Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Huy động toàn diện và đúng đắn kịp thời các nguồn lực trong sự nghiệp xây dựng đất nước - 2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.34 KB, 19 trang )

tế xã hội. Thu nhập bình quân đầu người được đánh giá vào nhóm các nước nghéo
nhất thế giới.
So sánh một số chỉ tiêu kinh tế xã hội giữa Việt Nam và các nước ASEAN năm
1993.
Chỉ tiêu Việt Nam Indonêxia Malaixia Philipin Xingapo
Thái Lan
GDP bình quân đầu người USD - Phương pháp Atlas 170 730 3.160 830
19.310 2.040
GDP bình quân đầu người USD - Phương pháp PPP 1.040 3.140 8.630 2.660
20.470 6.390
Chỉ số HDI 0,514 0,568 0.794 0.621 0.836 0.798
Vị trí HDI trong 176 nước 116 105 57 99 43 54
HDI - chỉ số phát triển con người.
Trước đây, việc thực hiện chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp khiến cho sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và
nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh, đời sống một bộ phận nhân dân,
nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, đồng bào dân tộc, còn
quá khó khăn vất vả. Chất lượng giáo dục đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất thấp. Người
nghèo không đủ tiền để chữa bệnh và cho con em đi học. Trong khi đó nguồn tài
chính từ ngân sách và các nguồn lực khác có thể huy động được cho yêu cầu phúc
lợi x• hội vừa hạn chế vừa chưa được sử dụng có hiệu quả. Tình trạng ùn tắc giao
thông, ô nhiễm môi trường sinh thái, huỷ hoại tài nguyên ngày càng tăng. Văn hoá
phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức
tạp.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, để ổn định kinh tế trong nước và
hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mở, một nền kinh tế nhiều thành
phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN không chỉ biểu
hiện ở tốc độ tăng trưởng cao, mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân
cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giữa giàu nghèo
được thu hẹp, đạo đức, truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc được giữ vững, môi


trường được bảo vệ.
III. Thực trạng và Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam.
1. Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN ở Việt Nam.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến
của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm là để bán, để trao đổi trên thị trường.
Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN
ở Việt Nam là:
Phát triển nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ kinh tế kém phát triển,
mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường.
Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan
tương ứng với tính chất và trình độ sản xuất. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là:
Kinh tế Nhà nước; Kinh tế hợp tác; Kinh tế cá thể; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế
tư bản nhà nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp
ứng nhu cầu xã hôị vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định
hướng XHCN. Do đó, việc “Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi
đôi với việc tăng cường quản lý của nhà nước về kinh tế xã hội. Để hạn chế và khắc
phục những hậu quả của mặt trái của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đúng hướng và phát huy
bản chất tốt đẹp của CNXH Nhà nước phải thực hiẹen tốt vai trò quản lý kinh tế - xã
hội bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các
công cụ khác.
Nhận thức tính chất nhiều thành phần của kinh tế là một tất yếu khách quan, từ đó
có thái độ đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên
tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp đi lên CNXH ở nước ta.
Sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng có nghĩa là còn có các
quy luật kinh tế khác nhau hoạt động. Sự vận động và phát triển của các thành phần

kinh tế trong giai đoạn này chịu sự chi phối trực tiếp của các quy luật thị trường.
Thông qua hoạt động của các quy luật thị trường mà nó đào thải những mặt, yếu tố
bất hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất.
2. Phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế
truyền thống của nền kinh tế khép kín, kém phát triển, bảo thủ, trì trệ. Đặc biệt đến
giai đoạn tư bản chủ nghĩa sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường
dân tộc hoạt động gắn bó với thị trường thế giới.
Việc mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài là tất yếu vì sản xuát và trao đổi hàng
hoá tất yếu vượt qua phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế, đồng thời đó cũng là
tất yếu sự phát triển nhu cầu. Biệt lập trong sự phát triển kinh tế dẫn đến đói nghèo.
Do đó mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với
nước ta như là một tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật của thế
giới cho phép đáp ứng nhu cầu cả về sản xuất lần tiêu dùng. Thông qua mở rộng
quan hệ kinh tế với nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên
trong. Điều đó tạo điều kiện cho quá trình phát triển rút gắn ở nước ta.
Mở rộng quan hệ kinh tế với nước bằng nhiều hình thức như tăng cường hoạt động
ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết đề thu hút vốn đầu tư cho nước ta. Gia
nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những, những
mặt hàng mũi nhọn có tương lai, gắn với công nghệ mới, tiến tới có khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới., nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào
nhịp điệu của nền kinh tế thế giới.
Việc “mở cửa” về kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,
đảm bảo chủ quyền và cũng có lợi.
3. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò
quản lý của Nhà nước.
Mặc dù có rất nhiều ưu điểm nhưng nền KTTT không thể nào giải quyết được
những vấn đề do chính cơ chế và đời sống kinh tế xã hội đặt ra. Vì vậy, sự tác động
của Nhà nước - một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách
quan - vào nền kinh tế là một tất yếu cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Thiên sử

