địa có thể sẽ khó khăn hơn.
Gilimex hiện có tỷ lệ sản phẩm xuất
khẩu đến 90% đã sống với thị trường
chung lâu rồi. Nay Việt Nam gia nhập
WTO có nghĩa là chúng tôi sẽ có
nguyên liệu giá thấp hơn, hàng xuất đi
cũng dễ hơn.
Còn một băn khoăn với Gilimex là
các đối tác vẫn coi Việt Nam là nền
kinh tế phi thị trường và sẽ tiếp tục sử
dụng các rào cản thương mại, kiện
chống phá giá Công ty chúng tôi ý
thức chuẩn bị rõ ràng cho việc này và
nỗ lực làm đúng quy trình cũng như lưu
lại bằng chứng. Chẳng hạn, mỗi lô
hàng chúng tôi đều lưu giữ cẩn thận
như chứng nhận xuất xứ và thậm chí
chụp hình từng container để lỡ có kiện
tụng thì giải trình cho dễ. Và Gilimex
chắc sẽ phải chuẩn bị luật sư riêng.


Ông Cao Thanh Định, Công ty Chứng
khoán Đông Á.
Quá sớm để nhận định về những điều
WTO mang lại, nhưng về tâm lý thì các
DN đã chuẩn bị từ lâu. Tôi nghĩ những
ảnh hưởng cụ thể chỉ thấy rõ trong
vòng 1 năm tới. Hiện nay, các công ty
cổ phần đại chúng (niêm yết) đã có sự
chuẩn bị tốt về chiến lược, mô hình
quản trị…, nên có nhiều thuận lợi. Tuy
nhiên, các công ty cổ phần hoá nếu vẫn
mang cung cách cũ hoặc chỉ niêm yết
để mong giảm thuế thì sắp tới sẽ gặp
không ít khó khăn.

Ông Đinh Xuân Thành, nhà đầu tư cá
nhân.
Tôi nghĩ giới trẻ sẽ được rất
nhiều, được cả thiên thời - địa lợi. Với
những nhà đầu tư đã có ít nhiều tích
luỹ về vốn và kinh nghiệm trong mấy
năm nay thì đây là cơ hội để bứt phá
mạnh hơn, không chỉ trong lĩnh vực tài
chính mà cả các lĩnh vực kinh doanh
khác.
Với các DN niêm yết như REE, Sacom,
Gemadept… thì không có vấn đề gì, nhưng
những DN nhỏ, không khai thác tốt thị
trường xuất khẩu hoặc chỉ làm hàng gia

công xuất khẩu thì phải tranh thủ lớn
nhanh trong 2 năm tới, nếu không sẽ phải
sáp nhập vào DN khác hoặc phá sản.
IV.4 Thách thức đối với các ngành kinh
tế :
IV.4.1 Trong ngành nông nghiệp:
Việt Nam còn là một nước với 67%
lao động xã hội sống bằng nghề nông,
nông nghiệp tạo ra khoảng 25% GDP và
khoảng 1/3 kim ngạch xuất khẩu. Thách
thức lớn nhất của nông nghiệp khi vào
WTO là khả năng cạnh tranh của các mặt
hàng nông sản và doanh nghiệp chế biến
nông sản phải cạnh tranh khốc liệt với
hàng ngoại nhập có chất lượng cao.
Thực thi quyền sở hữu trí tuệ, buộc
nông dân phải mua giống, vật tư, tư liệu
sản xuất với giá cao có thể làm tăng chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm. Trong khi
những nước giàu gây sức ép với nước
nghèo mở cửa thị trường thì họ vẫn tiếp
tục duy trì trợ cấp và những rào cản đối
với thị trường nông sản nước mình (hàng
năm nước Mỹ trợ cấp đến 10 tỷ USD cho
việc trồng ngô, còn EU giành trên 840
triệu EUR cho củ cải đường ), điều này
khiến nông nghiệp nước ta khó sử dụng
được biện pháp tự vệ đặc biệt đối với nông
sản nhập khẩu.
IV.4.2 Đối với sản xuất công nghiệp:

