Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Đồ án web server mailing list và mail system nhằm xây dựng IM hoàn chỉnh - 4 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.6 KB, 38 trang )

Hệ thống mạng email gồm có:
- Một vùng đệm để chứa các message trước khi được gửi đi.
- Một chương trình Client.
- Một chương trình Server.
- Các mailbox để chứa các thư nhận được.
Trong đa số hệ thống mạng Email hiện nay các bộ giao tiếp của người sử dụng với
hệ thống Email thường gắn với các chương trình Client. Mailbox được coi như là
địa chỉ của người sử dụng, hoặc là một kho chứa đựng các dữ liệu của email.
B. Các thành phần của một Hệ thống Internet Mail
User agent thay thế cho chương trình email và các bộ phận MTA thay thế cho các
chương trình phía Server, Client.
Người sử dụng tương tác với chương trình user agent, nó thay thế cho người sử
dụng tương tác với một kho chứa các dữ liệu email (hay chính là MTA), cùng lúc ấy
MTA hoạt đôïng như một đại diện của máy tính. User Agent sẽ che chắn cho người
sử dụng khỏi phải tương tác với “một mớ” các hệ thống email khác nhau. Cũng
tương tự MTA sẽ che chắn hệ thống email không phải tương tác với những cơ quan
đại diện của người sử dụng (user agent) hay các MTA khác. Điềy này giúp cho hệ
thống email trở nên thân thiện dễ gần hơn với người sử dụng - và đó cũng chính là
mục đích chính của các chương trình mail khác nhau.
* User Agent (UA) :
Đây là chương trình giao tiếp giữa hệ thống mail X.400 với người sử dụng. Người
sử dụng chỉ giao tiếp với hệ thống X.400 thông qua các User agent.
Các User agent cho phép người sử dụng soạn thảo, tạo ra nội dung các mail, cung
cấp địa chỉ người nhận và sau đó giao các mail cho Message Transfer Agent
(MTA) để gửi mail đi.
Các User agent được hiện thực khác nhau trên các môi trường khác nhau như DOS,
Windows, Macintosh hay Unix. Đây chính là các chương trình Mail Client. Một hệ
thống mail X.400 có thể có các chương trình Client chạy trên các môi trường khác
nhau như trên.
* Message Transfer Agent (MTA):
Các MTA là các trạm xử lý mail giữa các User Agent. Mail sau khi được soạn ở


User Agent, nó được gửi xuống MTA và di chuyển từ MTA này đến MTA khác cho
đến khi đến đích và được User Agent của người nhận khôi phục lại. Có thể xem
MTA như là một bưu cục.
MTA hoạt động theo mô hình Client/Server, MTA gửi là Client MTA trong khi
MTA nhận là Server MTA tức là chương trình MTA có thể hoạt động ở một trong
hai chế độ : Client hay Server.
Message Store (MS) :
Các Message Store là nơi các Message sau khi được tạo ra ở USER AGENT ,có thể
được lưu trữ ở đó chờ MTA đến lấy và gởi đi. Đó cũng là nơi các Message sau khi
được các MTA nhận về lưu trữ ở đó chờ cho đến khi người sử dụng xem Message
này dùng một user agent.
Với sự tham gia của MS, mô hình 1988 X.400 MHS được gọi là mô hình Store-and-
Forward. Lúc này các user agent có thể gửi (submit) các Message cho các MS hay
trực tiếp gửi đến các MTA.
Một công dụng của MS là khi chương trình user agent của người nhận không hoạt
động vào thời điểm Message đến máy đó. Lúc này Message sẽ được lưu trữ trong
MS.
Message Transfer System (MTS) : Là một bộ tập hợp các MTA
Message Handling System (MHS) : Là một bộ các user agent và MTA làm việc
cộng tác nhau để truyền nhận thông điệp.
Message Handling Environment (MHE) : Bao gồm tất cả các bộ phận của MHS,
người sử dụng và môi trường truyền nhận thông điệp.
C. Mô hình Client / Server :
Một trong những nguyên tắc sử dụng mạng là cho phép chia xẻ các tài nguyên. Việc
chia xẻ này thường được thi hành bởi 2 chương trình riêng biệt, mỗi chương trình
chạy trên các máy tính khác nhau. Một chương trình được gọi là Server, cung cấp
tài nguyên, chương trình kia được gọi là Client, để sử dụng tài nguyên đó. Các
chương trình Server và Client thường là chạy trên các máy khác nhau. Môt chương
trình Server có thể cùng đáp ứng cho nhiều chương trình Client trên nhiều máy tính
khác nhau cùng một lúc.