“can thiệp” của Nhà nước vào kinh tế, để cho thị trường tự do hoạt động, thì việc
điều kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả.
Nhà nước sử dụng luật pháp và các công cụ kinh tế vĩ mô khác để quản lý kinh tế
hàng hoá, làm cho nền kinh tế “lành mạnh” hơn, giảm bớt các thăng trầm, đột biến
xấu trên con đường của nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo
vệ được tài nguyên môi trường của đất nước.
Sự vận dung của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước ở nước ta là sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị
trường - “bàn tay vô hình”, và sự quản lý của nhà nước - “bàn tay hữu hình”.
4. Thực trạng kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay.
Nước ta đang từng bước quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với các đặc
điểm sau:
Một là, kinh tế thị trường bao gồm nhiều loại hình đan xen nhau: nhiều thành phần
kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị trường.
Mỗi kiểu hàng hoá, tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét đặc thù về bản
chất kinh tế - xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là các bộ phận khác nhau
của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Bởi vậy chúng ta vừa hợp tác, vừa cạnh tranh
nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Nhân tố kinh tế và quan hệ
kinh tế trong mỗi kiểu sản xuất hàng hoá của mỗi thành phần kinh tế đều xuất hiện
cái mới. Trong đó, sản xuất hàng hoá XHCN giữ vai trò chủ đạo, định hướng với
các kiểu sản xuất hàng hoá khác. Nhận thức được tính chất nhiều thành phần kinh tế
là một tất yếu khách quan từ đó có thái độ đúng đắn trong khuyến khích sự phát
triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho việc đi lên
XHCN ở nước ta.
Hai là, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát
triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, kinh tế thị
trường ở nước ta vẫn còn ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng và chủng
loại hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông thị trường và kim ngạch

xuất khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chất lượng thấp, quy mô
và dung lượng thị trường hẹp, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hoá
trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn yếu, đội ngũ các nhà quản lý
doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp Trình độ phát
triển thấp của hàng hoá bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính
chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động xã hội kém phát
triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn
chiếm tỷ trọng lớn, từ sự kìm hãm của nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp một thời gian quá lâu dài, từ sự nhận thức giản đơn về CNXH.
Ba là, nền kinh tế phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường thế giới và khu
vực. Cách mạng khoa học - kỹ thuật công nghệ càng phát triển càng làm cho lực
lượng sản xuất phát triển trình độ xã hội hoá cao, dẫn đến quá trình khu vực hoá,
quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển kinh tế thị trường
không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước mà còn phải tính đến quan hệ
quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền kinh tế thị trường của mỗi
quốc gia muốn phát triển không thể không gắn với thị trường thế giới. Bất cứ một
quốc gia nào, cho dù là nước phát triển nhất cũng không thể sản xuất tất cả các loại
hàng hoá. Vì vậy mỗi nước phải tùy theo lợi thế của mình lựa chọn mặt hàng xuất
khẩu có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất hàng hoá của
nước ta sẽ phát triển nếu biết cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng những
tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới để khai thác những tiềm năng của nền kinh
tế. Muốn vậy, con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế mở: hướng mạnh về
xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả.
Bốn là, nền kinh tế thị trường phát triển định hướng XHCN thông qua bản chất và
vai trò của nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá thông qua cơ chế thị
trường không thể nào giải quyết được những vấn đề như: lạm phát, thất nghiệp,
khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng
như các hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức
độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự
phát triển bình thường của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói

