Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
280
BANG GIAO ĐẠI VIỆT VÀ TRUNG HOA
DƯỚI THỜI LÊ - TRỊNH (1599 - 1786)
THE DIPLOMATIC RELATION OF DAI VIET
UNDER LE - TRINH DYNASTY WITH CHINA (1599 - 1786)
SVTH: Nguyễn Văn Sang, Lê Duy Tình
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
GVHD: ThS. Lê Thị Thu Hiền
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Bang giao Đại Việt với Trung Hoa dưới thời Lê - Trịnh là điển hình của bang giao Đại Việt
thời phong kiến với sự hoàn thiện trong nghi thức, chính sách, nội dung bang giao. Chính bang
giao là nhân tố góp phần to lớn trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, tạo thế ổn định để
cho sự phát triển lâu dài, giành lại chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm. Nghiên cứu bang giao Đại Việt
và Trung Hoa thời Lê - Trịnh để từ đó có sự tham chiếu cho cuộc đấu tranh giữ gìn độc lập chủ
quyền, xây dựng đường lối, chính sách ngoại giao trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết.
ABSTRACT
The diplomatic Relation of Dai Viet with China under Le - Trinh dynasty is the typical
relation in feudal era for perfection in the rituals, policies, content of relations. Its relation is the
main factor contributing to greater protection in the struggle for national independence, creating
stable long-term development, regaining territorial sovereignty being violated. Studying the
diplomatic Relation of Dai Viet with China under Le - Trinh dynasty which there is reference to the
struggle to preserve the independence and sovereignty, to build guidelines and diplomatic policy in
the current period is extremely essential.
1. Đặt vấn đề
Ra đời từ sau thắng lợi của chiến tranh Nam - Bắc triều, yêu cầu ổn định, phát triển
đất nước là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với chính quyền Lê - Trịnh. Bang giao trở
thành sự lựa chọn tối ưu trên hành trình thực hiện mục tiêu ấy. Chính vì thế, trải qua hơn
200 năm tồn tại, chính quyền Lê - Trịnh đã thực thi chính sách bang giao hòa hiếu, chủ
động đối với Trung Hoa, với các nghi thức, nội dung bang giao đúng đắn. Bang giao thời
Lê - Trịnh đã góp vào sự ổn định của triều đại, của xã hội Đại Việt, góp phần to lớn bảo vệ
sự phát triển của quốc gia, dân tộc.
2. Các nghi thức bang giao
Sự trọng hay khinh trong quan hệ bang giao chính là ở nghi thức bang giao. Thời
Lê - Trịnh, nghi thức ấy được chú trọng trở thành một bộ phận quan trọng của chính sách
bang giao. Xét về đại lược, dù chưa có những định chế rõ ràng song nghi thức bang giao
thời Lê - Trịnh đã dần hình thành với những nghi thức khác nhau như nghi thức đón tiếp
sứ, nghi thức sách phong, nghi thức dụ tế.
Trong việc đón sứ thần Trung Hoa thể hiện đường lối bang giao hòa hiếu và tinh
thần tự tôn dân tộc. Chính quyền Lê - Trịnh đã có sự chuẩn bị, đón tiếp với những nghi
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
281
thức trọng hậu nhất. Qua đó đã để lại ấn tượng tốt trong ký ức của sứ thần Trung Hoa về
Đại Việt, thắt chặt thêm tình cảm giữa hai nước.
Bảng 1. Đặc điểm giống và khác nhau của các nghi thức bang giao thời Lê - Trịnh
Giống nhau
Khác nhau
- Đều diễn ra theo trình tự:
+ Chuẩn bị để đón sứ: Quá trình này diễn ra
rất chu đáo có thể trước đó hàng tháng.
+ Đón tiếp sứ và làm lễ: Đây là nội dung
chính trong các nghi thức bang giao và cách
hành lễ thống nhất chung cho tất cả các nghi
thức ấy.
