Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Vận dụng các lý luận vào hoàn cảnh mới nhằm đảm bào cân đối bền vững kinh tế xây dựng thành công CNXH - 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.04 KB, 34 trang )

Sự hình thành của lợi nhuận độc quyền đã dẫn tới sự hình thành tương ứng của giá cả
độc quyền, bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền.Thông thường thì các tổ
chức độc quyền,dựa trên sức mạnh độc quyền,để mà ép giá mua vào thấp hơn giá trị của
hàng hoá mua vào và nâng giá trị của hàng hoá bán ra lớn hơn giá trị của nó.
Nói tóm lại, trong mục này,chúng ta đã tiến hành nghiên cứu những lý luận của học
thuyết kinh tế Mác-Lênin và thông qua những lý luận đó, chúng ta đã phần nào thấy
được các biểu hiện khác nhau của lợi nhuận.Các hình thức này,hầu hết là được hình
thành nên do nhu cầu chuyên môn hoá, hợp tác hoá của giai cấp tư sản.Sự phân biệt lợi
nhuận thành các hình thức khác nhau cũng chính là sự chia nhỏ giá trị thặng dư thành
các phần lợi nhuận khác nhau ứng với các bộ phận tư bản khác nhau.Tuy nhiên,điều đó
không có nghĩa là phần giá trị thặng dư mà mỗi bộ phận có được sẽ ít đi mà trên thực tế,
nhờ sự phân công, hợp tác trong quá trình bóc lột giá trị thặng dư, giai cấp tư bản đã
ngày càng hoàn thiện các thủ đoạn bóc lột giá trị thặng dư làm cho toàn bộ khối lượng
giá trị thặng dư nói chung cũng như phần giá trị thặng dư mà mỗi bộ phận tư bản nhận
được không ngừng tăng lên.Chính vì vậy mà,với việc giải thích được sự hình thành và
tồn tại của các hình thái khác nhau của lợi nhuận,Mác đã thể hiện sự khoa học và tiến bộ
hơn so với các nhà lý luận trước Mác cũng như sau này.Hơn thế nữa, thông qua việc
vạch rõ bản chất bóc lột của các hình thái khác nhau của lợi nhuận,Mác đã vạch rõ bản
chất bóc lột của giai cấp tư bản cũng như của PTSX TBCN.
Như vậy là, ở phần I này, thông qua các học thuyết kinh tế mà đặc biệt là học thuyết
kinh tế của CN Mác -Lênin, chúng ta đã nghiên cứu và xem xét nguồn gốc và bản chất
của phạm trù lợi nhuận.Qua đó, ta đã thấy được rõ tính khoa học và tiến bộ hơn hẳn của
học thuyết kinh tế của CN Mác-Lênin đối với các lý luận về lợi nhuận nói riêng và mọi
vấn đề khác nói chung. Trên cơ sở hiểu rõ được nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận cũng
như các hình thái biểu hiện khác nhau của nó, sau đây, trong phần II, ta sẽ tiến hành phân
tích nhằm thấy được vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Phần II: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
Như trên đã nêu,trong phần II này, chúng ta sẽ tiến hành phân tích nhằm thấy được vai
trò mang tính động lực của lợi nhuận trong nền KTTT.
Để phân tích vai trò đông lực của lợi nhuận, trước hết cần phải thấy rằng:
Phạm trù lợi nhuận trong các học thuyết của các trường phái lý luận tư sản thường được


hiểu là phần lợi ích đem lại như một phần thưởng của sự thành công trong kinh doanh
hoặc là tiền lương của nhà kinh doanh . Còn phạm trù lợi nhuận trong học thuyết kinh tế
của Mác,với mục đích vạch rõ bản chất bóc lột của giá trị tư bản,đã chỉ ra rằng lợi nhuận
là phần giá trị thặng dư khi được đem so với toàn bộ tư bản ứng trước.Ta có thể thấy
rằng cả hai định nghĩa trên về lợi nhuận đều mang nặng tính giai cấp, nhằm mục tiêu
hoặc là bảo vệ giai cấp mình, như lý luận của truờng phái tư sản, hoặc là phản ánh bản
chất bóc lột của giai cấp đối kháng như lý luận của Chủ nghĩa Mác.Tuy nhiên ở đây ta
muốn nghiên cứu vai trò của lợi nhuận như là một động lực của mọi con người, không
phân biệt giai cấp, cũng như là động lực của toàn xã hội.Chính vì vậy mà ta sẽ không
phân tích vai trò của lợi nhuận trên cơ sở các lý luận về lợi nhuận mang tính giai cấp ở
trên mà ta sẽ phân tích vai trò của lợi nhuận trên cơ sở coi lợi nhuận là một hình thức đặc
biệt của lợi ích kinh tế, một thành phần quan trọng trong các lợi ích của con người.Trên
cơ sở các phân tích nhằm thấy được vai trò của lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế và từ đó
thấy được vai trò của lợi nhuận, ta sẽ đi ngược lại xem xét vai trò động lực của lợi
nhuận, cả trong lý thuyết và thực tiễn, ở hai khối nước Tư Bản Chủ Nghĩa và Xã Hội
Chủ Nghĩa, đại diện cho hai trường phái lý luận tư sản và trường phái lý luận Macxit,
nhằm thấy được những biểu hiện tiêu cực và tích cực cũng như vai trò cơ bản của động
lực lợi nhuận.
1/ Vai trò động lực của lợi nhuận - xét từ khía cạnh lợi ích:
Như vậy, trên cơ sở những phân tích trên, chúng ta sẽ nghiên cứu, phân tích nhằm
thấy được vai trò động lực của lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế để từ đó thấy được vai
trò động lực của lợi nhuận, không chỉ đối với từng cá nhân mà còn đối với toàn xã hội.
Trước hết, như chúng ta đều biết, động lực bên trong thúc đẩy toàn bộ hoạt động của
con người chính là nhu cầu.Nhu cầu đã tạo nên những “trạng thái căng thẳng” thôi thúc
con người hành động để thoả mãn các nhu cầu đó. Tuy nhiên, nhu cầu thúc đẩy con
người hoạt động không phải một cách trực tiếp mà nó được thể hiện dưới hình thức lợi
ích thúc đẩy con người hoạt động. Do vậy, trong những hoàn cảnh cụ thể, lợi ích với tư
cách là phương tiện thoả mãn nhu cầu của chủ thể, trước sự thôi thúc của các nhu cầu có
nguy cơ không thoả mãn được, đã trở thành động lực trực tiếp quyết định sự hoạt động
của chủ thể. Nói như vậy có nghĩa là,con người một mặt bị thúc ép bởi những nhu cầu