Thông thường chương trình Server chạy trên một máy tính nào đó trong mạng, có
khả năng cung cấp một dịch vụ nào đó. Chương trình Client là chương trình giao
tiếp với người sử dụng, khi nhận yêu cầu của người sử dụng, chương trình Client sẽ
gởi các yêu cầu đến chương trình Server và chờ kết quả trả về, chương trình Server
khi nhận được yêu cầu, sẽ thi hành dịch vụ tương ứng và trả kết quả về cho chương
trình Client.
Sự liên hệ giữa chương trình Client và Server chỉ thông qua những dạng thức thông
điệp được qui định khi lập trình còn việc xử lý lại Server và hiển thị tại Client là độc
lập nhau. Do đó chương trình Client và Server có thể thay đổi thường xuyên mà vẫn
hoạt động tốt miễn sao vẫn tuân theo các giao thức truyển thông giữa chúng.
D. Giao thức TCP / IP :
Dữ liệu trong mạng được truyền và nhận thông qua các giao thức được qui định
trước. Một giao thức là một tập hợp những qui tắc cho việc truyền nhận dữ liệu giữa
các thiết bị máy tính với nhau.
TCP/ IP là tên chung cho một tập hợp hơn 100 giao thức được sử dụng để kết nối
các máy tính vào mạng, để tổ chức các máy tính và các thiết bị viễn thông trên một
mạng. Tên TCP/IP là chữ viết tắt của 2 giao thức quan trọng nhất trong nhóm là
TCP (Transmission Control Protocol) và IP (Internet Protocol)
Mạng dùng giao thức TCP/IP dữ liệu được chia thành những gói nhỏ gọi là những
packet. Khi ta gởi đi một thông điệp, TCP sẽ chia thông điệp này thành các packet,
mỗi packet được đánh dấu bởi một số thứ tự và địa chỉ của người nhận, thêm vào đó
là một số thông tin kiểm soát lỗi. Các packet này được gởi lên mạng và công việc
của IP là truyền tải chúng tới host từ xa kia. Tại nơi nhận, TCP nhận các packet và
kiểm tra lỗi, gởi trả lại nếu gói không đúng, với những gói dúng, TCP sử dụng số
thứ tự để tạo lại thông điệp ban đầu. Tóm lại công việc của IP là chuyển dữ liệu thô
- các packet từ nơi này đến nơi khác. Công việc của TCP là quản lý dòng chảy và
đảm bảo rằng dữ liệu là đúng.
TCP/IP có những đặc điểm sau :
- Độc lập với cách nối mạng
- Độc lập với phần cứng của mạng

- Các nghi thức theo tiêu chuẩn của hệ mở
- Cách đánh địa chỉ phổ dụng (Universal Addressing)
- Cung cấp một số dịch vụ mạng được sử dụng rộng rãi như Email, FTP, Telnet…
- Là cơ sở để xây dựng các ứng dụng theo mô hình Client / Server

CẤU TRÚC CỦA MỘT BỨC MAIL
***
Về cơ bản, một bức mail bao gồm 3 phần chính: Phần phong bì: Mô tả thông tin về
người gởi và ngưòi nhận. Do hệ thống tạo ra. Phần tiêu đề (header): chứa đựng các
thông tin về người gởi, người nhận, chủ đề bức mail, địa chỉ hồi âm .v.v Các thông
tin này một số được người sử dụng cung cấp khi gởi mail, một số khác được chương
trình mail thên vào, và số còn lại do hệ thống điền thêm. Phần nội dung (body):
chứa đựng nội dung của bức mail, là nội dung được tạo ra bởi trình soạn thảo Editor
của chương trình mail. Sau đây là chi tiết của từng phần:
A. Phần phong bì (Envelope)
Phần này do các MTA tạo ra và sử dụng, nó chứa các thông tin để chuyển nhận
email như địa chỉ của nơi nhận, địa chỉ của nơi gửi. Hay nói cách khác, nghi thức
SMTP sẽ quy định thông tin của phong bì, thông tin này được hệ thống email đòi
hỏi để chuyển dữ liệu từ một máy tính này sang một máy tính khác.
B. Phần tiêu đề (header)
Phần này cung cấp những thông tin tổng quát về email như người nhận, người gửi,
ngày giờ nhận Cấu tạo gồm nhiều trường (field) cấu trúc mỗi trường là một dòng
văn bản ASCII chuẩn 7 bit như sau: <tên trường >: <nội dung của trường> Sau đây
là một số trường thông dụng và ý nghĩa của nó :
Date: Chỉ ngày giờ nhận mail.
From: Chỉ người gửi.
To: Chỉ người nhận.
Cc: Chỉ người nhận được phiên bản copy của mail.
Return-path: Chứa các thông tin để người nhận có thể phúc đáp thư trở lại (thường
cũng là địa chỉ người gửi).

Subject: Chủ đề của nội dung email.
Các trường trên là các trường chuẩn do giao thức SMTP quy định, ngoài ra trong
phần header cũng có thể có thêm một số trường khác do chương trình email tạo ra
nhằm quản lý các email mà chúng tạo. Các trường này được bắt đầu bằng ký tự X-
và thông tin theo sau là cũng giống như ta thấy trên một trường chuẩn. Ví dụ trong
chương trình của một hệ thống mail ngoài các trường chuẩn do nghi thức SMTP
quy định còn có thêm trường X-WinMail-Editor, trường này giúp cho chương trình
nhận ra những bức mail nào là do người sử dụng tạo (nếu đúng thì cung cấp thông
tin về việc nén nội dung bức mail) ra và những bức mail nào là do một chương trình
email khác tạo ra.
C. Phần nội dung (body)
Để phân biệt phần tiêu đề và phần nội dung của bức mail, người ta qui ước đặt ranh
giới là một dòng trắng (chuỗi ký tự "\r\n"). Kết thúc của phần nội dung là chuỗi ký
tự kết thúc mail: "\r\n.\r\n". Như vậy nội dung bức mail nằm trong khoảng giữa
dòng trắng đầu tiên và ký tt thúc mail và trong phần nội dung của bức mail không
được phép tồn tại chuỗi ký tự kết thúc mail. Mặt khác do môi trường truyền thông là
mạng Internet nên các ký tự cấu thành thân bức mail cũng phải là các ký tự ASCII
chuẩn.
TÓM TẮT NHỮNG CHỨC NĂNG THÔNG DỤNG CỦA INTERNET MAIL
***
Công cụ Chức năng
New message Tạo một bức thư mới
Reply to Author Trả lời thư cho tác giả (người đã gởi thư cho mình
Reply to All Trả lời thư cho tác giả và tất cả những người có địa chỉ được ghi trong
mục Cc cuả bức thư
Forward Chuyển thư đi (sẽ hiện ra một bảng để ta điền địa chỉ nơi đến và các
thông tin phụ)
Send and Receice Gởi thư (nếu như có thư trong folder Outbox) hoặc tải các thư
mới từ server về
Delete Xóa thư