Những hiệp định liên quan đã đặt
công nghiệp ôtô Việt Nam, một trong
những ngành quan trọng, trước nhiều thách
thức. Với cam kết xoá bỏ yêu cầu nội địa
hoá khi vào WTO, dường như nước ta
không còn cơ hội để tiếp tục thực thi
chương trình nội địa hoá lĩnh vực công
nghiệp này.
Chế biến sữa là ngành sử dụng
nguyên liệu thô của chăn nuôi bò sữa. Quy
định hiện hành của nước ta yêu cầu các
nhà đầu tư phải gắn chế biến sữa với phát
triển đàn bò sữa để cấp giấy phép đầu tư.
Do nguồn nguyên liệu cung cấp trong
nước hạn chế (khoảng 10% nhu cầu), nhập
khẩu nguyên liệu sữa bột từ nước ngoài có
xu hướng gia tăng. Thực hiện cam kết
TRIMs, các doanh nghiệp chủ động quyết
định nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến,
điều này càng làm gia tăng nhập khẩu sữa,
tạo những khó khăn mới trong thực hiện
chương trình phát triển bò sữa ở nước ta.
Công nghiệp dược phẩm là lĩnh vực
ảnh hưởng nhiều đến đời sống xã hội. Liên
quan tới việc tiếp cận dược phẩm là bằng
phát minh sáng chế (patents), nhãn mác
hàng hoá và những bí mật kinh doanh,
trong đó quy định về Patents có vai trò
quan trọng nhất. Thực hiện cam kết TRIPs
có thuận lợi cho hoạt động đầu tư, nhưng

cũng gây nhiều sức ép. Những quy định
liên quan đến phát minh, sáng chế dẫn đến
làm gia tăng giá thuốc, gánh nặng của
người nghèo lại càng thêm nặng vì khả
năng tiếp cận thuốc của họ vốn đã thấp lại
càng khó khăn hơn khi ngân sách y tế nước
nhà hạn hẹp.
IV.4.3 Lĩnh vực dịch vụ:
Ngành dịch vụ nước ta phát triển
chưa cao, mới chiếm 40% GDP (bình quân
chung thế giới là 68%). Phần lớn các
doanh nghiệp dịch vụ khoa học, nghiên
cứu thị trường, tiếp thị, kế toán, thiết kế
mẫu mã mới được hình thành, khả năng
cạnh tranh thấp đang có nguy cơ bị các
doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh ngay
khi mở cửa thị trường. Do việc xuất hiện
của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài
khi vào WTO, cơ cấu thị phán tiền tệ sẽ có
nhiều thay đổi, việc hình thành chính sách
tiền tệ quốc gia sẽ chịu tác động chi phối
của những thay đổi kinh tế xã hội toàn cầu,
biến động tỷ giá và hành vi của giới đầu tư
quốc tế sẽ làm tăng các hoạt động giao
dịch vốn và gia tăng rủi ro trong các hệ
thống Ngân hàng.
IV.4.4 Về những ảnh hưởng xã hội:
Ở nhiều nước đang phát triển, khi
vào WTO, tiền lương của lao động lành
nghề đã gia tăng nhanh cùng với nguy cơ