cấp bách chưa được thoả mãn, mặt khác họ đã nhận thức được rằng để đạt được sự thoả
mãn các nhu cầu đó thì phải làm gì và sẽ đạt được những lợi ích cụ thể nào.Vì vậy, lợi
ích đã trở thành một động lực trực tiếp thôi thúc chủ thể hoạt động, và với tư cách là
động lực thúc đẩy sự phát triển của con người, lợi ích bao hàm trong nó các lực thúc đẩy
của các nhu cầu của chủ thể.
Tuy nhiên, phạm trù lợi ích, tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà có thể chia ra làm nhiều
loại như lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp hoặc lợi ích kinh tế, lợi ích chính
trị, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần Nhưng trong tất cả các hình thức đa dạng đó thì lợi
ích kinh tế của từng cá nhân là có vai trò quyết định. Sở dĩ như vậy là vì:
Trước hết, cần phải thấy rằng con người hoạt động không phải là những con người trừu
tượng mà là những con người cụ thể, những người mà hoạt động luôn diễn ra trước hết
vì lợi ích của bản thân họ như Mác đã viết “ các cá nhân chỉ theo đuổi lợi ích của riêng
mình,lợi ích mà họ coi là không nhất trí với lợi ích chung của họ ” cho nên họ coi lợi
ích chung đó là một cái gì “xa lạ”, “không phụ thuộc” vào họ.Sở dĩ lợi ích cá nhân có vai
trò quan trọng hàng đầu là vì nó được cá nhân nhận biết trước hết và hơn nữa, nó đáp
ứng ngay những nhu cầu thiết thân của mỗi cá nhân đó.Chính vì vậy mà lợi ích cá nhân
luôn luôn là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất đối với mọi hoạt động của con người ;
tất cả các lợi ích khác đều thực hiện thông qua lợi ích cá nhân.
Tiếp đó, trong các lợi ích khác nhau của cá nhân như lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,
lợi ích văn hoá xã hội thì lợi ích kinh tế là sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối
với việc thoả mãn những nhu cầu vật chất cần thiết phản ánh đời sống của con người
dưới hình thức xác định mục đích hoạt động kinh tế của con người, được coi là động lực
cơ bản nhất thôi thúc con người thoả mãn những nhu cầu đó. Lợi ích kinh tế có vai trò
quan trọng như vậy là do nó đáp ứng trực tiếp những nhu cầu bức thiết mang tính sống
còn của con người, như Enghen đã viết “ giống như Đac Uyn đã tìm ra qui luật phát
triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: con
người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa
học, nghệ thuật, tôn giáo và được”.
Như vậy, theo sự phân tích ở trên, lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân có vai trò quyết định
đối với toàn bộ hoạt động của con người với tư cách là những cá nhân cụ thể. Và vì lợi

nhuận,nếu hiểu một cách đơn giản, thuần tuý là khoản lợi mà mỗi cá nhân có thể nhận
được do các hoạt động của mình đem lại, có thể coi như một hình thức đặc biệt của lợi
ích kinh tế cá nhân. Cho nên lợi ích kinh tế cá nhân nói chung và lợi nhuận nói riêng có
vai trò như một động lực của mọi hoạt động của con người và do đó là một động lực cơ
bản của sự phát triển của mỗi cá nhân.
Không chỉ có vai trò là động lực cho sự phát triển của mỗi cá nhân mà trên cơ sở là
động lực của mỗi cá nhân, lợi nhuận còn trở thành động lực cho sự phát triển của toàn bộ
xã hội. Để thấy được điều này, chúng ta sẽ quay trở lại tiếp tục phân tích phạm trù lợi ích
để chỉ ra sự chuyển biến của lợi ích cá nhân, mà trong đó quan trọng nhất là lợi ích kinh
tế cá nhân, từ vai trò là động lực của mỗi cá nhân tiến tới vai trò là động lực phản ánh sự
phát triển của toàn bộ xã hội.
Như đã phân tích ở trên, ta có lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát
triển của con người.Tuy nhiên,mỗi một con người cụ thể không thể tồn tại một cách độc
lập mà phải tồn tại trong một cộng đồng, một xã hội. Và mặc dù mỗi cá nhân được thúc
đẩy bởi các động lực lợi ích cụ thể khác nhưng nhìn chung,các cá nhân này đều phát
triển theo những xu hướng cụ thể nhất định.Mặt khác,mỗi một cộng đồng, một xã hội
không chỉ đơn thuần là một tập hợp những cá nhân được xếp cạnh nhau mà giữa những
cá nhân đó luôn có những mối quan hệ qua lại, luôn có sự gắn bó hữu cơ với nhau.Cho
nên,sự hình thành,tồn tại và phát triển của cá nhân này sẽ ảnh hưởng đến những cá nhân
khác và tới cả cộng đồng, xã hội. Nói cụ thể hơn, sự hoạt động theo đuổi những lợi ích
cá nhân riêng lẻ đã tạo nên sự vận động chung của một tập thể hay của cả một cộng đồng
xã hội theo những xu hướng vận động phát triển nào đó. Những xu hướng rất đa dạng,
khác nhau thậm chí trái ngược nhau này đã tạo ra những lực đẩy thúc đẩy xã hội theo
những hướng khác nhau và tổng hợp các lực đó sẽ tạo nên một “lực bình hành” thúc đẩy
xã hội phát triển theo một xu hướng chung. Đúng như F. Anghen đã viết “ con người
làm ra lịch sử của mình - vô luận là lịch sử này diễn ra như thế nào - bằng cách là mỗi
con người theo đuổi những mục đích riêng, mong muốn một cách có ý thức,và chính kết
quả chung của vô số những ý muốn tác động theo nhiều hướng khác nhau đó và của
những ảnh hưởng muôn vẻ của những ý muốn đó vào thế giới bên ngoài đã tạo ra lịch
sử ”.

Như vậy, từ chỗ là động lực quyết định sự hoạt động của từng cá nhân riêng lẻ, lợi ích
trở thành động lực thúc đẩy sự hoạt động của các nhóm,các tập đoàn và các cộng đồng
xã hội, tạo nên các xu hướng vận động chung của xã hội. Và từ chỗ là động lực thúc đẩy
các nhóm, các tập đoàn, các cộng đồng người hoạt động, lợi ích đã trở thành một trong
những động lực cơ bản quyết định sự vận động và phát triển chung của cả xã hội.
Tuy nhiên không phải bất kì lợi ích cá nhân nào cũng là động lực thúc đẩy lịch sự phát
triển theo hướng tiến bộ. Có những lợi ích mà khi con người hành động nhằm thoả mãn
những lợi ích đó thì sẽ gây tổn hại tới lợi ích của những cá nhân khác,tới lợi ích của cộng
đồng và xã hội.Chính vì vậy mà vai trò động lực của lợi ích cá nhân,đặc biệt là các lợi
ích kinh tế, còn thể hiện qua sự phù hợp giữa một lợi ích cá nhân nào đó với lợi ích
chung của cộng đồng, xã hội.
Lợi ích chung là lợi ích phản ánh và đáp ứng nhu cầu của một cộng đồng. Đối với
những lợi ích cá nhân có vai trò không chỉ là động lực cho sự phát triển của mỗi cá nhân
mà còn là động lực phát triển của toàn xã hội thì giữa chúng và những lợi ích chung của
xã hội có mối quan hệ biện chứng thể hiện qua:
Một mặt lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của lợi ích chung. Sở dĩ như vậy là vì không
có lợi ích riêng sẽ không có sự tồn tại của các cá nhân riêng lẻ, và do đó sẽ không có
cộng đồng và lợi ích chung của cộng đồng.Thêm vào đó, trong quá trình hoạt động nhằm
thoả mãn những lợi ích cá nhân của riêng mình, dù ý thức được hay không, các chủ thể
cũng sẽ tạo ra những điều kiện cho việc thực hiện các lợi ích riêng của các chủ thể khác
và đồng thời cùng tham gia đóng góp cho lợi ích chung của cộng đồng, xã hội mà người
đó là thành viên.Như C.Mác đã viết “ sức mạnh duy nhất ràng buộc họ với nhau là lòng
vị kỷ, là điều lợi riêng, là lợi ích tư nhân. Nhưng chính vì mỗi người chỉ lo cho mình và
không ai lo cho người khác,cho nên tất cả bọn họ,do một sự nhịp nhàng đãđịnh trước của
sự vật,hay do sự che chở của một thượng đế rất khôn khéo,đều chỉ là một công việc có
lợi cho cả hai bên, cho điều lợi chung,cho lợi ích chung ”
Mặt khác thì lợi ích chung được hình thành và tồn tại thông qua các hoạt động của
những con người cụ thể nhằm theo đuổi những lợi ích cá nhân của riêng họ. Đến lượt nó,
lợi ích chung lại tạo ra những điều kiện,phương tiện và môi trường thuận lợi cho những
cá nhân trong các hoạt động nhằm chiếm lĩnh lợi ích riêng. Hơn thế nữa, lợi ích chung