Address Book Sổ điện thoại. Đây là nơi chứa địa chỉ và các thông tin cụ thể
của những người sở hữu những địa chỉ đó
Mark as Read Đánh dấu những bức thư để cho ta biết là thư đã được đọc
Mark as Unread Đánh dấu những bức thư để cho ta biết là thư chưa được đọc
File Attachment Gửi thư có đính kèm theo một file nào khác (văn bản, hình ảnh,
trang web…)
Inbox Assistant Tạo ra các nguyên tắc để nhận thư và chuyển thư đến những
thư mục đã được định trước
Singature Tạo một chữ ký
Priority Tạo độ ưu tiên cho từng bức thư sẽ được gửi đi
CHƯƠNG IV TÌM HIỂU VỀ CÁC HỆ THỐNG MAIL TRÊN HỆ ĐIỀU HÀNH
LINUX
Một hệ thống mail trên hệ điều hành Linux thường bao gồm hai thành phần:
Mail User Agent (MUA) chính là giao diện của phần mềm mail được sử dụng để
soạn thảo và đọc mail.
Mail Transfer Agent (MTA) Thành phần chuyển vận mail cơ bản: được dùng để gửi
và nhận mail. Có hai MTA phổ biến được dùng trên hệu điều hành Linux và hàng
tá MUA đã có sẵn trên đó. Có nhiều phiên bản của các hệ thống mail đã có sẵn trên
Linux, mỗi phiên bản đều có sự khác nhau về vấn đề thực thi không đáng kể lắm.
Hệ thống e-mail thông thường cho Linux là Smail và Smail cũng có rất nhiều phiên
bản đã có sẵn trên Linux.
Bởi vì cả Smail và Sendmail đều được cung cấp sẵn trên hầu hết các đĩa CD-ROM
cài đặt hệ điều hành Linux cho nên người sử dụng có thể lựa chọn để có một hệ
thống thích hợp.
Với mỗi cách cài đặt riêng, cả hai hệ thống đều làm việc tốt. Nhưng trong một số
trường hợp Smail dễ dàng cấu hình và sử dụng hơn Sendmail ở một mức độ không
đáng kể, nguyên nhân chính là vì nó có phần cài đặt sẵn cho nhiều modem hơn. Để
sử dụng cho một hệ thống lớn và với các yêu cầu cấu hình đặc biệt, Sendmail thì
linh hoạt hơn và cung nhiều nhiều chức năng hơn.
Cả Smail và Sendmail đều yêu cầu phải thiết lập các thông số cho phù hợp thông

qua các file cấu hình, mặc dù quá trình cấu hình là khác nhau cho mỗi sản phẩm.
Đối với các yêu cầu email cơ bản, chẳng hạn như kết nối đến một mail server hoặc
một máy khác trong mạng, quá trình thiết lập thì hoàn toàn đơn giản và dễ dàng
thực hiện.
Khi soạn thảo một message sử dụng một MUA thông qua một giao diện chương
trình (chẳng hạn như Elm, Pine hoặc mail) trên hệ thống Linux, trình ứng dụng sẽ
gửi message đến MTA (chẳng hạn như Sendmail hoặc Smail). Ngay lập tức, các
MUA sẽ chuyển message đến một bộ phận phân phát gọi là rmail mà nó thường đặt
bí danh đến MTA cụ thể đang sử dụng. Có thể có nhiều MTA đang cùng chạy một
lúc (chẳng hạn như một cho email LAN và một cho UUCP phát), mặc dù hầu hết
các hệ thống đều chỉ sử dụng một cái thích hợp nhất.

Nếu message được gửi cho một người nào đó trên mạng LAN (hoặc đến một máy
tương tự khác), MTA có thể tìm ra các thông tin từ địa chỉ. MTA phải có thể hiểu
các bí danh thật tốt đối với các trường hợp người sử dụng gọi đến một máy khác,
một mạng hoặc những người sử dụng bằng các tên khác nhau. Nếu message dành
cho một người sử dụng từ một hệ thống xa, MTA phải có khả năng thiết lập kết nối
đến một máy khác thông qua một router (bộ dẫn đường) đến địa chỉ đích và chuyển
message đi (kết nối đó có thể là giao thức TCP hoặc UUCP). Nếu thành công, một
giao thức chuyển vận gọi là SMTP được sử dụng. Một MTA phải có khả năng xử lý
các vấn đềâ về chuyển phát mail, chẳng hạn như máy đích không sẵn sàng để sử
dụng hoặc user không tồn tại. Trong trường hợp đó, mail được trả về người gửi kèm
theo một thông báo lỗi.
Một hệ thống email phải có khả năng sử dụng các địa chỉ của người gửi và người
nhận theo nhiều định dạng khác nhau. Thông thường thì sử dụng địa chỉ định dạng
kiểu chấm than của UUCP, ví dụ như: merlin!brutus!tpci!com!tpaker (có nghĩa là
chuyển mail cho merlin, sau đó là brutus, và sau đó là tpci.com đến người sử dụng
tparker) hoặc tên miền, chẳng hạn như Kiểu UUCP thì chỉ ra
đường dẫn đầy đủ đến máy đích còn tên miền sử dụng địa chỉ quyết định hệ thống
sẽ làm việc mà không cần đường dẫn. Các kiểu địa chỉ khác cũng được sử dụng,