mất việc làm và mức độ cải thiện thấp của
lao động không có kỹ năng. Tự do hoá
thương mại toàn cầu có tác động mạnh đến
thu nhập của người lao động và có thể làm
trầm trọng thêm khoảng cách giàu nghèo
giữa các tầng lớp dân cư.
Sự khác biệt trong thu nhập của lao
động nước ta còn có thể cao hơn khi giá cả
lao động trên thị trường nội địa và ở nước
ngoài có khoảng cách xa. Việc cắt giảm trợ
cấp các mặt hàng nông sản và đỡ bỏ hàng
rào thuế quan sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
thu nhập của nông dân. Do năng suất lao
động và trình độ kỹ thuật có nhiều cách
biệt trong sản xuất công nghiệp và nông
nghiệp, thực hiện cam kết WTO, khoảng
cách thu nhập của lao động công nghiệp và
nông nghiệp sẽ ngày càng lớn. Nông
nghiệp và nông dân là đại diện lớn nhất
của khu vực nông thôn, còn thành thị đang
là khu vực mở mang nhanh công nghiệp và
dịch vụ, thực trạng này, khiến chênh lệch
giàu nghèo của khu vực thành thì và nông
thôn là một thực tế khách quan, nếu không
xử lý tốt có thể dẫn tới những quan hệ
thiếu bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ
xã hội và tầng lớp nghèo ở nông thôn có
thể là người chịu nhiều thua thiệt.
V. Gia nhập WTO: Cơ hội và thách
thức đối với ngành công nghệ thông tin

Việt Nam và với Hiệp hội phần mềm
Việt Nam (VINASA)
Sự kiện Việt Nam chính thức gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) ngày 07/11/2006 là một bước
ngoặt đặt biệt quan trọng xác định vị thế
Việt Nam trên con đường hội nhập toàn
cầu. Trong bài viết của mình nhân dịp Việt
Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới WTO, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đặt vấn đề: “Việt Nam đã chính
thức được kết nạp vào WTO. Điều gì sẽ
diễn ra khi chúng ta tham gia tổ chức
thương mại có quy mô toàn cầu này. Đâu
là cơ hội mà chúng ta có thể và cần phải
tận dụng. Những thách thức nào mà chúng
ta phải nhận biết để vượt qua. Và để tận
dụng cơ hội, vượt qua thách thức chúng ta
phải làm gì.” Có thể thấy rõ một điều,
ngành Công nghiệp Công nghệ thông tin
(CNTT) Việt Nam là lĩnh vực thu hút được
rất nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Đứng trước những
vận hội mới của đất nước, Bộ trưởng Bộ
Bưu chính Viễn thông Đỗ Trung Tá chỉ
đạo phương châm phát triển ngành CNTT
Việt Nam “Biến thách thức thành động lực
phát triển; Biến cơ hội thành tăng trưởng;
Lấy nội lực phát huy ngoại lực; Lấy nhanh
thắng chậm, để ngành CNTT phát triển

bền vững thông qua việc tận dụng tốt
những lợi thế, giảm thiểu những tác động
tiêu cực, đòi hỏi chúng ta cần phải có
những chính sách và lộ trình hội nhập hợp
lý.”
V.1 Biến thách thức thành động lực
phát triển:
Hiện nay, ngành CNTT Việt Nam
đang là một trong những thị trường hấp
dẫn nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Ngành
CNTT là ngành liên tục tăng trưởng cao
trong nhiều năm nay, tổng giá trị thị
trường CNTT Việt Nam năm 2005 đạt 828
triệu USD (tăng 20,9% so với năm 2004)
gấp đôi tỉ lệ tăng trưởng chung của khu
vực Châu á- Thái Bình Dương, gấp ba tỉ lệ
tăng trưởng của thị trường CNTT thế giới.
Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn
2001-2005 là 22,7%, tỉ lệ tăng trưởng rất
cao so với tốc độ tăng trưởng khu vực và
thế giới. Trong đó năm 2005 chứng kiến sự
tăng trưởng vượt bậc về phần mềm và dịch
vụ 41,4% so với phần cứng 15,6%.
Theo thông lệ của WTO, khi gia
nhập tổ chức này Việt Nam phải cắt, giảm
thuế nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp,
bao gồm máy tính, các sản phẩm kỹ thuật
số và các linh kiện điện tử. Ngoài ra, rào
cản phi thuế quan đối với các nhà cung cấp
dịch vụ cũng phải được gỡ bỏ (bao gồm cả