còn tạo ra sự thống nhất giữa các lợi ích riêng, các mục đích riêng và qua đó tạo ra sự
thống nhất trong hoạt động của các chủ thể khác nhau trong cộng đồng. Và do đó lợi ích
chung đóng vai trò định hướng cho lợi ích riêng.
Vậy nói tóm lại, qua các phân tích ở trên, ta đã chứng minh được vai trò của lợi nhuận
không chỉ mang ý nghĩa động lực đối với mỗi cá nhân trong một cộng đồng x• hội mà
còn là động lực cho toàn bộ xã hội. Tuy nhiên,không phải lúc nào lợi nhuận với tư cách
là một lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân cũng đóng vai trò là động lực cho sự phát triển của
toàn xã hội mà lợi nhuận cũng có thể trở thành nhân tố gây ra sự mâu thuẫn giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội,gây ra những xung đột và từ đó có thể trở thành nhân tố kìm
hãm sự phát triển của xã hội.
Sở dĩ như vậy là vì,đối với mỗi cá nhân thì lợi ích sẽ liên quan tới tính ích kỉ. Chính
tính ích kỉ này làm cho mỗi một cá nhân chỉ thấy được lợi ích của mình mà không thấy
được lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng thậm chí sẵn sàng đi ngược lại lợi
ích cộng đồng để thoả mãn lợi ích của riêng mình,như Mác đã viết “ bởi vì theo bản
tính của nó, lợi ích là mù quáng, không biết đến mức độ, phiến diện, tóm lại, là một bản
năng bẩm sinh vô pháp luật ”. Chính vì vậy,khi chúng ta quá đề cao, coi trọng lợi ích cá
nhân, đặc biệt là các lợi ích kinh tế mà biểu hiện trong thực tiễn là xu hướng chạy theo
lợi nhuận, thì không những không thúc đẩy phát triển mà còn đẩy xã hội vào tình trạng
rối loạn khủng hoảng.
Như vậy là,trong mục này, chúng ta đã dựa trên cơ sở phân tích, giải thích về vai trò
động lực của lợi ích để nhằm chứng minh vai trò động lực của lợi nhuận đối với sự phát
triển của từng cá nhân cũng như của toàn xã hội. Tuy nhiên, ở phần này, khái niệm lợi
nhuận mới chỉ được xem xét với ý nghĩa thuần tuý, được coi như một hình thức đặc biệt
của lợi ích kinh tế. Trong hai mục sau, chúng ta sẽ lần lượt xem xét những biểu hiện
mang tính động lực của lợi nhuận qua việc xem xét những học thuyết kinh tế của hai
trường phái lý luận TBCN và XHCN cũng như qua việc phân tích những biểu hiện thực
tiễn ở hai khối nước TBCN và XHCN tương ứng với hai trường phái lý luận trên.
2/ Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Tư bản Chủ nghĩa:
a/ Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội:
Như trên đã phân tích,lợi nhuận trước hết là một động lực cơ bản trong mọi hoạt động

của mỗi cá nhân,đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy mà ở các nước
TBCN, những nước vẫn luôn coi trọng và đề cao lợi ích cá nhân lên trên lợi ích cộng
đồng xã hội, thì vai trò động lực của lợi nhuận được thể hiện rất rõ nét. Đối với các nước
này thì lợi nhuận được coi là một động lực trực tiếp mạnh mẽ và cơ bản nhất thúc đẩy
nhà tư bản lao vào tiến hành sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến
các khu vực sản xuất hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn,bỏ các khu vực có ít
người tiêu dùng.Lợi nhuận đưa các nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất
có hiệu quả nhất.Vì vậy,hệ thống thị trường luôn phải dùng lãi và lỗ để quyết định ba
vấn đề của sản xuất như:cái gì,thế nào và cho ai?, như một nhà kinh tế đã nói “ lợi
nhuận là phần thưởng và hình phạt đối với nhà sản xuất kinh doanh,nó là kim chỉ nam
cho cơ chế thị trường :Cũng giống như người nông dân sử dụng củ cà rốt và cây gậy để
nhử con lừa đi tới,hệ thống thị trường lấy lợi nhuận và thua lỗ để hướng các nhà kinh
doanh vào sản xuất các hàng hoá một cách có hiệu quả ”. Đặc biệt trong thời đại Công
nghệ thông tin hiện nay thì lợi nhuận được coi như là phần thưởng cho sự đổi mới của
các doanh nghiệp.Một tiến bộ về công nghệ có thể đem lại những khoản thu nhập khổng
lồ cho người sáng tạo ra công nghệ cũng như người ứng dụng nó. Sự thành công trong
đổi mới công nghệ, trong việc ứng dụng thành công các công nghệ mới sẽ mang lại một
khoản lợi nhuận siêu ngạch tạm thời do độc quyền mang lại. Sở dĩ nó chỉ mang tính tạm
thời vì khoản lợi nhuận siêu ngạch dôi ra này sẽ thúc đẩy các đối thủ cạnh tranh của
doanh nghiệp tìm mọi cách ứng dụng công nghệ mới vào trong doanh nghiệp của mình.
Tuy nhiên khi khoản lợi nhuận siêu ngạch thu được nhờ một phát minh, sáng chế công
nghệ này bị giảm dần và mất đi thì lại xuất hiện những sáng chế phát minh mới và lại tạo
ra khoản lợi nhuận siêu ngạch mới. Cứ như vậy, khoản lợi nhuận siêu ngạch đó sẽ đóng
vai trò động lực không chỉ đối với cá nhân mỗi doanh nghiệp mà nó còn là động lực thúc
đẩy khoa học công nghệ phát triển, từ đó góp phần làm cho cả xã hội phát triển.
Như vậy,đối với các nước TBCN thì lợi nhuận không chỉ đóng vai trò thúc đẩy sự phát
triển của mỗi cá nhân mà nó còn góp phần tạo động lực cho sự phát triển của xã hội.
Điều này được thể hiện rõ nét trong lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith.Trong
lý luận của mình,Adam Smith coi lợi nhuận là động lực cho sự phát triển của xã hội.Ông
cho rằng, khi theo đuổi lợi ích của cá nhân mình mỗi người đều bị dẫn dắt bởi bàn tay vô