chẳng hạn như DECnet với địa chỉ kiểu % nhưng UUCP và các tên miền thì được
sử dụng trên hầu hết các hệ thống.
Bộ dẫn đường (Router) để đưa message mail đến đích cũng là một khía cạnh quan
trọng của phần mềm MTA và các phần mềm mail khác phụ thuộc vào UUCP (trong
trường hợp đường dẫn đầy đủ được chỉ định) hoặc tên miền (trong trường hợp
router được đưa ra) địa chỉ sử dụng. Đối với cách đánh địa chỉ dựa trên giao thức
TCP (thường sử dụng các tên miền), chức năng mặc định cho một MTA là phát
message đến máy đích dựa vào địa chỉ IP và không cần đến router, đưa đến phần
mềm IP trong các điều khiển TCP/IP.
Để đơn giản việc chuyển phát mail trong các mạng lớn hoặc các hệ thống, nơi mà
một máy đơn lẻ được đóng vai trò như bộ mặt của Internet, một mạng cục bộ có thể
đưa ra một bảng ghi MX (Mail Exchange) mà nó được hiểu bởi hệ thống tên miền
(DNS) và một chỉ thị (hoặc lệnh) đến router đối với tất cả các mail của tên miền đó
đến một máy đơn. Bản ghi MX cho phép các máy không kết nối đến Internet tất cả
thời gian để có mail nhận được từ một máy chủ, với UUCP hay là TCP, sau đó
thỉnh thoảng mới kết nối một lần. Ví dụ sau đây là kiểu của một bảng ghi MX:
merlin.tpci.com IN MX 3 bigserver.tpci.com
Dòng trên nói về một hệ thống tên miền mà một mail bất kỳ của merlin.tpci.com có
thể gửi đến hệ thống bigserver.com. Cổng vào INTERNET nhận biết kiểu bảng ghi
tài nguyên có liên quan (rất quan trọng đối với TCP/IP) và MX cho thấy là bảng ghi
này là một bảng ghi MX. Số 3 trong ví dụ trên là một con số ưu tiên. Trong mạng
có thể có nhiều mail server, mỗi cái đều có một con số ưu tiên. Các số mức thấp
được sử dụng bởi phần mềm chuyển vận trước và chỉ chuyển lến các số mức cao
hơn khi các số mức thấp hơn không được máy trả lời tín hiệu.
Cấu trúc một thư điện tử trên Linux:
Để hiểu cách một hệ thống mail hoạt động như thế nào, cần phải biết cấu trúc một
message mail thì phải như thế nào?
Một message mail chứa một đoạn văn bản (gọi là phần body) và một phần của
thông tin ở chỗ bắt đầu một message chứa các thông tin về người gửi, nơi nó được
tạo ra… được gọi là phần header. Thông thường phần header và body của message

được cách bằng một dòng trống. Có nhiều message cũng chứa một phần dữ liệu tại
đoạn cuối của message gọi là tái bút.Tái bút là một bít dữ liệu ASCII được viết bởi
người gửi và được bao gồm trong bất một message bất kỳ khác. Nó thương đưa ra
các thông tin về người gửi và có thể chứa đứng các lời nói ngắn gọn.
Một header bao gồm 2 phần: Phần đầu tiên chứa các thông tin về người gửi người
nhận và các địa chỉ của họ. Phần này thường được gọi là phần phong bì. Phần thứ
hai chứa các thông tin để điều khiển message mail, chứa phần tiêu đề message và
chuyển vận sử dụng để gửi message, dach sách các người nhận kèm khác, ngày giờ

Mỗi header của một message mail chúa một số các dòng cách bở các ký tự dòng
mới. Mỗi dòng gồm một tên trường theo sau bởi một dấu : và nội dung của trường
đó. Sau đây là một ví dụ của một header:
From brutus!bignet.com Thu Sep 21 17:40:32 1995
Received: from bignet.com by tpci.tpci.com id aa00184; 21 Sep 95 17:39 EDT
Received: from mailserv.biggernet.com ([147.77.1.1]) by bignet.com with
SMTP id <250079-4>; Thu, 21 Sep 1995 20:48:04 -0400
Received: by biggernet.com (4.1/SMI-4.1)
id AA00266; Thu, 21 Sep 95 17:39:03 PDT
Date: Thu, 21 Sep 1995 20:39:03 -0400
From: Yvonne <>
Message-Id: <9509220039.AA00266@>
To:
Subject: Important stuff
Cc:
Có hai trường From: Một chỉ ra máy đã chuyển mail đến hệ thống của người sử
dụng và một là địa chỉ email của người gửi. Trường này có thể có nhiều kiểu định
dạng khác nhau, bao gồm cả địa chỉ kiểu UUCP và các định dạng kiểu tên miền đầy
đủ.
Mỗi máy mà message gửi thông qua dòng địa chỉ đến trường Received chỉ ra nơi
mà message đã nhận từ đâu và nơi mà nó được nhận. Thông tin này cho phép người

sử dụng lần theo message tìm đến nơi xuất phát của nó.
Trường Date hiển thị ngày tháng mà message được gửi.
Trường Message-ID liệt kê một số nhận biết duy nhất cho message.
Trường To hiển thị tên người nhận.
Người gửi cung cấp thông tin trong trường Subject để một tả về message.
Trường CC: Chỉ người nhận được phiên bản copy của mail
Phụ thuộc vào hệ thống mà ban sử dụng, có khi phần header còn bao gồm cả các
trường sau:
Trường Repley – To: Chứa các thông tin để người nhận có thể phúc đáp thư trở lại
(thường cũng là địa chỉ người gửi)
Trường Oganization cung cấp tên công ty mà máy của công ty đó đang sử dụng.
Trường tùy chọn này thường để trống hoặc thiết lập riêng biệt cho các máy của các
tập đoàn lớn.
I. CÀI ĐẶT VÀ CẤU HÌNH CHO SENDMAIL
Hệ thống Sendmail được cấu hình chủ yếu thông qua một file nàm ở /etc/senmail.cf
(mặc dù một vài hệ thống đặt nó ở /usr/lib/sendmail.cf hoặc ở nơi khác). Ngôn ngữ
sử dụng trong file cấu hình senmail.cf thì hoàn toàn khác so với các file cấu hình
khác và rất phức tạp.
File Sendmail.cf điều khiển các chức năng mặc định của hệ thống gửi mail. Có
nhiều file khác cũng có liên qua trong quá trình cấu hình, đó là:
Decnetxtable: có nhiệm vụ đổi địa chỉ thông thường sang địa chỉ DEC.
Genericfrom: Có nhiệm vụ đổi địa chỉ bên trong sang địa chỉ thông thường.
Mailtertable: Định nghĩa các xử lý đặc biệt cho các máy chủ từ xa và các tên miền.
Pathtable: Định nghĩa các đường dẫn UUCP đến các máy từ xa và các tên miền.
Uucprelays: Cho phép gián tiếp đến các máy chủ từ xa.
Xaliases: Đổi địa chỉ thông thường thành địa chỉ bên trong.
Sendmail + hệ thống IDA sử dụng một bộ tiền xử lý chẳng hạn như m4 hoặc dbm
để tạo ra các file cấu hình sau khi người sử dụng chỉ định các giá trị cho các thông
số. Sau khi sử dụng bộ tiền xử lý, hệ thống sử dụng một bộ tạo file để tạo ra các file
cấu hình cuối cùng.