riêng.
Phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với nền kinh tế mở là tất yếu, nhưng trong quá
trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, thì cũng có nguy cơ du
nhập những yếu tố văn hoá xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn giữ
được nền kinh tế thị trường mang bản sắc văn hoá Việt Nam phải thực hiện có hiệu
quả sự quản lý vĩ mô của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận
lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả của đồng tiền, không chấp nhận thương
mại hoá mọi hoạt động của đời sống xã hội kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn
minh nhân loại với giữ gìn những yếu tố tinh tuý của văn hoá dân tộc, xây dựng
những yếu tố văn hoá XHCN.
ở nước ta, khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới từ 70% sức lao động và 80% dân
số - nơi khai sinh của sự nghiệp đổi mới bằng “khoán 10” “chỉ thị 100”, từ chỗ thiếu
đói đã vươn lên đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo.
Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực phát triển mạnh thứ hai, cho đến nay chúng ta
có khoảng 22.000 doanh nghiệp tư nhân, gấp hai lần số doanh nghiệp nhà nước khi
bắt đầu đi vào công cuộc đổi mới và gấp 3 lần số doanh nghiệp nhà nước có đến
hiện nay. Trong đó có những doanh nghiệp sử dụng 10.000 công nhân. Khu vực
ngoài quốc doanh (bao gồm không nhiều bộ phận của kinh tế hợp tác) chiếm trên
dưới 2/3 tổng sản phẩm trong nước.
Bình quân tăng trưởng 5 năm (1990 - 1995) là 8,2% một năm. (Năm 1995, tăng
trưởng bình quân hoàn toàn thế giới 3,5% trong đó cao nhất là vùng Đông á - Thái
Bình Dương: 8,1%; Mỹ 3%; Nga 1,6% Các nước ASEAN vẫn tiếp tục giữ mức độ
tăng trưởng khá: Xingapo 8,9%; Philipin 5%; Thái Lan 8,9%
Trước đây , chính sách hợp tác hoá ở Liên Xô (cũ) khi thực hiện có phạm sai lầm
nóng vội, ở nước ta do hoàn cảnh lịch sử nhất định, phong trào hợp tác hoá cũng đa
có tác dụng ở miền Bắc trong những năm chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nhưng
tiếc rằng chúng ta không duy trì được, cho đến năm 1990 các nhà soạn thảo chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 không còn biết tỷ trọng bộ phận kinh
tế hợp tác là bao nhiêu.
Nhận thấy rõ những khiếm khuyết của nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao

cấp, tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, qua thực hiện 5 năm đổi mới Đảng ta
khẳng định “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Sự tác động của Nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã
hội. Thiếu sự “cạn thiệp” của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường tự do hoạt động,
thì sự điều hành kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả, cũng giống như ta muốn vỗ
tay mà chỉ dùng một “bàn tay”.
Nhà nước sử dụng luật pháp vào các công cụ vĩ mô khác để quản lý kinh tế làm cho
nền kinh tê “lành mạnh” hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con
đường phát triển của nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ
được tài nguyên môi trường của đất nước.
Như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước là sự vận hành được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường
- bàn tay vô hình “và sự quản lý của Nhà nước - bàn tay hữu hình”.
5. Những giải pháp cụ thể.
5.1. Trước hết cần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá các chế độ sở hữu, tạo điều kiện
pháp triển mạnh nền kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là sự tách biệt về
kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau, về tư liệu sản xuất quy định. Vì vậy, để phát
triển kinh tế thị trường phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Đối
với nước ta quá trình đa dạng hoá được thể hiện bằng việc phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần như các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
VII, VIII đã chỉ ra.
Đó là phát triển kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ,
kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước.
Thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. Khu
vực kinh tế Nhà nước cần phải sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý,
kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai
trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đối với
những cơ sở không cần giữ hình thức kinh tế Nhà nước cần chuyển sang hình thức