+ Thiết đãi và tiến sứ gồm thiết yến và ban
các tặng phẩm ngoại giao cho sứ thần.
- Khác nhau về mục đích của nghi thức:
+ Đón, tiếp sứ nhằm thể hiện thái độ của Đại
Việt đối với sứ thần Trung Hoa khi sứ thần
Trung Hoa sang Đại Việt để giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong quan hệ hai nước.
+ Sách phong: Nhằm đón nhận thụ phong từ
Trung Hoa.
+ Nghi thức dụ tế: Thể hiện thái độ đối với
vị vua đã mất.
“Nguồn: Lịch triều hiến chương loại chí”
3. Nội dung bang giao Đại Việt - Trung Hoa thời Lê - Trịnh
3.1. Cầu phong
Tầm quan trọng của sự thừa nhận từ Trung Hoa đối với Đại Việt là rất lớn. Yếu tố
“chính thống” trong quan hệ bang giao với Trung Hoa sẽ tác động đến bối cảnh chính trị
xã hội của Đại Việt. Nhận thức được điều đó, chính quyền Lê - Trịnh đã hiện thực hóa
mong muốn thừa nhận sự chính thống thông qua hành động cầu phong.
Không thành quy định cụ thể, cho nên cầu phong diễn ra không dựa trên sự quy
định về thời gian mà nó xuất phát từ sự thay đổi của triều đại, triều vua. Vì vậy, giữa hai
lần cầu phong có thể cách nhau hàng chục năm hoặc ngay trong năm. Thông thường, buổi
đầu của triều đại mới, cầu phong được tiến hành như là một sự tuyên bố với Trung Hoa về
sự ra đời của triều đại: “Nhà Lê buổi đầu trung hưng cầu phong luôn luôn” [2, tr.211].
Thực tế cho thấy, việc cầu phong còn diễn ra khi có sự thay thế của các vị vua ngay trong
bản thân triều đại ấy: “Mùa hạ, tháng 4, (…) sang nhà Thanh báo tang Hy Tông và cầu
phong” [1, tr.498]. Đây mới là mục đích quan trọng của việc cầu phong. Bởi vì, thông qua
nghi thức đó vị vua mới lên ngôi sẽ được thừa nhận về sự cầm quyền của mình trên lãnh
thổ Đại Việt từ phía Trung Hoa.
Cầu phong diễn ra vào thời điểm chuyển giao triều vua hay triều đại nên mục đích
của cầu phong nhằm nhận được sự thừa nhận về việc cầm quyền của vua Lê ở nước ta.
Danh hiệu xin phong và được phong thường là An Nam quốc vương. Song do thể chế vua
Lê - chúa Trịnh tồn tại song hành nên việc cầu phong không chỉ là sự công nhận về quyền
hành của vua Lê mà còn cả chúa Trịnh. Chúa Trịnh thông thường được phong làm phụ
chính vương. Dù đã được thừa nhận đến vậy, chúa Trịnh vẫn muốn được công nhận với
chức phận “Phó quốc vương”. Hầu hết các triều vua Trung Hoa thừa nhận chúa Trịnh chỉ
là người giúp vua Lê trị nước chứ không phải là người cai quản Đại Việt sau vua Lê.
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
282
3.2. Triều cống
Triều Lê - Trịnh, phép triều cống định lệ 3 năm một lần. Nhưng do việc đi sứ nhiều
phiền hà nên chính quyền Lê - Trịnh xin được đổi thành 6 năm và mỗi lần cống gộp cho cả
lần trước. Nhưng lệ triều cống thời Lê - Trịnh đã có sự thay đổi so với quy định.