1. File sendmail.cf
Khi sử dụng Sendmail + IDA, file sendmail.cf không được thiết lập các giá trị phù
hợp với hệ thống và công việc của người sử dụng. Thay vì quá trình cấu hình xử lý
các thay đổi sinh ra, một quá trình cấu hình bình thường được điều khiển bởi một
file gọi là sendmail.m4, nó cung cấp các thông tin cơ bản về tên hệ thống, đường
dẫn sử dụng trên hệ thống của người sử dụng và mailer mặc định đang sử dụng.
Mặc dù việc thay đổi file sendmail.m4 có thể mất nhiều thời gian nhưng nó cần
thiết đối với các thông tin cơ bản cho việc cài đặt Linux sử dụng uucp và SMTOP
cho việc chuyển vận mail.
Phần quan trọng nhất trong file sendmail.m4 là phần khai báo các thư mục. Phần
này thường bắt đầu với một dòng khai báo LIBDIR:
dnl #define(LIBDIR, /usr/local/lib/mail)
Thư mục LIBDIR là nơi Sendmail + hệ thống IDA tìm kiếm các file định dạng và
các bảng router, thông thường dòng này được bỏ qua nhưng đường dẫn mặc định thì
nằm ở vị trí thông thường cho tất cả hệ thống Linux mail. Nếu đường dẫn hiển thị
trong Sendmail là chính xác, không cần điều chỉ lại file này. Đường dẫn này thường
ghi mã trực tiếp vào trong bộ nhị phân Sendmail và không cần thiết để ghi đè lên
bởi file sendmail.m4 (hoặc sendmail.cf). Nếu cần phải thay đổi đường dẫn này,
phải gỡ bỏ giá trị dnl ở dòng bắt đầu, thêm vào đường dẫn đúng và sau đó lưu lại
trong file sendmail.cf
Mailer cục bộ được sử dụng bởi Sendmail được khai báo tại một dòng có giá trị
LOCAL_MAILER_DEF
define(LOCAL_MAILER_DEF, mailers.linux)dnl
Dòng này là cần thiết bởi vì Sendmail không điều khiển các mail gửi đi. Một
chương trình khác sẽ đảm nhận việc này thay cho Sendmail. Mặc dịnh, giá trị dùng
cho mailer cục bộ được chứa trong một file gọi là mailers.linux. File này được
chuyển đến mục nhập LOCAL_MAILER_DEF trong file sendmail.m4, điều này có
nghĩa là người sử dụng cần phải kiểm tra file mailer.linux trong thư mục con tương
tự (thường là /usr/local/lib/mailer.linux) để chắc chắn chương trình chuyển (hoặc
một chương trình bất kỳ đã sử dụng) đã được nhập các thuộc tính.

Nội dung một file mailer.linux sẽ bao gồm như sau:
# mailers.linux
Mlocal, P=/usr/bin/deliver, F=SlsmFDMP, S=10,R=25/10, A=deliver $u
Mprog, P=/bin/sh, F=lsDFMeuP, S=10, A=sh -c $u
Một agent phát thư đi cũng được chỉ định trong file sendmail.mc, file này được
dùng để xây dựng file sendmail.cf. Nếu agent phát không chuyển thư đi, phải kiểm
tra file sendmail.mc để chắc rằng agent chuyển mail đã được thiết lập các thuộc
tính. Sendmail.mc là một file quan trọng và nó phải được đọc khi sendmail.m4 được
xử lý. Thường có một dòng khai báo trong file sendmail.m4 để chắc rằng việc này
phải xảy ra. Dòng này thường nằm ở phần đầu file sendmail.m4
include(Sendmail.mc)dnl
Người sử dụng cần phải chỉ định một vài mục nhập trong biến PSEUDOMAINS.
Biến này được dùng để điều khiển hệ thống mà nó không thể mở rộng vào trong các
tên miền một cách chính xác, thông thường là hệ thống UUCP. Các mục nhập trong
trường PSEUDOMAINS chỉ ra rằng Sendmail + IDA không sử dụng DNS cho
những mạng đó. Biến PSEUDOMAINS được khai báo như sau:
define(PSEUDODOMAINS, BITNET UUCP)dnl
Có thể sử dụng biến PSEUDONYMS để làm ẩn tên máy của người sử dụng. Ví dụ,
một mail nhận trên mạng khác sẽ chỉ thấy địa chỉ tpci.com mà không quan tâm đến
việc dù là được gửi từ merlin.tpci.com hay chatton.tpci.com. Khi sử dụng biến
PSEUDONYMS, Sendmail chấp nhận mail từ tất cả các máy được khai báo trong
trường PSEUDONYMS. Trường PSEUDONYMS được hiển thị như sau:
define(PSEUDONYMS, tpci.com)dnl
Mục vào nhày cho phép một máy tính bất kỳ của mạng tpci.com gửi mail thông qua
Sendmail.
Để định nghĩa tên máy, sử dụng biến DEFAULT_HOST. Biến này thường được
gán giá trị tên mail server của người sử dụng. Người sử dụng có thể khai báo như
sau để thiết lập tên mail server mặc định:
define(DEFAULT_HOST, merlin.tpci.com)dnl
Nếu không gán một tên đúng cho biến DEFAULT_HOST sẽ không có mail được