hình.Chính vì vậy mà kết quả cuối cùng đạt được của các hoạt động kinh tế là làm lợi
cho tất cả mọi người. Cụ thể là: “ mỗi cá nhân đều cố gắng sử dụng vốn liếng của mình
sao cho nó tạo ra giá trị lớn nhất. Nói chung, anh ta không chú ý tới việc khuyến khích
lợi ích cộng đồng và cũng không biết khuyến khích nó như thế nào. Anh ta chỉ chú ý tới
sự an toàn cá nhân, tới các thu hái cá nhân.Trong quá trình đó, anh ta đã bị “ bàn tay vô
hình” dẫn dắt tới một kết cục mà anh ta không định. Do việc theo đuổi lợi ích cá nhân,
anh ta thường xuyên khuyến khích nâng cao lợi ích cộng đồng một cách có hiệu quả hơn
là khi anh ta chủ động làm điều đó ".
Tuy nhiên,xét cho cùng thì cái mà các nhà tư bản gọi là lợi nhuận,về bản chất chính là
phần giá trị thặng dư được tạo ra do lao động không công của người công nhân .Và do
đó,sở dĩ lợi nhuận có vai trò mang tính động lực cho mỗi cá nhân và toàn bộ xã hội là do
việc tạo ra và chiếm đoạt giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản củaCNTB. Theo quy
luật đó thì việc theo đuổi giá trị thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục đích và động
cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản,cũng như của toàn bộ xã hội tư bản.Chính
vì vậy,việc mọi nhà tư bản tìm mọi cách có được lợi nhuận tối đa,thực chất,chính là việc
cố gắng sản xuất ra giá trị thặng dư một cách tối đa.Sau đây chúng ta sẽ xem xét hai
phương pháp sản xuất GTTD của CNTB để thấy được sự thèm khát giá trị thặng dư của
nhà tư bản nói riêng và của toàn bộ giai cấp tư bản nói chung.
Trước hết,trong giai đoạn đầu của CNTB khi khoa học kĩ thuật còn thấp và mới có
những bước tiến chậm chạp thì để tạo ra lượng giá trị thặng dư lớn nhất,nhà tư bản đã
tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động của công nhân và trên cơ sở đó kéo dài thời gian
lao động thặng dư .
Như ta đã biết ,ngày lao động của người công nhân được chia làm hai phần là thời gian
lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư.Thời gian laođộng cần thiết là khoảng
thời gian mà với nó người công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị
sức lao động của mình.Còn thời gian lao động thặng dư là khoảng thời gian người công
nhân tạo ra phần giá trị thặng dư.Giả định là ngày lao động có mười giờ chia đều cho
thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư.Như vậy là,ban đầu,thời gian
lao động cần thiết bằng thời gian lao động thặng dư và bằng năm giờ.Bây giờ giả sử nhà
tư bản dùng biện pháp nào đó kéo dài ngày lao động thêm hai giờ trong khi thời gian lao

động cần thiết là không đổi(do tiền lương trả cho người lao động đó là không đổi).Khi đó
với khoảng thời gian lao động cần thiết không đổi,thời gian lao động thặng dư sẽ tăng
lên là bảy giờ. Như vậy, nếu trước đây,tỷ suất giá trị thặng dư(m') đại diện cho trình độ
bóc lột của nhà tư bản là:
m' = 5/5 * 100% =100%
thì bây giờ với việc kéo dài ngày lao động, m' sẽ bằng:
m' = 7/5 *100% =140%.
Phần giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện thời
gian lao động cần thiết không đổi gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Để thấy rõ về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối,đặc biệt là cái cách nhà
tư bản dùng để kéo dài thời gian lao động,chúng ta sẽ xem xét quá trình sản xuất tại các
công xưởng nước Anh vào thời kì giữa thế kỉ 19.
Trước hết, theo “Luật công xưởng” năm 1850 thì người công nhân phải làm việc từ 10
đến 12 giờ trong một ngày đối với năm ngày đầu tuần (từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều),
trong đó, luật pháp cho phép người công nhân có nửa giờ ăn sáng và một giờ ăn trưa.
Còn đối với ngày thứ bảy, người công nhân phải làm việc tám giờ(5 giờ sáng đến 2 giờ
chiều) trong đó có nửa giờ ăn sáng.Như vậy, tổng cộng là sáu mươi giờ lao động một
tuần.Đây quả là một sự bóc lột sức lao động dã man.
Tuy nhiên, với khoảng thời gian lao động dài như vậy nhưng nhà tư bản,mà ở đây là
các chủ xưởng,vẫn chưa bằng lòng. Họ tìm mọi cách để kéo dài thời gian lao động ra
thêm nữa. Với một báo cáo của những thanh tra được giao giám sát việc chấp hành của
các chủ xưởng dưới đây, ta sẽ xem cái cách mà người chủ xưởng dùng để kéo dài thời
gian lao động của công nhân :
“ người chủ xưởng nham hiểm bắt làm việc trước 6 giờ sáng khoảng 15 phút, có khi
hơn, có khi kém, và cho nghỉ việc sau 6 giờ chiều khoảng 15 phút, có khi hơn, có khi
kém. Hắn ăn cắp 5 phút vào đầu và cuối nửa giờ dành cho bữa ăn sáng và mười phút vào
đầu và cuối một giờ dành cho bữa ăn trưa.Ngày thứ bảy hắn bắt làm việc trước 5 giờ
sáng khoảng 15 phút và thêm chừng 15 phút sau hai giờ chiều.Như vậy, hắn sẽ kiếm
được 300 phút trong năm ngày,cả tuần sẽ được 340 phút và trong một năm thông
thường,trừ đi những ngày nghỉ, ngày lễ và những giai đoạn bất thường,sẽ có 50 tuần lao

động và với 50 tuần này, nhà tư bản sẽ có khoảng hai mươi bảy ngày lao động làm
thêm ".
Và như vậy,ta có thể thấy rằng,với những vụ " ăn cắp vặt thời gian ăn cơm và nghỉ
ngơi của công nhân " , "nibbling and cribbling at meal times ",nhà tư bản đã tạo nên một
tháng thứ mười ba thêm vào mười hai tháng trong một năm làm việc của người công
nhân.
Nói tóm lại,với sự thèm khát giá trị thặng dư,biểu hiện trong xã hội tư bản là sự ham
muốn lợi nhuận,nhà tư bản đã tìm cách để kéo dài ngày lao động.Tuy nhiên với phương
pháp này thì nhà tư bản vấp phải những sự đấu tranh phản đối của giai cấp công nhân và
cơ bản là độ dài của ngày lao động có những giới hạn nhất định. Do những giới hạn về
thể chất và tinh thần của người lao động,nhà tư bản không thể kéo dài ngày lao động mãi
được, tối đa chỉ có thể là 24 giờ trong một ngày. Hơn nữa cùng với sự phát triển của
CNTB thì khoa học kỹ thuật cũng ngày càng phát triển do đó tạo điều kiện hình thành
một phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mới. Đó là phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tương đối.
Với phương pháp sản xuất GTTD mới,nhà tư bản có thể nâng cao trình độ bóc lột
(chính là tỷ suất giá trị thặng dư) bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong
điều kiện ngày lao động không đổi và do đó kéo dài một cách tương đối thời gian lao
động thặng dư. Và cuối cùng,kết quả là nhà tư bản vẫn tăng được lượng giá trị thặng dư
được sản xuất ra và do đó vẫn tăng được lợi nhuận. Để thấy rõ được điều đó, ta sẽ xem
xét ví dụ sau:
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ và được chia thành 4 giờ lao động cần thiết và 4 giờ
lao động thặng dư. Lúc này tỉ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’ = 4/4 * 100% = 100%.
Giả sử nhà tư bản rút ngắn được thời gian lao động cần thiết xuống còn 3 giờ. Như
vậy, thời gian lao động sẽ được phân chia thành 3 giờ thời gian lao động cần thiết và 5
giờ thời gian lao động thặng dư. Khi đó, tỉ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’ = 5/3 * 100% = 166%.
Vậy phần giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết
trong điều kiện độ dài này không đổi, nhờ đó kéo dài tương đối thời gian lao động thặng