Bảng 2. Thời gian giữa hai lần triều cống dưới thời Lê - Trịnh
TT
Thời gian giữa hai lần triều cống
Số lần
Tỷ lệ (%)
1
2 năm
2
6,9
2
3 năm
4
13,8
3
4 năm
3
10,3
4
5 năm
3
10,3
5
6 năm
7
24,1
6
7 năm
6
20,7
7
9 năm
2
6,9
8
12 năm
1
3,5
9
17 năm
1
3,5
“Nguồn: Việt sử cương mục tiết yếu; Đại Việt sử ký toàn thư”
Theo bảng 3 số năm thực hiện theo định lệ ban đầu (3 năm) chỉ chiếm 13,8%. và số
lần 6 năm triều cống cũng chỉ chiếm 24,1%. Như vậy, dưới hai triều Minh và Thanh, Đại
Việt triều cống không đầy đủ mà thường chậm trễ 1 năm chiếm 20,7%, thậm chí chậm đến
11 năm (3,5%). Sự thay đổi đó xuất phát từ chính bối cảnh xã hội của Đại Việt trong hai
thế kỷ XVII - XVIII.
Hành trình đi sứ triều cống là một quá trình khó khăn và nó gắn với từng nội dung
cụ thể của từng chặng đường trên hành trình đi sứ.
Bảng 3. Hành trình đi sứ triều cống của sứ thần dưới thời Lê - Trịnh
Trước khi đi sứ triều cống
- Gửi thư sang Trung Hoa báo thời gian và địa điểm sang cống
- Chuẩn bị và cho vận chuyển trước một số lễ vật cống
- Xác định thành phần đi sứ
- Tổ chức thiết đãi và ban ân điển cho sứ thần
Trên đường đi triều cống và tại Trung Hoa
- Làm lễ cúng dọc đường
- Ở tại công quán để đợi tiến cống và vào tiến cống
Khi về nước
- Được ban chức tước, phẩm trật và ruộng đất
- Nếu sứ thần chết sẽ được phong chức tước và ban ruộng thờ
Đi sứ triều cống là một trách nhiệm to lớn, nắm giữ vận mệnh của quốc gia. Công
việc đó gắn với nhiều khó khăn, nguy hiểm, vừa phải làm tròn nhiệm vụ triều cống, vừa
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
283
khẳng định lòng tự tôn dân tộc. Vì vậy, việc đi sứ thành công hay không là tùy thuộc vào
sự khéo léo, tài tình của chính sứ thần trên suốt hành trình đi sứ.
3.3. Giải quyết vấn đề nảy sinh giữa hai nước
Bang giao là mối quan hệ giữa hai nước ở nhiều phương diện. Do đó, bang giao
giữa Đại Việt - Trung Hoa không chỉ là việc lễ nghi mà còn bao hàm nhiều vấn đề khác mà
việc giải quyết nó có thể tạo nên sự hòa bình, ổn định trong quan hệ hai nước.
Thất bại trong cuộc chiến tranh Lê - Mạc, một bộ phận trong dòng họ Mạc và các
cựu thần chạy sang Trung Hoa để tiếp tục ngọn cờ phục ngôi. Tại đây, họ bị nhà Thanh
bắt. Vấn đề trao trả tù binh cho chính quyền Lê - Trịnh là cách để nhà Thanh tạo nên sự
bình thường hóa trong quan hệ của hai nước. Việc trao trả tù binh họ Mạc cho chính quyền
Lê - Trịnh là một bước quan trọng trong quan hệ bang giao giữa hai nước, là sự thừa nhận
triều Lê - Trịnh từ phía Trung Hoa. Vấn đề quan trọng hơn hết trong quan hệ hai nước thời
Lê - Trịnh là nhằm giải quyết các vấn đề biên giới. Nhiều vùng đất Đại Việt thời Lê - Trịnh
bị nhà Thanh chiếm phải thông qua bang giao để đấu tranh đòi lại tiêu biểu trường hợp ba
châu Bảo Lạc, Vị Xuyên, Thủy Vĩ: “Tháng giêng, sai bọn Nguyễn Đăng Đạo, Nguyễn Thế
Bá sang tuế cống nhà Thanh và tâu việc biên giới Hưng Hóa, Tuyên Quang” [1, tr.490].