trả về chính xác đến hệ thống đang sử dụng.
Nếu hệ thống không phải là một cổng nối mail lên Internet (hoặc các mạng khác
được truy cập từ mạng LAN) người sử dụng có thể thiết lập cho hệ thống Linux
cho phép gửi mail lên một máy khác để xử lý bằng cách thiết lập các biến
RELAY_HOST và RELAY_MAILER trong file sendmail.m4. Các biến này sẽ đặt
tên của mail server mà tất cả các mail sẽ được chuyển đến. Ví dụ: Để thiết lập cho
hệ thống cục bộ dẫn hướng tất cả các mail bên ngoài đến một máy tên là wizard,
phải khai báo 2 dòng như sau:
define(RELAY_HOST, wizard)dnl
define(RELAY_MAILER, UUCP=A)dnl
Dòng thứ hai chỉ định mailer sử dụng để gửi message đến máy RELAY_HOST.
2. Điều chỉnh UUCP:
Nếu phải đang làm việc với một hệ thống mail trên nền tảng UUCP, người sử dụng
phải điều chỉnh một vài mục nhập trong file sendmail.m4. Sự điều chỉnh này là cần
thiết bởi vì một hệ thống mail UUCP thường đánh địa chỉ khác so với các hệ thống
trên nền tảng DNS. Các khai báo của UUCP trong file sendmail.m4 như sau:
define(UUCPNAME, tpci)dnl
define(UUCPNODES, |uuname|sort|uniq)dnl
define(BANGIMPLIESUUCP)dnl
define(BANGONLYUUCP)dnl
Dòng đầu tiên khai báo UUCPNAME dùng để chỉ định tên của hệ thống cục bộ
trong giới hạn UUCP. Tên này có thể khác hơn tên sử dụng trong DNS, mặc dù
thông thường thì các tên đó trông cũng không khác nhau mấy.
Biến UUCPNODES khai báo lệnh sử dụng để cung cấp một danh sách tên các host
mà hệ thống kết nối tới thông qua UUCP.
Biến BANGIMPLIESUUCP để cho Sendmail biết là bất kỳ một địa chỉ nào chứa
dấu ! đều là địa chỉ kiểu UUCP. Biến BANGONLYUUCP thì làm điều ngược lại.
Cả 2 biến này thường được khai báo bởi vì một vài hệ thống DNS sử dụng phương
pháp đánh địa chỉ kiểu dấu chấm than.
3. Cấu hình các bảng định vị

Có nhiều dòng trong file sendmail.m4 dùng để khai báo các bảng cấu hình. Các
bảng cấu hình này nằm dưới thư mục khai báo bởi biến LIBDIR. Phần này gồm các
dòng sau:
define(ALIASES, LIBDIR/aliases)dnl
define(DOMAINTABLE, LIBDIR/domaintable)dnl
Có khoảng 7 file cấu được chỉ định trong toàn bộ. Người sử dụng có thể thay đổi
bất kỳ giá trị nào nếu muốn nhưng phải chắc chắn rằng việc di chuyển nó thị vị trí
được chỉ định. Để bảo đảm, tốt nhất nên gỡ bỏ các file khỏi các ví trí mặc định của
nó.
4. Cấu hình mailertable
Bảng mailertable khai báo các điều khiển đặc biệt cho cac host hoặc các tên miền.
Trong hầu hết các trường hợp, mailertable chỉ định các tên miền chắc chắn hoặc các
host được truy cập và các giao thức nào sử dụng cho các tên miền và các host đó.
Người sử dụng không phải điều chỉnh file này nếu hệ thống đang sử dụng UUCP
nhưng phải kiểm tra nội dung của nó nếu là đang sử dụng SMTP hoặc DNS.
File mailertable được dọc từ dòng đầu tiên xuống và Sendmail xử lý mail dựa trên
mỗi dòng trong file này. Trong mỗi trường hợp, nơi mà hầu hết các quy tắc chỉ định
nằm ở đầu file, theo sau bởi các quy tắc thông thường khác. Các quy tắc chỉ ra
phương thức của kết nối đầu tiên và sau đó liệt kê các hệ thống từ xa hoặc tên miền:
mailer delimiter relayname remote
Trong khai báo trên, mailer là giao thức chuyển vận được sử dụng, delimiter là ký
tự đặc biệt, relayname là tên của hệ thống chuyển mail đến và remote là host từ xa
hoặc tên miền.
Mailer có thể là các giá trị:
TCP-A: TCP với địa chỉ kiểu Internet.
TCP-U: TCP với địa chỉ kiểu UUCP.
UUCP-A: UUCP với địa chỉ kiểu Internet.
Delimiter có một ý nghĩa đặc biệt và phải là một trong cac ký tự sau:
! Gỡ bỏ tên host từ phần địa chỉ trước khi gửi đi.
, Không điều chỉnh địa chỉ cho tất cả.