dư được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Để rút ngắn được thời gian lao động cần thiết, là thời gian mà người công nhân tạo ra
được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động của mình, nhà tư bản phải
giảm được giá trị sức lao động,được đo bằng giá trị của các tư liệu sinh hoạt cần thiết mà
người công nhân cần để phục hồi sức lao động.Điều này chỉ có thể thực hiện được khi
năng suất lao động(NSLĐ) của toàn xã hội được nâng cao.Mặt khác,CNTB càng phát
triển thì NSLĐ của toàn xã hội càng được nâng cao. Chính vì vậy mà cùng với sự phát
triển của CNTB, các nhà tư bản cũng dần chuyển từ phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối sang phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu, phân tích hai phương pháp sản xuất thặng dư của
PTSX TBCN. Tuy nhiên, có thể nói,đây là những phương pháp mang tính phổ biến,
được toàn bộ giai cấp tư bản sử dụng để bóc lột người lao động.Ngoài các phương pháp
chung này,vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, mỗi nhà tư bản lại có những phương pháp
riêng cạnh tranh lẫn nhau nhằm thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.Trong giai đoạn đầu
của CNTB, khi khoa học kĩ thuật còn chưa phát triển, các nhà tư bản tạo ra giá trị thặng
dư siêu ngạch bằng cách sử dụng cả các lao động phụ nữ và trẻ em với giá nhân công rẻ
mạt,nhờ đó giảm được giá trị của hàng hoá, tăng sức cạnh tranh với các hàng hoá của các
đối thủ cạnh tranh khác để thu được phần lợi nhuận siêu ngạch.Còn về sau này khi khoa
học kĩ thuật đã có những bước tiến vượt bậc thì dựa trên việc áp dụng các thành tựu khoa
học kĩ thuật nhờ đó nâng cao năng suất lao động cá biệt lên trên năng suất lao động xã
hội.Trên cơ sở đó giảm được giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn so với giá trị xã hội
của nó.Khoản chênh lệch giữa giá trị cá biệt và giá trị xã hội của hàng hoá sẽ đem lại cho
nhà tư bản khoản giá trị thặng dư siêu ngạch, nguồn gốc của lợi nhuận siêu ngạch. Đến
khi CNTB chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền thì với sự hình
thành các tổ chức độc quyền,có khả năng thao túng một phần hoặc toàn bộ nền kinh
tế,thì lúc này đã hình thành một phương thức thu lợi nhuận dựa trên sức mạnh độc
quyền
Như vậy qua các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trên, ta có thể thấy rằng tất cả
các phương pháp đó đều chỉ nhằm một mục đích là đem về cho nhà tư bản càng nhiều
giá trị thặng dư càng tốt và chỉ nhằm để thoả mãn ham muốn tối đa hoá lợi nhuận của

nhà tư bản. Nói cho cùng thì,đối với nhà tư bản, cái duy nhất mà hắn quan tâm, cái duy
nhất khiến hắn phải hành động để đạt được chính là lợi nhuận.Vì mục tiêu lợi nhuận,
nhà tư bản có thể dùng mọi phương cách,bất chấp thủ đoạn để đạt được. Điều này được
thể hiện rõ trong một nhận xét dưới đây của một nhà kinh tế học đã được Mác trích dẫn:
“ lợi nhuận mà thích đáng thì nhà tư bản trở nên can đảm, lợi nhuận mà bảo đảm
được 10% thì người ta có thể sử dụng tư bản ở khắp mọi nơi, bảo đảm được 20% thì nó
hăng máu lên, bảo đảm được 30% thì nó không biết sợ là gì, bảo đảm được 100% thì nó
chà đạp lên tất cả luật lệ của loài người, bảo đảm được 300% thì nó chẳng từ một tội ác
nào mà không dám,thậm chí,có thể bị treo cổ nó cũng không sợ ”
b/ Những ảnh hưởng tiêu cực của lợi nhuận ở các nước Tư bản Chủ nghĩa:
Nói tóm lại, trong xã hội tư bản, lợi nhuận thực sự đóng một vai trò quan trọng,nó là
động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ xã hội.Trên cơ sở theo
đuổi lợi nhuận, mỗi cá nhân không chỉ làm lợi cho riêng mình mà còn làm lợi cho người
khác,cho cộng đồng và cho toàn bộ xã hội.Tuy nhiên, trong một xã hội quá đề cao lợi
nhuận như xã hội tư bản thì do sự thèm khát lợi nhuận đến mức thái quá cho nên mọi cá
nhân đều tìm mọi cách để tối đa hoá lợi nhuận của riêng mình bất chấp, thậm chí chà đạp
lên,lợi ích của những cá nhân khác cũng như của cộng đồng. Khi đó thì lợi nhuận không
còn vai trò động lực như trước đây mà nó lại trở thành nguyên nhân của các mâu thuẫn,
xung đột và khủng hoảng xảy ra ngày càng nhiều trong xã hội tư bản.Ta có thể kể ra một
số những mâu thuẫn chủ yếu sau:
Chính vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cho nên,để thoả mãn ham muốn thu được càng
nhiều lợi nhuận càng tốt,nhà tư bản tiến hành sản xuất vô số sản phẩm,vượt quá sức mua
của quần chúng nhân dân. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng
khủng hoảng thừa mang tính chu kì,một căn bệnh trầm kha của Chủ nghĩa Tư bản. Tuy
nhiên,mặc dù sản phẩm hàng hoá được tạo ra nhiều vô số thì quần chúng nhân dân lao
động vẫn nghèo đói, khổ cực. Nguyên nhân của mâu thuẫn phi lý này cũng xuất phát từ
lợi nhuận. Do muốn đạt được lợi nhuận cao nên giới tư bản sẵn sàng đốt bỏ, phá huỷ đi
hàng triệu tấn hàng hoá sản phẩm để giữ được giá bán cao.Như trong cuộc đại khủng
hoảng năm1929-1933 ở Mĩ,giới tư bản đã phá đi 10 triệu 40 vạn mẫu anh cây bông, giết
bỏ 6 triệu 46 vạn con lợn.ở Braxin, phá huỷ gần 22 triệu bao cà phê, ở Đức, thiêu huỷ