dịch vụ sản xuất phần mềm).
* Gia nhập WTO, ngành CNTT Việt
Nam sẽ phải đối mặt với một số thách
thức sau:
Thứ nhất, sức ép cạnh tranh ngay
trên sân nhà, đây là thách thức rất lớn đối
với các doanh nghiệp Việt Nam. Bộ trưởng
Bộ Bưu chính Viễn thông Đỗ Trung Tá
nhận định: “Năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp CNTT Việt Nam hiện nay
còn yếu. Điều này thể hiện rõ ở quy mô
vốn nhỏ, kinh nghiệm quản lý kinh doanh,
công nghệ, trình độ cán bộ còn yếu, năng
suất lao động thấp. Khi Việt Nam mở cửa
thị trường, các doanh nghiệp CNTT viễn
thông nước ngoài còn thâm nhập vào, bản
thân họ xuất phát từ một tiền đề của các
nước công nghiệp phát triển có nhiều tiềm
lực và kinh nghiệm cạnh tranh lại được hệ
thống luật pháp sở tại rất chặt chẽ hỗ trợ
bảo vệ quyền lợi khi đầu tư ra nước ngoài.
Các DN Việt Nam chắc chắn sẽ phải đối
mặt với những đối thủ nặng ký hơn mình
nhiều lần”. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh của các công ty trong nước, hơn lúc
nào hết Nhà nước cần phải có chính sách
đối xử bình đẳng giữa doanh nghiệp trong
nước, đồng thời có chính sách hỗ trợ hợp
lý cho các doanh nghiệp Việt Nam chiếm
lĩnh thị trường. Bên cạnh đó, các doanh

nghiệp Việt Nam phải tự nhận thức rằng,
liên minh, liên kết là một xu hướng tất yếu
để nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Đồng thời, thông qua học
hỏi kinh nghiệm quản lý, đào tạo đội ngũ
lãnh đạo trẻ, nâng cao chất lượng sản xuất
kinh doanh là cách tốt nhất để mỗi doanh
nghiệp Việt Nam chuẩn bị tốt hành trang
cho hội nhập.
Thứ hai, vấn đề thu hút nhân tài,
chất xám của các doanh nghiệp Việt Nam.
áp lực đối với nguồn nhân lực chất lượng
cao đang ngày càng đè nặng lên hệ thống
đại học của Việt Nam. Đây là một trong
những đòi hỏi của tình hình mới, để có
được nguồn nhân lực đủ về số lượng, tốt
về chất lượng, chúng ta phải tạo ra được
một hệ thống Đại học theo hướng thị
trường, mở rộng các loại hình giáo dục dạy
nghề như mô hình của Aptech, NIIT Việt
Nam, có như vậy doanh nghiệp Việt Nam
mới có thể giải quyết được câu hỏi lớn
này.
Thứ ba, thách thức ở sân chơi quốc
tế của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ là
tầm và quy mô của doanh nghiệp. Khách
hàng có yêu cầu rất cao, như yêu cầu cao
về chất lượng, về thời gian, về giá cả và
quy mô. Hiện tại, theo khảo sát của Hội
Tin học thành phố Hồ Chí Minh, quy mô

của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh
nghiệp phần mềm đang là vấn nạn lớn đối
với các doanh nghiệp CNTT của Việt
Nam, trên 95% ở mức dưới 50 người/đơn
vị, chỉ có một số ít các doanh nghiệp có đủ
khả năng thực hiện các hợp đồng lớn, phức
tạp như công ty FPT, TMA, PSV với số
lượng lập trình viên lên tới hàng trăm
người
V.2 Biến cơ hội thành tăng trưởng:
Bên cạnh những thách thức, vận hội
mới của đất nước cũng mang lại cho chúng
ta những cơ hội mới. Linh cảm cho chúng
ta thấy đây là mốc thời điểm “Việt Nam
bắt đầu hóa rồng” nhanh hay chậm phụ
thuộc rất nhiều vào chúng ta nắm bắt, tận

×