: Gỡ bỏ tên host chỉ khi các host trung gian được chỉ định.
Có thể xây dựng các quy tắc mailertable một các dễ dàng khi chuyển mail đến một
mail server từ xa. Ví dụ, để bắt buộc Sendmail sử dụng UUCP thông qua một mail
server từ xa gọi là wizard kết nối đế một hệ thống từ xa roy.sailing.org, thêm một
quy tắc như sau vào file mailertable:
UUCP-A,wizard roy.sailing.org
5. File cấu hình uucprelays
File uucprelays dùng để bỏ qua đường dẫn UUCP đến một site từ xa khi một đường
dân tốt hơn đã tồn tại. Ví dụ, nếu người sử dụng thường sử dụng đường dẫn
wizard!bignet!merlin!tpci và có thể tạo ra một liên kết chỉ đường đến tpci, nên sử
dụng file uucprelays để đổi lại đường dẫn địa chỉ mail.
6. File cấu hình uucpxtalbe
File uucpxtalbe được sử dụng khi một địa chỉ kiểu UUCP được sử dụng trong việc
vận chuyển mail. File này cung cấp các chỉ dẫn cho công việc chuyển một địa chỉ
kiểu DNS sang UUCP. Nếu người sử dụng đang sử dụng một mail server khác hơn
mail server hiện tại hoặc muốn sử dụng UUCP để kết nối đến một máy cụ thể vì độ
tin cây, file này thực sự cần thiết.
File này chứa các mục vào liệt kê tên kiểu UUCP theo sau bởi tên miền:
Chatton chatton.com
Mục vào này chỉ ra rằng Sendmail mà một mail chatton.com bất kỳ nào đó đều
phảøi được cập nhập qua UUCP đến chatton ( đánh địa chỉ kiểu UUCP). Mục vào
này bắt buộc các địa chỉ mail đến phải được viết lại giống như
chatton!yvone, một địa chỉ mà UUCP có thể sử dụng.
7. Xây dựng file sendmail.cf từ file sendmail.m4
Bây giờ, đã cấu hình xong file sendmail.m4 và các file có liên qua của nó, có thể sử
dụng bộ xử lý m4 để tạo ra file sendmail.cf. Một khi file sendmail.m4 đã sẵn sàng
để làm việc, bắt nguồn từ dòng lệnh:
Make sendmail.cf
Một khi file đã được tạo, chép nó sang thư mục /etc và khởi động Sendmail với
dòng lệnh:

/usr/lib/sendmail –bd –q1h
hoặc khởi động lại máy tính.
II. SỬ DỤNG SENDMAIL PHIÊN BẢN 8.0
Trên đĩa CD-ROM Linux luôn kèm theo chương trình Sendmail 8.0 và có thể sẵn
sàng cài đặt để sử dụng. Có một thay đổi nhỏ so với các phiên bản trước là
Sendmail 8.0 gồm có 4 phần khác nhau để chọn lựa.
- uucp-old: (cũng giống như uucp) : Sử dụng phiên bản này nếu cần khả năng tương
thích với các hệ thống UUCP kiểu cũ.
- uucp-new: (phiên bản mới nhất gần đây là suucp) cũng giống như Sendmail chỉ trừ
việc nó có thêm lệnh rmail để gửi đến nhiều người nhận đồng thời. Phiên bản này
không có cải tiến gì mấy so với uucp-old.
- uucp-dom: Cho phép sử dụng các địa chỉ kiểu tên miền. Phiên bản này không có
khả năng tương thích với một số hệ thống khác mà người sử dụng kết nối đến.
- uucp-uudom: Là một sự kết hợp giữa uucp-new và uucp-dom cung cấp các nét đặc
trưng nhất của cả hai. Nó cho phép sử dụng địa chỉ kiểu UUCP và kiểu tên miền.
Thiết lập các thư mục cấu hình cho Sendmail
Các file cấu hình Sendmail ngày càng trở nên nhỏ hơn để làm cho công việc của
người quản trị được dễ dàng hơn. Hệ thống Sendmail có các thư mục chứa các file
cần thiết cho công việc cấu hình, đó là:
- cf: Thư mục này cung cấp cho người sử dụng các thông tin về các host được sử
dụng bởi Sendmail.
- hack: Thư mục này là một danh sách của các hack được sử dụng bởi các macro
m4 để cung cấp các chỉ định mở rộng. Các thông tin mà thư mục này hỗ trợ được
cung cấp một cách hợp lý trong các file cấu hình chính.
- m4: Thư mục này cung cấp các file chứa các thông tin thích hợp cho tất cả các
file cấu hình.
- mailer: Thư mục này chứa các file định nghĩa các mailer được sử dụng bởi m4.
Các file này thường cung cấp các thông tin cho mạng cục bộ, UUCP, USENET,
phần mềm FAX …
- site config: Thư mục này chứa các thông tin về site cục bộ. Một số các site rất

quan trọng để cài đặt Sendmail và xử lý cấu hình.
III. SỬ DỤNG SMAIL
Hệ thống Smail cũng giống như hệ thống Sendmail trong hầu hết các chức năng,
mặc dù quá trình cấu hình cấu hình thì khác. Trong nhiều trường hợp, Smail dễ
dàng làm việc hơn Sendmail và nó có thể là một lựa chọn tốt cho các hệ thống nhỏ
và vừa.
Smail điều khiển việc chuyển nhận mail như thế nào?
Hệ thống Smail được quản lý bởi một daemon, được khởi tạo khi hệ thống chạy ở
chế độ nhiều người sử dụng đồng thời. Sau đó Smail chờ cho đến khi có kết nối
(thường là TCP hoặc UUCP) và sẽ xử lý tất cả các mail vừa mới được nhận. Bởi vì
Smail chạy như một daemon, điều này cho phép nó xử lý và phân phát nhanh các
mail mới nhập mà không cần khởi động một chương trình mail.
Hệ thống Smail điều khiển các mail gửi đi bằng cách sử dụng các kết nối đến
mailer của người sử dụng. Ví dụ: Nếu message được gửi từ một mailer agent chẳng
hạn như ELM hoặc mail, các chương trình dùng để gửi mail và các tên người nhận
đến rmail, một chương trình chuyển phát mail. Có một vài mailer agent gửi mail
đến chương trình Sendmail thay vì rmail. Như vậy, cả các mail nhận được và các
mail gửi đi được điều khiển bằng các liên kết giữa Smail, rmail và Sendmail.
Chương trình xử lý của Smail được chia thành 3 phần riêng biệt, bao gồm: Bộ dẫn
đường (router), Bộ chuyển hướng (director) và chuyển vận (transport).
- Bộ dẫn đường điều khiển quá trình xử lý các địa chỉ và cách mà message được gửi
đi giữa các máy
- Bộ chuyển hướng điều khiển quá trình gửi chuyển tiếp giữa các máy và giải quyết
các bí danh được sử dụng trong message.
- Bộ chuyển vận điều khiển các chuyển vận hiện tại của message.
Hầu hết các hệ thống Linux đều có chương trình Smail nằm trong thư mục
/usr/local/bin mặc dù cũng có khi chúng nằm ở thư mục khác vì thế cần phải biết
chính xác đường dẫn đến thư mục Smail để cấu hình hệ thống một cách đúng đắn.
Có thể định vị đường dẫn của nó với dòng lệnh:
Find /-name Smail –print