Nhờ các sứ thần kiên quyết trong lời lẽ bang giao nên nhà Thanh đã trả lại ba châu đã mất
và mỏ đồng Tụ Long: “Nhà Thanh trả lại mỏ đồng Tụ Long… Việc biên giới ổn định từ
đó” [1, tr.514]. Giải quyết được vấn đề đó chính quyền Lê - Trịnh đã góp phần quan trọng
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc.
Ngoài ra, quan hệ hai nước còn nhằm hướng đến một giải pháp phù hợp cho cả hai
bên. Nhiều lần Đại Việt và Trung Hoa đã phối hợp chung trong các vấn đề liên quan đến
hai nước, tiêu biểu như đánh dẹp thổ phỉ và cướp biển dọc biên giới hai nước. Trong quá
trình phối hợp, nếu quan quân lấy lý do làm việc chung mà quấy nhiễu dân chúng thì trị
tội nặng theo quy định: “Thắng lấy danh nghĩa đuổi bắt dư đảng giặc, cho quân vào Tiên
Yên, Hoành Bộ đòi cung đốn, nhân dân rất cực khổ. Triều đình gửi công văn cho tổng đốc
Lưỡng Quảng tố cáo việc đó. Thắng bị xử chém” [1, tr.486]. Việc phối hợp đánh dẹp thổ
phỉ, cướp dọc biên giới trên bộ và trên biển là những cử chỉ đẹp trong quan hệ bang giao
của hai nước trong một thời gian dài.
Mặc dù có những mâu thuẫn nảy sinh nhưng những vấn đề đó thông qua quan hệ
bang giao đều được giải quyết. Bên cạnh đó, bang giao thời kỳ này còn là sự phối hợp
chung của cả Đại Việt và Trung Hoa vì mục đích bảo vệ chủ quyền biên giới.
4. Chính sách bang giao của Đại Việt đối với Trung Hoa thời Lê - Trịnh
4.1. Chính sách hòa hiếu, chủ động, linh hoạt trong bang giao
Đặt trong bối cảnh cần ổn định để xây dựng và phát triển đất nước và vị thế nước
nhỏ trước một đế chế Trung Hoa rộng lớn, chính quyền Lê - Trịnh luôn tỏ thái độ nhún
nhường và đặc biệt thực thi chính sách bang giao mềm dẻo, linh hoạt.
Ngay khi kết thúc chiến tranh, chính quyền Lê - Trịnh được thiết lập, Đại Việt đã
chủ động sang cầu phong. Mặt khác, trong quan hệ với Trung Hoa, chính quyền Lê - Trịnh
luôn tự xác định cho mình vị thế nước nhỏ nên đã chủ động hòa hiếu thông qua việc cầu
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
284
phong, triều cống, Đánh bại triều Minh, nhà Thanh ra đời trên đất Trung Hoa. Chính
quyền Lê - Trịnh một mặt từ chối nhận sách phong của nhà Minh, phần nữa sang cầu
phong triều Thanh. Sự linh hoạt trong cách hành xử của chính quyền Lê - Trịnh đối với
Trung Hoa đã tạo tiền đề cho quan hệ hai nước sau này. Khi bang giao, Đại Việt phải theo
định lệ tiến cống, mỗi lần như vậy rất tốn kém. Hoàn cảnh đó sứ thần chúng ta đã chủ động
xin được đổi lệ ba năm thành sáu năm mới tiến cống, thậm chí nếu trong nước có việc thì
có thể nhiều hơn thế. Các nghi lễ bang giao cũng được Đại Việt chủ động bỏ bớt chỉ giữ lại
những nghi thức căn bản mà không làm mất đi sự trọng thể của quốc gia trong đón tiếp sứ.