sở hữu khác hoặc giải thể, đồng thời giải quyết việc làm và đời sống cho người lao
động.
* Đối với kinh tế hợp tác, cần phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về bài học hợp
tác xã kiểu cũ và xây dựng mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã kiểu mới đang
được phát triển hiện nay, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động có hiệu quả
thiết thực, phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề, với quy mô hợp tác
hoá khác nhau để huy động nguồn lực vào phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị
trường ở nước ta.
Đối với loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công, người buôn
bán nhỏ. Một mặt, thông qua cơ chế, chinh sách và hướng dẫn phát triển của Nhà
nước khuyến khích sự phát triển của thành phần kinh tế này. Mặt khác cần tăng
cường công tác quản lý để xây dựng nề nếp sản xuất kinh doanh theo quy định của
pháp luật.
Đối với thành phần tư bản tư nhân. Cần có chính sách khuyến khích thành phần
kinh tế này để các nhà tư bản yên tâm và mạnh dạn đầu tư vào nền kinh tế, đặc biệt
trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng suất khẩu.
Đối với thành phần kinh tế Nhà nước. Nhà nước cần phải có chính sách khuyến
khích thành phần kinh tế này phát triển kể cả với tư bản Nhà nước trong nước và tư
bản nhà nước nước ngoài. Vận dụng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước là
phương thức để chúng ta huy động sức mạnh dân tộc của các thành phần kinh tế
khác.
Muốn vậy ta phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, vai trò điều tiết, quản
lý của Nhà nước pháp quyền XHCN và nhân tố quyết định vận động thành công
KTTBCN ở Việt Nam. Cần xây dựng hệ thống pháp luật rõ ràng, nhất quán, phù
hợp với tập quán quốc tế, đủ sức hẫp dẫn nhưng công bằng nghiêm minh. Đa dạng
hoá các hình thức TBNN trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Thực tế nước ta hiện nay ở vùng nông thôn và đặc biệt là vùng núi còn tồn tại khá
nặng nền sản xuất tính chất của nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc. Vì vậy, cần có
chính sách thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hoá ở các vùng này,
đặc biệt phải chú ý tới việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh lưu thông hàng

hoá với các vùng phát triển trong nước.
5.2. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta.
Phân công lao động xã hội là điều kiện của sản xuất hàng hoá, của phát triển KTTT.
Vì vậy, quá trình phát triển KTTT ở nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công lại
lao động xã hội. Muối khai thác mọi nguồn lực cần phải phát triển nhiều ngành
nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người
lao động. Phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hoá sản
xuất, hợp tác hoá, lao động công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, lao
động nông nghiệp giảm tuyệt đối giữa lao động và tài nguyên, bảo vệ và phát triển
môi trường sinh thái. Cùng với mở rộng phân công lao dộng trong nước tiếp tục mở
rộng phân công và hợp tác lao động quốc tế.
5.3.Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường.
Đây là biểu hiện và tiền đề quan trọng nhất để phát triển KTTT. Thị trường là sản
phẩm tất yếu của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sản xuất và lưu thông hàng hoá
phát triển thị trường càng mở rộng. Sản xuất, lưu thông hàng hoá quyết định thị
trường, song thị trường cũng tác động trở lại, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng
hoá. Để mở rộng thị trường và tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường cần tôn trọng
quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo sự cạnh tranh
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xây dựng thị trường thống nhất và thông
suốt cả nước; phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ, trên cơ sở tìm hiểu
nhu cầu mà tăng quy mô, chủng loại, nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của
hàng tiêu dùng để thoả mãn nhu cầu trong nước và mở rộng kim ngạch xuất khẩu.
Ngoài ra phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để tăng năng suất
lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện giảm giá cả hàng hoá, tăng thu nhập,
tăng sức mua, làm cho dung lượng thị trường nhất là thị trường nông thôn tăng lên.
Hình thành và phát triển thị trường sức lao động, vốn, tiền tệ, chứng khoán. Để các
thị trường này phát triển cần triệt đẻ xoá bỏ bao cấp, thực hiện nguyên tắc tự do hoá
giá cả, tiền tệ hoá tiền lương, mở rộng cao loại thị trường, thực hiện giao lưu hàng
hoá thông suốt cả nước, lành mạnh hoá thị trường, khắc phục tình trạng kinh tế
ngầm, kiểm soát và xử lý nghiêm minh các vi phạm thị trường.