117 nghìn con súc vật vv
Hay như sự phân hoá giầu nghèo, phân phối bất bình đẳng trong quy mô một nước
cũng như các nước tư bản với nhau. Có thể nói rằng,CNTB ngày càng phát triển thì sự
phân hoá giầu nghèo cũng ngày càng tăng lên.Nguyên nhân của sự phân hoá này cũng
xuất phát từ ham muốn tối đa lợi nhuận.Để thoả mãn ham muốn này, mọi nhà tư bản sẵn
sàng lờ đi lợi ích của nhiều người, sẵn sàng lao vào cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm thu
được lợi nhuận. Và lẽ tất nhiên là trong cuộc cạnh tranh phải có kẻ thắng, thua. Tuy
nhiên trong xã hội tư bản,do nhà nước không quản lý,điều chỉnh các nguồn thu
nhập,không tiến hành phân phối lại thu nhập qua các công cụ thuế và trợ cấp để đảm bảo
công bằng xã hội mà để mặc cho thị trường tự phát,cho nên xảy ra tình trạng người đã
giầu lại càng giầu còn người nghèo thì cứ nghèo mãi đi,làm cho hố phân cách giầu nghèo
ngày càng rộng ra.Hơn thế nữa, sự phân cách giàu nghèo này không chỉ tồn tại trong
phạm vi một quốc gia mà còn lan ra trên phạm vi toàn thế giới.Theo số liệu thống kê thì
hiện nay, một phần năm dân số giàu nhất thế giới đã chiếm 87,5% GNP ; 84,2% thương
mại thế giới ; 85% tích luỹ và 85% đầu tư của thế giới còn một phần năm dân số nghèo
nhất chỉ chiếm tương ứng là 1% ; 0,9% ; 0,7% và 0,95%. Sự phân hoá giữa các nước
cũng có thể thấy rõ qua ví dụ sau:
Theo một tờ báo ở Nga,năm 1995, toàn thế giới có khoảng 457 tỉ phú thì riêng 5 nước
đứng đầu đã chiếm 263 người trong đó nước đứng đầu là Mĩ với 140 người, đứng thứ hai
là Đức thì cũng chỉ có 51 người.
Ngoài ra,còn có thể kể ra rất nhiều những tồn tại trong xã hội tư bản do sự ham muốn
tối đa hoá lợi nhuận gây ra như các nhà tư bản vì chạy theo lợi nhuận mà sẵn sàng sử
dụng các công nghệ độc hại do chi phí thấp nên gây ra nạn ô nhiễm môi trường hoặc như
tình hình các tệ nạn xã hội như buôn bán ma tuý, ngày càng gia tăng ở các nước tư bản
mà nguyên nhân cuối cùng là do chạy theo lợi nhuận vv
Mặc dù các chính phủ của các nước tư bản đã có những biện pháp để ngăn chặn, khắc
phục tuy nhiên cần phải thấy rằng những tồn tại, những mâu thuẫn đó mặc dù có nguyên
nhân bắt nguồn từ sự ham muốn lợi nhuận nhưng chỉ có trong xã hội tư bản thì chúng
mới nảy sinh ngày càng nhiều. Sử dĩ như vậy là do,trong các xã hội có giai cấp bóc lột
thống trị nói chung mà điển hình là xã hội TBCN thì giai cấp thống trị luôn tìm mọi cách

để thoả mãn lợi ích cá nhân của giai cấp mình mà không hề quan tâm đến lợi ích của các
giai cấp còn lại trong xã hội. Như vậy là tuyệt đại đa số nhân dân bị áp bức bóc lột, bị
buộc phải phục vụ cho một số ít giai cấp thống trị. Khi đó, chỉ có lợi ích cá nhân của giai
cấp thống trị là được thoả mãn còn lợi ích cá nhân của người lao động thì bị giày xéo. Sự
bất công đó đã đặt lợi ích cá nhân của một số ít giai cấp thống trị đối lập với lợi ích của
đông đảo quần chúng nhân dân.Chính vì vậy mà trong xã hội tư bản, dù cố gắng đến
mấy, chính quyền của giai cấp tư sản cũng không thể dung hoà được mối quan hệ giữa
lợi ích cá nhân của riêng giai cấp tư sản và lợi ích chung của toàn xã hội. Do đó tất yếu
nẩy sinh các mâu thuẫn và khủng hoảng trong xã hội TBCN.
Như vậy, trong phần 2 này, chúng ta,trên cơ sở phân tích các học thuyết kinh tế cũng
như một số biểu hiện trong thực tiễn của xã hội tư bản,đã chỉ ra được vai trò động lực
của lợi nhuận đối với xã hội tư bản đồng thời cũng đã thấy được những ảnh hưởng tiêu
cực của động lực lợi nhuận tới xã hội. Trong phần sau này, chúng ta cũng sẽ tiến hành
phân tích nhằm thấy được vai trò động lực của lợi nhuận đối với các nước XHCN.
3/ Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Xã Hội Chủ Nghĩa :
a/ Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Xã Hội Chủ Nnghĩa trong các giai đoạn
trước và sau đổi mới:
Đối với các nước XHCN vai trò động lực của lợi nhuận được biểu hiện khá khác biệt
ở hai giai đoạn phát triển của CNXH mà chúng ta tạm gọi là giai đoạn trước đổi mới và
giai đoạn sau đổi mới.Giai đoạn trước đổi mới bắt đầu từ khi nhà nước XHCN đầu tiên
được thành lập cho đến thời điểm xã hội có những đổi mới khá quan trọng trong lý luận
và thực tiễn về CNXH. Thời điểm đổi mới này được đánh dấu bằng chính sách 'kinh tế
mới' của LêNin, tuy nhiên việc đổi mới tư tưởng chỉ được áp dụng triệt để và thành công
bắt đầu từ công cuộc đổi mới của Trung Quốc năm 1979. Hơn nữa,ở các nước khác nhau
thì thời điểm đổi mới cũng khácnhau, như ở Việt Nam thời điểm đổi mới lý luận, thực
tiễn được bắt đầu từ Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ VI năm 1986. Còn giai đoạn sau
đổi mới thì được bắt đầu từ khi tiến hành đổi mới cho đến nay, ứng với mỗi nước. Trong
hai giai đoạn này,lợi nhuận mang ý nghĩa và vai trò hoàn toàn trái ngược nhau.
Trong giai đoạn trước đổi mới,nhận thức của chúng ta về CNXH còn quá giản đơn,
mang tính rập khuôn máy móc Chúng ta chưa nhận thức được rằng bất kì một lý luận

