Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện bắc quang tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.66 KB, 100 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC I
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT III
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU IV
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu 2
2.1. Mục đích 2
2.2. Yêu cầu 2
2.3. Ý nghĩa khoa học của đề tài 3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1 Sản xuất nông nghiệp và hướng phát triển sản xuất trên thế giới và ở
Việt Nam 4
1.1.1 Tổng quát về tình hình và những phương hướng phát triển sản xuất nông nghiệp trên thế giới 4
1.1.2 Tình hình sản xuất và sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam 6
1.2 Những hệ thống nông nghiệp và hệ thống sử dụng đất thích hợp ở Việt
Nam 11
1.2.1 Một số đặc trưng của hệ thống cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam 11
1.2.2 Nghiên cứu về hệ thống nông nghiệp và các hệ thống sử dụng đất thích hợp ở Việt Nam 12
1.3 Sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm phát triển bền vững 14
1.3.1 Sự cần thiết phải sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm phát triển bền vững 14
1.3.2 Quan điểm sử dụng đất sản xuất nông nghiệp bền vững 16
1.4 Sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa 19
1.4.1. Khái niệm về sản xuất nông nghiệp 19
1.4.2 Một số định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở Việt Nam 20
1.4.3 Thực trạng, thách thức và giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá ở Việt Nam 22
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
2.1. Phạm vi nghiên cứu 32
2.2 . Nội dung nghiên cứu 32


2.2.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội có liên quan đến sử dụng nguồn tài nguyên đất nông
nghiệp ở huyện Bắc Quang 32
2.2.2. Đánh giá hiện trạng sử dụng đất và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 32
2.2.3. Đánh giá khả năng phát triển của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp theo hướng hàng hóa
của huyện Bắc Quang - tỉnh Hà Giang 32
2.2.4. Đề xuất những giải pháp phát triển các loại hình sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa ở vùng nghiên cứu 32
2.3. Phương pháp nghiên cứu 32
2.3.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 32
2.3.2 Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu 32
2.3.3 Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu 33
2.3.4 Phương pháp đánh giá khả năng sử dụng đất bền vững dựa trên cơ sở định tính theo 3 tiêu chí.33
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
3.1. Xác định điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội và khả năng phát triển
sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá 36
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 36
3.1.2. Thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Bắc Quang 42
3.1.3. Hiện trạng sử dụng đất 50
3.2. Kết quả điều tra đánh giá hiện trạng sử dụng đất và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 54
3.2.1. Đánh giá các loại hình sử dụng đất chính theo hướng sản xuất hàng hóa ở huyện Bắc Quang –
tỉnh Hà Giang 54
3.2.1.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế của một số loại hình sử dụng đất 65
3.2.2. Tiêu thụ nông sản và dịch vụ sản xuất nông nghiệp 78
3.3. Đánh giá khả năng phát triển của các loại hình sử dụng đất nông
nghiệp theo hướng hàng hóa của huyện Bắc Quang - tỉnh Hà Giang 78
3.3.1. Tiềm năng sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá 78
3.3.2. Định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa 81
3.4.2. Các giải pháp thực hiện cho xây dựng các đề xuất 85
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 88

1. Kết luận 88
2. Kiến nghị 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
PHỤ LỤC I
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVTV Bảo vệ thực vật
CPSX Chi phí sản xuất
TCP Tổng chi phí
CLĐ Công lao động
CVĐ Cây vụ đông
CNH-HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
DV-TM Dịch vụ - Thương mại
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
HTX Hợp tác xã
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NTTS Nuôi trồng thủy sản
LUT Loại hình sử dụng đất
LUS Hệ thống sử dụng đất
KHKT Khoa học kỹ thuật
GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GTSX Giá trị sản xuất
SP Sản phẩm
SXNN Sản xuất nông nghiệp
FAO Tổ chức Nông nghiệp và lương thực thế giới.
Tr.đ Triệu đồng
UBND Ủy ban nhân dân
VAC Vườn, ao, chuồng
WTO Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1: Tỷ trọng các ngành kinh tế của huyện giai đoạn 2005 - 2012 43