5.4. Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ, nhằm phát triển nền kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh
nếu thường xuyên tổ chức lại sản xuất, đổi mới thiết bịi, công nghệ nhằm tăng năng
suất lao động, hạ thấp chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy,
phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cách mạng
khoa học - công nghệ vào sản xuất và lưu thông, đảm bảo cho hàng hoá đủ sức cạnh
tranh trên thị trường tiếnhành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo điều kiện cho
kinh tế thị trường phát triển.
5.5. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Để nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, nhất thiết phải coi trọng vai trò -
quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Trong xu thế hộp nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, cần phải tiếp tục đổi mới
các công cụ, chính sách vĩ mô, đặc biệt là hệ thống tài chính tín dụng lưu thông tiền
tệ, chính sách phân phối thu nhập và kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Việc
đổi mới này vừa phải theo quy tắc phù hợp với những phương thức quản lý của nền
kinh tế thị trường, đồng thời, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng
mà Đảng đã chọn.
5.6. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới chính sách
tài chính tiền tệ giá cả.
Đây là những nhân tố quan trọng để phát tiển KTTT, để các nhà sản xuất kinh
doanh trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Nhà nước cần hạn chế can thiệp trực
tiếp vào sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, mà tập trung làm tốt các chức
năng tạo môi trường, hướng dẫn, hỗ trợ những yếu tố cần thiết để doanh nghiệp
phát triển. Nhà nước cần tăng cường kiểm soát việc sử dụng mọi nguồn lực nhằm
bảo toàn và phát triển những tài sản quốc gia. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền KTTT nhiều thành phần.
Nó tạo hành lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, các doanh nghiệp chỉ
có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ pháp luật.

5.7. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh giỏi.
Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng
trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Con người lao giờ cũng là lực lượng
sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người vừa là kết quả, vừa là đièu kiện để sản
xuất phát triển. Mỗi cơ chế quản lý có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh tương
ứng. Chúng ta cần đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh
tế, kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Cần
sử dụng bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao nghiệp vụ,
bản hình quản kinh doanh của họ. Cơ cấu đỗi ngũ cán bộ cần chú trọng đảm bảo cán
bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh cả ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô.
5.8. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường.
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, mọi quốc giá muốn thúc đẩy KTTT phát
triển phải hoà nhập kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới (mở rộng thị trường
ngoài nước , mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài).
Muốn vậy phải đa dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác, phải quán triệt nguên
tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và phân
không biệt chế độ chính trị - xã hội phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất
nước trong quan hệ kinh tế nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên
nhiên của đất nước, tăng suất khẩu để nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ
hiện đại, kinh nghiệm quản lý.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải
pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay. Việc đó
không nhằm ngoài mục tiêu giải phóng sức sản xuất, động viên tới mức cao nhất
mọi nguồn lực bên trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, trên cơ sở đó mà nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế xã hội
nhằm mục tiêu tối thượng là cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Thực hiện mục tiêu đó chính
là giữ vững định hướng XHCN trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nước nhà.
IV. Kết luận và ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Chúng ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc đổi mới, đặc biệt là đổi mới về kinh

tế, nhưng cũng thấy mặt trái của nhiệm vụ này. Việc chuyển nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết để giải
phóng và phát huy các tiềm năng sản xuất trong xã hội. Nhưng sẽ sai lầm nếu cho
rằng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích sản xuất
phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi cho việc nảy sinh và phát
triển nhiều loại tiêu cực xã hội. Đã xuất hiện khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ
giá nào, kể cả lừa đảo, gây tội ác vi phạm pháp luật sẵn sàng chà đạp lên lương tâm
và nhân phẩm, lối sống trụy lạc, chạy theo những thị hiếu thấp hèn, văn hoá không
lành mạnh và những hủ tục mê tín, dị đoan đang phục hồi và phát triển.
Trong thế hệ trẻ có một bộ phận phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng.
Một bộ phận không ít cán bộ, đảng viên có chức có quyền, trong đó có cả những
người đã từng đóng góp đáng kể cho cách mạng, cũng bị sa ngã và thoái hoá, biến
chất
Tóm lại, phát triển kinh tế hàng nhiều thành phần trong nền kinh tế thị trường mở
không phải không có những hạn chế và tiêu cực nhưng những thành tựu đạt được
đặc biệt là động lực phát triển được tạo ra là không thể phủ nhận. Hơn nữa việc phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta không phải là tự phát và sao chép cứng nhắc mà là
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Có thể nói đây không phải là
mô hình có sẵn trong lịch sử mà đây là một sự khám phá mới, được xem như sự đột
phá về mặt lý luận vốn đang cần được bổ sung trong thời kỳ quá độ hiện nay.
Trong bối cảnh đó việc tăng cường nghiên cứu, tìm tòi những căn cứ khoa học và
thực tiễn làm cơ sở cho việc xác định những thành phần kinh tế và do đó là việc
hoàn thiện chính sách kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là việc làm có ý nghĩa cả
về lý luận và thực tiễn hiện nay.
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
ở nước ta là thiếu hụt trong nhân tố con người. Nhân tố con người càng quan trọng
bao nhiêu thì sự yếu kém trong nhân tố con người càng gây hậu quả tiêu cực bấy
nhiêu. Vì vậy phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người là
mục tiêu và người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người là mục tiêu và