Chú trọng hoạt động bang giao và xác định được tầm quan trọng của bang giao,
chính quyền Lê - Trịnh đã có sự chủ động linh hoạt, hòa hiếu trong chính sách bang giao.
Nhờ đó, góp phần quan trọng tạo sự ổn định của đất nước dưới thời Lê - Trịnh.
4.2. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ khi bị xâm phạm
Trong bang giao, chính quyền Lê - Trịnh luôn lấy sự hòa hiếu làm đầu. Thế nhưng,
khi chủ quyền bị xâm phạm thì sẵn sàng đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền mà thành quả
tiêu biểu là thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành lại mỏ đồng Tụ Long.
Năm 1724, tổng đốc Vân Nam là Cao Kỳ Trác chiếm và đưa lính vào khai thác mỏ
đồng Tụ Long. Hành động của nhà Thanh đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ
của Đại Việt. Để ngăn chặn, chúa Trịnh một mặt ra lệnh cho trấn thủ Tuyên Quang ra sức
chống giữ. Mặt khác, chính quyền Lê - Trịnh cử các sứ thần sang tranh biện, vạch định
việc biên giới. Trước những bằng chứng và lý lẽ của sứ thần Đại Việt, phía nhà Thanh
không thể tự bào chữa cho mình. Do vậy, vua Ung Chính nhà Thanh: “đã hạ lệnh cho viên
tổng đốc rút nhân viên đóng ở các xứ thôn Tà Lộ về, còn việc lập giới mốc sau sẽ bàn
riêng, quốc vương nên bình tĩnh đợi sẽ phân xử” [3, tr.341 - 342]. Sau một thời gian, vấn
đề mỏ đồng Tụ Long “tranh biện và bẻ lý mãi rồi lập đồng trụ làm mốc. Thế là việc biên
giới mới được ổn định. Mỏ đồng Tụ Long lại thuộc về ta” [4, tr.161]. Bên cạnh đó, Đại
Việt bằng những chính sách, hành động kiên quyết trong bang giao cũng đã đấu tranh
giành lại ba châu Bảo Lạc, Vị Xuyên, Thủy Vĩ và nhiều vùng đất dọc hai bên biên giới.
Thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành lại mỏ đồng Tụ Long đã khẳng định chính
sách đúng đắn trong bang giao của chính quyền Lê - Trịnh, đồng thời khẳng định những
giá trị lớn lao của bang giao Đại Việt trong sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Chính quyền Lê - Trịnh bằng chính sách kiên quyết trong bang giao đã thể hiện tinh thần
tự tôn dân tộc, ý thức trách nhiệm của người cầm quyền đối với việc bảo vệ chủ quyền
quốc gia và sự khôn khéo trong đường lối bang giao của dân tộc.
5. Kết luận
Đặt trong bối cảnh xã hội nhiều biến động, với sự tác động của các nhân tố đến từ
Đại Việt và Trung Hoa, chính quyền Lê - Trịnh đã hình thành đường lối bang giao phù hợp
với thời cuộc. Chính đường lối ấy đã có vai trò to lớn trong việc định quốc, an dân, bảo vệ
độc lập, chủ quyền, bảo vệ vương quyền của vua Lê - chúa Trịnh. Nhìn về bang giao Đại
Việt thời Lê - Trịnh là cơ sở để có thể tham chiếu một số bài học kinh nghiệm. Đó là bài
học về xây dựng quan hệ hữu nghị Việt - Trung, ngoại giao phải góp phần bảo vệ độc lập,
chủ quyền, phải nâng cao vị thế của dân tộc.
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010
285
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đặng Xuân Bảng (2000), Việt sử cương mục tiết yếu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[2] Phan Huy Chú (2008), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, NXB Giáo dục
[3] Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, NXB Sử học, Hà Nội.
[4] Ngô Cao Lãng (1975), Lịch triều tạp kỷ, Tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[5] Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, Toàn tập, NXB Văn hóa thông tin.