1. Cài đặt Smail
Hệ thống Smail đòi hỏi nhiều liên kết để Smail có thể thi hành đúng. Có 2 liên kết
quan trọng hầu hết là đều đưa đến file /usr/sbin/rmail và /usr/lib/sendmail. Các liên
kết này thực sự cần thiết bởi vì hầu hết những chương trình gửi mail của người sử
dụng đều gửi mail đến hoặc là rmail hoặc là Sendmail (phụ thuộc vào chương trình
mail đang sử dụng) và các mail này còn được gửi thêm một lần nữa đến Smail. Các
liên kết cho phép quá trình chuyển hướng này xảy ra trong suốt đối với người sử
dụng và các ứng dụng mail.
Phải kiểm tra các file rmail và Sendmail có được liên kết đến Smail hay chưa, nếu
chưa có thì phải thiết lập các liên kết. Các liên kết có sẵn thường chỉ được thiết lập
tượng trưng và được hiển thị trong thư mục liệt kê các mục nhập như sau:
lrwxrwxrwx 1 root root 6 Sep 16:35 file1 -> file2
Ký tự -> chỉ ra một biểu tượng liên kết tồn tại. Hãy kiểm tra trên cả rmail và
Sendmail , nếu các biểu tượng liên kết chưa có, tạo ra chúng bằng dòng lệnh:
ln -s /usr/local/bin/smail /usr/bin/rmail
ln -s /usr/local/bin/smail /usr/lib/sendmail
Các đường dẫn cần phải được thay đổi cho phù hợp với đường dẫn của Smail,
Sendmail và rmail trên máy. Một khi các liên kết đã được tạo, kiểm tra sự tồn tại
của chúng bằng cách hiển thị các thư mục và tìm các ký hiệu biểu tượng liên kết.
Nếu Smail đã được cài đặt vào hoặc sau đó gỡ bỏ khỏi hệ thông qua một kênh
SMTP thì cũng cần phải thiết lập một liên kết giữa chương trình Smail và hệ thống
SMTP bằng dòng lệnh:
ln -s /usr/local/bin/smail /usr/sbin/smtpd
Tiếp theo, dịch vụ SMTP phải được cho phép thông qua các file cấu hình TCP. Một
file /etc/service phải được thiết lập để cho phép các kết nối SMTP thông qua dòng
lệnh:
smtp 25/tcp # Simple Mail Transfer Protocol
Phải kiểm tra nội dung của dòng này để không xảy ra tình trạng kết nối ra ngoài.
Dòng lệnh này cho phép liên kết SMTP được thiết lập giống như một cổng TCP số
25.

Nếu lựa chọn cài đặt mặc định Smail như một daemon (tự động khởi tạo khi khởi
động hệ thống), phải chắc chắn rằng Smail daemon đã được khởi tạo trong file rc
(chẳng hạn như rc.inet2). Câu lệnh thường dùng đối với Smail daemon :
/usr/local/bin/smail -bd -q15m
Mục chọn –bd trả vệ quá trình hoạt động daemon của Smail và –q15m bắt buộc
Smail xử lý các message cứ sau 15 phút. Nếu muốn thiết lập cho quá trình phân
phát mail xảy ra thường xuyên hơn nữa hay thay đổi giá trị này.
Nếu phải lựa chọn cài đặt Smail không chạy ở chế độ giống như một daemon và
muốn nó xuất hiện bằng cách inetd mỗi khi có mail đến, điều này phải được chỉ ra
trong file rc. Bởi vì không thể vừa chạy Smail trong cả hai chế độcùng một lúc.
Tiếp đó, điều chỉnh các mục nhập trong file /etc/inetd.conf giống như sau:
smtp stream tcp nowait root /usr/sbin/smtpd smtpd
Biểu tượng liên kết giữa SMTPD và chương trình Smail phải được chỉ ra trong
dòng lệnh này để phù hợp với chức năng hoạt động.
Sự thay đổi các thiết lập trong các file cấu hình là cần thiết cho Smail, nó phụ thuộc
vào hệ thống kết nối nào đang được sử dụng đối với mail hiện tại. Ở những nơi khác
việc cấu hình còn thay đổi nếu đang sử dụng hệ thống UUCP hoặc một kết nối TCP
trên mạng. Có thể chọn cả hai giải pháp nếu cho phép mail được phân phát thông
qua cả hai giao thức.
2. Cấu hình Smail cho UUCP
Việc cấu hình hệ thống Smail để sử dụng với các message mail UUCP gửi đến và
gửi đi rất đơn giản. Chỉ cần phải điều chỉnh file cấu hình mặc định nằm ở
/usr/lib/smail/config bằng một chương trình soạn thảo ASCII bất kỳ bằng cách thay
đổi giá trị của 4 biến sau:
Visible_domain : Các tên miền site của người sử dụng có liên quan.
Visible_name: Tên miền đầy đủ của site.
UUCP_name: Tên UUCP cơ sở của site.

×