động lực của phát triển. Cần phải coi con người là vốn tức là coi như một thứ tài
nguyên, nhưng là một thứ tài nguyên đặc biệt, một vốn quý nhất của đất nước. Điều
đặc biệt quan trọng ở đây là phải đưa khái niệm nguồn lực con người thành một
khái niệm công cụ cơ bản để điều thành sự phát triển kinh tế xã hội, xem như sự
phát triển con người là chỉ số quan trọng để xác minh trình độ phát triển của một đất
nước.
Như vậy, vấn đề con người là vấn đề trung tâm, được quán xuyến và xuyên suốt và
trong toàn bộ nội dung và chiến lược phát triển kinh tế xã hội do đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII đã đề ra.
Từ những điều đã nói ở trên, rút ra kết luận rằng: Việc Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN hoàn toàn không phải là
một kiểu “bắt cá hai tay” hay là “một sự lựa chọn theo hệ tư tưởng do Đảng áp đặt
lên toàn xã hội” như có người bài bác. Trái lại, đó là một chủ trương đúng đắn, một
sự lựa chọn có khoa học được rút ra từ toàn bộ quá trình phát triển kinh tế hàng hoá,
kinh tế thị trường trên thế giới từ trước đến nay.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là chủ trương chiến lược lâu dài trong
thời kỳ quá độ góp phần phát huy quyền làm chủ, khơi dậy tiềm năng và sức sáng
tạo của dân, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá, tạo ra sự
cạnh tranh sống động trên thị trường.
Với chủ trương đó, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường - một thành quả của nền văn
minh nhân loại - làm phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo điều kiện cải
thiện đời sống nhân dân. Nhưng chúng ta quyết không theo mô hình kinh tế thị
trường tự do tư bản chủ nghĩa, không để cho cơ chế thị trường tự điều tiết nền kinh
tế theo quy luật của thế giới hang dã “cá lớn nuốt cá bé”, dẫn đến chỗ “loại trừ xã
hội đối với một bộ phận ngày càng lớn nhân dân lao động”, như chính như nhiều
nhà khoa học có đầu óc khách quan ở các nước tư bản đã chỉ ra.
Trong hoàn cảnh cụ thể nước ta hiện nay, chúng ta coi trọng vai trò quản lý và điều
tiết vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế thị trường để đảm bảo định hướng XHCN
của chiến lược phát triển và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn

minh.
Để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay thì phải phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là một tất yếu khách
quan. Để thực hiện tốt ta phải không ngừng phát huy nhân tố con người đồng thời
áp dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học kỹ thuật để công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nước.
Chắc chắn còn nhiều khó khăn và thử thách trên con đường đi tới mục tiêu trên.
Song những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn
10 năm qua cho chúng ta cơ sở để tin rằng mục tiêu đó nhất định sẽ thực hiện được.
Tài liệu tham khảo
1/ Giáo trình KTCT tập I +II xuất bản 1999
2/ Nghị quyết VIII
3/ Nghiên cứu - Trao đổi số 9 - (5/98)
4/ Thương mại số 10 - 99
5/ Thương mại số 13 - 96
6/ Thương mại số 16 - 97
7/ Thương mại số 12 - 98
8/ Nghiên cứu kinh tế số 258 (11 - 99)
9/ Thông tin - Lý luận số 6 - 2000 (268)
10/ Phát triển kinh tế số 16 - 97
11/ Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương số 2 (27)
12/ Kinh tế & Phát triển số 12 - 96
13/ Phát triển kinh tế số 86 - 97
14/ Phát triển kinh tế số 99 - 98
15/ Phát triển kinh tế số 53 - 95

×