nào dù mang tính khoa học đến đâu cũng đòi hỏi phải được vận dụng một cách sáng tạo
vào hoàn cảnh thực tế bởi vì lịch sử một quá trình phát triển và không hề có điều gì là
đúng đắn một cách tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh được. Chính vậy mà ngay cả những lý
luận của CN Mác - Lênin về CNXH cũng cần được vận dụng một cách sáng tạo và hợp
lý.Tuy nhiên,trong giai đoạn này,tất cả các nước XHCN đều mới chỉ áp dụng những lý
luận về CNXH của CN Mác-LêNin một cách rập khuôn,máy móc. Đó là nguyên nhân cơ
bản, sâu xa khiến cho lợi nhuận hoàn toàn mất đi vai trò động lực của nó trong giai đoạn
này. Ngoài ra,ta có thể kể ra một số những nguyên nhân cụ thể gây ra điều này như:
Trước tiên, xuất phát từ những đặc trưng của CNXH mà Mác đã nêu ra trong học
thuyết của mình, các nhà lãnh đạo,trong giai đoạn này,cho rằng trong CNXH sẽ không
còn sự bóc lột mà lợi nhuận lại gắn liền với sự bóc lột, mang bản chất bóc lột. Chính vì
vậy họ đã thực hiện một loạt các chính sách nhằm triệt tiêu động cơ lợi nhuận như thực
hiện phương pháp phân phối bình quân chủ nghĩa,xoá bỏ các thành phần kinh tế phi quốc
doanh và phi tập thể đặc biệt là dựa trên lý luận của Mác cho rằng “ khi chế độ tư hữu
tự nó tiêu vong thì tiền tệ trở thành thừa và khi đó xã hội không cần thước đo giá trị nữa
mà dùng thước đo tự nhiên của nó tức là thời gian để biểu hiện những số lượng lao động
ấy ”, các nước XHCN bấy giờ đã thực hiện xoá bỏ nền kinh tế hàng hoá và thiết lập nền
kinh tế kế hoạch,tập trung một cách cao độ và do vậy đã triệt tiêu đi động lực lợi nhuận
trong nền kinh tế thị trường.
Hoặc do,xuất phát từ bản chất tốt đẹp của CNXH, là một xã hội tiến bộ mà trong xã hội
đó, nền kinh tế thì phát triển, đời sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc , so với những
ảnh hưởng tiêu cực mà động cơ lợi nhuận có thể mang lại, các nước XHCN đã cho rằng
lợi nhuận mâu thuẫn với những bản chất tốt đẹp của CNXH và cho rằng nó có thể phá bỏ
sự tốt đẹp đó của CNXH do đó trong CNXH không thể tồn tại lợi nhuận.
Ngoài ra,còn một số các nguyên nhân khác như quan niệm cho rằng lợi nhuận là biểu
hiện của lợi ích cá nhân và do đó nó sẽ mâu thuẫn với những lợi ích chung của cộng
đồng và của xã hội.Nói tóm lại,trong giai đoạn trước đổi mới này,do những sai lầm mang
tính chủ quan,máy móc trong việc nhận thức về CNXH đã dẫn tới việc xoá bỏ đi động
lực lợi nhuận.Vì vậy,trong giai đoạn này,mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều hoạt
động một cách không có hiệu quả do không còn cái gì làm động lực,làm mục tiêu cho

các hoạt động của họ.Do đó,đã làm cho tình trạng kinh tế cũng như chính trị và xã hội
của các nước XHCN bắt đầu có những biểu hiện khủng hoảng và suy thoái.Tình trạng
này tồn tại ở các nước XHCN trong một thời gian khá dài và nó là một trong những
nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh nhu cầu phải nhận thức lại những lý luận trước kia về
CNXH .
Như trên đã nêu,giai đoạn đổi mới được đánh dấu bởi điểm mốc đầu tiên chính là
'chính sách kinh tế mới' (NEP) của Lê-Nin ra đời năm 1921.Tư tưởng chủ yếu của chính
sách này là sử dụng công cụ kinh tế thị trường(KTTT) và thông qua chủ nghĩa tư bản nhà
nước để đi lên CNXH.Nhưng chính sách này không được thử nghiệm rộng rãi và chỉ
được tiến hành trong một thời gian ngắn.Vì vậy,có thể nói rằng,chính sách kinh tế mới
của Lê-Nin chỉ có vai trò như là một điểm mốc về lý luận của giai đoạn đổi mới.Phải đến
năm 1979 khi Trung Quốc tiến hành công cuộc đổi mới của nước mình thì giai đoạn đổi
mới mới thực sự bắt đầu trong thực tiễn.Đối với Việt Nam,quá trình đổi mới bắt đầu từ
năm 1986 khi Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ vi đã đưa ra yêu cầu phải đổi mới nhận
thức về con đường đi lên CNXH ở nứoc ta.Nhìn chung,mặc dù mỗi nước đều có những
đặc trưng riêng trong công cuộc đổi mới của quốc gia mình nhưng,về cơ bản,đều dựa
trên một số những nhận thức đúng đắn hơn, phù hợp hơn với hoàn cảnh hiện tại về
CNXH.Ta có thể kể ra một số nhận thức cơ bản sau :
Trước hết là sự nhận thức lại về lý luận của CN Mác về hoàn cảnh xuất hiện của
CNXH.Cần phải thấy rằng những dự đoán của Mác về CNXH được xuất phát từ giả định
cho rằng cách mạng vô sản(CMVS) nổ ra và giành thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới
hoặc ít ra là ở đại bộ phận những nước tư bản phát triển nhất,ở đó tính chất xã hội hoá
của LLSX phát triển đến mức không còn sản xuất nhỏ.Tuy nhiên,trong thực tế thì CMVS
đã "nổ ra ở những mắt xích yếu nhất của CNTB " tức là ở những nước mà nền sản xuất
còn kém phát triển,còn mang nặng tính chất của nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu.Chính
vì vậy,khi các nước này tiến hành xây dựng CNXH,không thể áp dụng những lý luận của
CN Mác một cách rập khuôn,máy móc như những lý luận về việc không tồn tại nền kinh
tế thị trường
(KTTT),không tồn tại các thành phần kinh tế phi XHCN vv trong CNXH.Ngoài ra,cũng
cần phải bác bỏ những lý luận thiếu tính khoa học khi đem gắn CNTB với nền KTTT và

gắn CNXH với nền kinh tế kế hoạch(KTKH).Cần phải thấy rằng,KTTT hay KTKH,xét
cho cùng,đều chỉ là một công cụ để phát triển kinh tế và chúng không liên quan tới bản
chất TBCN hay XHCN của xã hội.Nói tóm lại,các nước XHCN đã nhận thức được rằng
để xây dựng thành công CNXH thì phải thiết lập một nền KTTT có định hướng XHCN
và trong KTTT,tất yếu luôn coi lợi nhuận như là một động lực cơ bản cho mọi hoạt động
của con người.
Một nhận thức quan trọng khác là về vị trí của các nước trên con đường tiến lên
CNXH. Nếu trước đây,các nước XHCN thường mắc phải căn bệnh nóng vội,muốn
nhanh chóng tiến lên CNXH,muốn "quá độ nghèo,quá độ nhanh"lên CNXH.Chính vì
vậy,các nước này đã tiến hành thực thi các QHSX XHCN như chỉ duy trì hai thành phần
kinh tế quốc doanh và tập thể,thực hiện chính sách phân phối bình quân chủ nghĩa
vv mà không quan tâm tới trình độ phát triển của LLSX.Tuy nhiên,nhờ sự đổi mới
trong lý luận nhận thức,các nước này đã tự đánh giá lại vị trí của mình,cho rằng họ mới
chỉ đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH.Hơn nữa,họ đã nhận thức được
quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX do đó,với LLSX còn
kém phát triển thì cần phải điều chỉnh và vận dụng QHSX XHCN một cách phù hợp.
Ngoài ra,còn rất nhiều những nhận thức khác nữa được hình thành trong giai đoạn đổi
mới tư tưởng này.Những nhận thức này,có thể được phát triển từ lý luận hoặc được đúc
kết từ thực tiễn,đã làm thay đổi khá nhiều những lý luận trước đó về CNXH.Những thay
đổi này thì nhiều nhưng nếu chỉ xét riêng về vấn đề ta đang xem xét thì có thể nói rằng
nhờ sự nhận thức đúng đắn hơn về CNXH,các nước XHCN đã đánh giá đúng được vai
trò của lợi nhuận,đã thừa nhận vai trò động lực của lợi nhuận đối với sự phát triển của
từng cá nhân cũng như của toàn xã hội.
b/Vai trò của lợi nhuận ở Việt Nam trước và sau công cuộc đổi mới :
Trên đây,chúng ta đã nghiên cứu sự chuyển đổi trong nhận thức và lý luận về CNXH
của các nước XHCN nói chung.Chúng ta đã thấy được sự đổi mới trong việc nhận thức
về những đặc trưng của CNXH nói chung và sự đổi mới trong những lý luận về lợi
nhuận cũng như vai trò của nó nói riêng.Tuy nhiên,để cụ thể hơn,ta sẽ nghiên cứu sự đổi
mới này ở Việt Nam nhằm qua đó thấy được những biểu hiện khác nhau,thậm chí là trái
ngược nhau,của vai trò mang tính động lực của lợi nhuận trong hai giai đoạn trước và

sau đổi mới.
Trước hết là trong giai đoạn trước đổi mới,ở Việt Nam,giai đoạn này được bắt đầu
chính thức sau khi chúng ta hoàn toàn giải phóng và thống nhất được đất nước năm
1975.Nó kéo dài đến năm 1986,khi Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ VI họp và quyết
định tiến hành công cuộc đổi mới tư tưởng mà nhiệm vụ chính là đổi mới trong nhận
thức về CNXH.Trong giai đoạn này,Đảng ta chủ trương quyết tâm nhanh chóng khôi
phục lại nền kinh tế sau chiến tranh và bước đấu xây dựng những tiền đề vật chất của
CNXH.Tuy nhiên,do còn tồn tại những hạn chế và sai lầm trong nhận thức về các đặc
trưng cơ bản của CNXH và con đường quá độ lên CNXH cho nên trong quá trình thực
hiện Đảng ta đã mắc một số sai lầm dẫn tới việc xoá bỏ đi vai trò động lực của lợi
nhuận.Đây là một trong các nguyên nhân dẫn tới thực trạng là,vào cuối giai đoạn
này,tình hình kinh tế,chính trị và xã hội của đất nước ta trở nên rối loạn,mất ổn định.Cả
nước ta bị rơi vào một tình trạng khủng hoảng về mọi mặt. Sau đây,ta có thể kể ra một
vài nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc triệt tiêu động lực lợi nhuận :
Thứ nhất,xét theo lý luận lợi ích,trong giai đoạn trước đổi mới,nhằm mục tiêu khôi
phục nền kinh tế và bước đầu xây dựng CNXH,quan điểm của Đảng ta là tiếp tục khai
thác triệt để và phát huy cao độ các giá trị,các lợi ích tinh thần và các lợi ích chung của
nhân dân.Đó là các lợi ích đã góp phần quan trọng giúp nhân dân ta đánh đuổi quân xâm
lược,giải phóng và bảo vệ Tổ Quốc.Chính vì vậy mà Đảng ta muốn tiếp tục kế thừa và
phát huy các lợi ích này như là một động lực quan trọng cho công cuộc xây dựng CNXH
ở nước ta.Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện,ban đầu còn đạt được một số thành tựu
nhưng về sau,dần dần,các lợi ích này mất dần vai trò động lực của chúng,đặc biệt là vào
cuối những năm 70 và đầu những năm 80 khi trong xã hội có những biến chuyển lớn,thì
các lợi ích đó mất hẳn vai trò động lực,và hơn thế nữa,việc quá đề cao coi trọng các lợi
ích tinh thần,các lợi ích chung,khi đó,còn làm cho tình hình xã hội thêm hỗn
loạn.Nguyên nhân chính là do,trong giai đoạn này,chúng ta chỉ coi trọng các lợi ích xã
hội,lợi ích chung còn các lợi ích riêng đặc biệt là lợi ích kinh tế cá nhân của người lao
động thì bị xem nhẹ,thậm chí là bị phủ nhận vì cho rằng quan tâm tới lợi ích cá nhân là
quan điểm của CNTB.Hoặc cho rằng có thể khuyến khích,kích thích tính tích cực của
người lao động đơn giản chỉ bằng công tác tư tưởng,bằng sự động viên tinh thần.

Thứ hai,sau khi giành được độc lập,Đảng và nhân dân ta đã chủ trương quyết tâm
thực hiện cải tạo PTSX cũ TBCN,bước đầu xây dựngPTSX mới XHCN thông qua việc
dần thiết lập các đặc trưng của CNXH như thiết lập QHSX XHCN dựa trên chế độ công
hữu với hai thành phần kinh tế căn bản là Nhà Nước và Tập Thể hay như hình thành
phương thức phân phối bao cấp bình quân chủ nghĩa vv Tuy nhiên,trong quá trình thực
hiện,do chủ quan duy ý chí,do nóng vội muốn nhanh chóng tiến lên CNXH cho nên đã
mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng.Một trong số đó là do có các quan niệm ấu trĩ,giản
đơn về CNXH đã dẫn đến việc bỏ qua quy luật 'QHSX phải phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX '- một quy luật cơ bản của sự phát triển. Chính vì vậy,trong giai đoạn
trướcđổi mới ,chúng ta vì nôn nóng nghĩ rằng càng thiết lập các đặc trưng của CNXH
nhanh bao nhiêu thì càng chóng có được CNXH nhanh bấy nhiêu cho nên đã vội vàng
xoá bỏ những cái mà chúng ta cho rằng trái với các đặc trưng của CNXH như các thành
phần kinh tế phi XHCN,nền kinh tế thị trường,động lực lợi nhuận vv làm cho nền kinh
tế bị lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng.
Ngoài ra,còn một số những hạn chế,sai lầm khác cũng xuất phát từ việc nhận thức
không đúng về CNXH như việc thiết lập cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp,coi
đó như là một công cụ đảm bảo cho công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH không bị đi
chệch hướng vv Nói tóm lại,do một loạt những nhận thức còn mang tính chủ quan,
máy móc, nóng vội và không có tính khoa học đã dẫn tới việc triệt tiêu mất động lực
lợi nhuận gây ra tình trạng trì trệ,khủng hoảng và tạo ra nguy cơ mất ổn định trong xã hội
Việt Nam vào cuối giai đoạn trước đổi mới.
Trước tình trạng nền kinh tế suy giảm và dựa trên sự đánh giá một cách khách
quan,đúng đắn quá trình cải tạo kinh tế trong giai đoạn trước đổi mới,Đảng ta chủ trương
phải sửa đổi,định hướng lại phương thức tiến hành quá trình cải tạo XHCN.Với sự nhận
thức lại một cách đầy đủ và đúng đắn hơn về CN Mác-LêNin,về thời kỳ quá độ lên
CNXH và quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX,với tinh
thần thẳng thắn thừa nhận sự nóng vội chủ quan trong quá trình cải tạo XHCN trước
kia,Đảng ta đã quyết tâm sửa chữa,điều chỉnh cho phù hợp với nhận thức mới và thực

×