Bảng 3.2: Diện tích, Cơ cấu đất phi nông nghiệp năm 2012 51
Bảng 3.3: Diện tích, cơ cấu đất nông nghiệp năm 2012 53
Bảng 3.4: Một số loại hình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp đặc trưng 55
tại 2 tiểu vùng điều tra 55
Bảng 3.5: Diện tích, năng suất, sản lượng, tỷ lệ sử dụng sản phẩm
của một số cây trồng chính 61
Bảng 3.6: Biến động gia súc – gia cầm huyện Bắc Quang 62
Bảng 3.7: Diện tích nuôi trồng và khai thác thuỷ sản năm 2012 65
Bảng 3.8: Đánh giá hiệu quả kinh tế một số loại hình sử dụng đất ở các tiểu vùng đặc trưng của
huyện Bắc Quang 67
Bảng 3.9: Đánh giá hiệu quả kinh tế của LUT NTTS và chăn nuôi 70
Bảng 3.10: Mức độ đầu tư phân bón của một số loại cây trồng trên địa bàn huyện 75
Bảng 3.11: Đánh giá hiệu quả LUT có hiệu quả bền vững 76
Bảng 3.12: Đề xuất diện tích các loại hình sử dụng đất trong tương lai 84
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Hình 3.1: Cơ cấu chuyển dịch kinh tế huyện giai đoạn 2005 – 2012 43
Hình 3.2: Cơ cấu sử dụng đất năm 2012 51
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với tất cả các quốc gia, đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá,
là tư liệu sản xuất đặc biệt, là bộ phận hợp thành quan trọng của môi trường
sống, là địa bàn phân bố và tổ chức các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh
quốc phòng. Trong nông nghiệp, đất đai không những là đối tượng lao động
mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế.
Do sức ép của gia tăng dân số và nhu cầu phát triển xã hội, đất nông
nghiệp đang đứng trước nguy cơ bị giảm mạnh về số lượng và chất lượng.
Con người đã và đang khai thác quá mức mà chưa có nhiều các biện pháp hợp
lý để bảo vệ đất đai. Hiện nay, việc sử dụng đất đai một cách hiệu quả, bền
vững đang là vấn đề mang tính toàn cầu.
Nền sản xuất nông nghiệp nước ta với những đặc trưng như: sản xuất còn

manh mún, công nghệ lạc hậu, năng suất chất lượng còn chưa cao, khả năng hợp
tác, liên kết cạnh tranh trên thị trường và sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng
hóa còn yếu. Diện tích đất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp do sức ép của
quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và sự gia tăng dân số thì mục tiêu nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là hướng đi hết
sức cần thiết nhằm tạo ra hiệu quả cao về kinh tế đồng thời tạo ra tính đột phá
cho phát triển nông nghiệp của từng địa phương cũng như cả nước.
Bắc Quang là một huyện phía Nam tỉnh Hà Giang, có diện tích đất tự
nhiên 109.873,69 ha, trong đó đất nông nghiệp 97.610,79 ha, chiếm 88,84%
diện tích đất tự nhiên. Đất đai của huyện tương đối màu mỡ phù hợp với
nhiều loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng được nhu cầu của kinh
tế thị trường mở cửa hiện nay. Huyện là một vành đai quan trọng trong cung
cấp lương thực, thực phẩm và nhiều loại sản phẩm nông nghiệp khác đáp ứng
tiêu dùng ngày một cao của thị trường tiêu dùng một số huyện lân cận. Với xu
1
thế công nghiệp hoá, đô thị hoá, Bắc Quang là một trong những huyện diễn ra
mạnh mẽ trong tỉnh làm cho diện tích sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm
nhanh chóng trong khi nhu cầu lương thực ngày càng lớn và thị hiếu người
tiêu dùng ngày càng thay đổi theo hướng chất lượng ngày càng cao, chủng
loại ngày càng đa dạng, đòi hỏi việc sản xuất vừa phải mở rộng quy mô vừa
phải thâm canh đi đôi với ứng dụng một số công nghệ cao.
Do vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa cho các nông hộ là hướng đi hết sức cần thiết cho mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của huyện, đồng thời giải quyết được yêu cầu của thị trường
tiêu thụ trong thời gian tới. Từ những lý do nêu trên với sự hướng dẫn của cô
giáo: PGS.TS. Đỗ Thị Lan tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện Bắc Quang - Tỉnh Hà
Giang”
2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu

2.1. Mục đích
- Nghiên cứu đánh giá một số loại hình sử dụng đất nông nghiệp có hiệu
quả theo hướng sản xuất hàng hóa, phù hợp với điều kiện đất đai ở huyện Bắc
Quang – tỉnh Hà Giang.
- Định hướng và đề xuất những giải pháp phát triển các loại hình có triển
vọng theo hướng sản xuất hàng hóa cho phát triển kinh tế nông hộ trong vùng
nghiên cứu.
2.2. Yêu cầu
- Các thông tin, số liệu, tài liệu, điều tra phải trung thực, chính xác, bảo
đảm độ tin cậy và phản ánh đúng thực tiễn trên địa bàn nghiên cứu.
- Đề tài phải mang tính khách quan, khoa học, chính xác, phù hợp với xu
hướng phát triển chung của toàn tỉnh và phù hợp với các chính sách quản lý
của Nhà nước.
2
- Các phương án đề xuất phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội của vùng nhằm tiết kiệm quỹ đất, đảm bảo an ninh lương thực
và bảo vệ môi trường thiên nhiên.
2.3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Góp phần bổ sung lý luận về sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá một cách có hiệu quả và bền vững để phục vụ cho công tác
đánh giá, quy hoạch và quản lý đất đai.
- Đóng góp định hướng xác định các loại hình và mô hình sản xuất nông
nghiệp hàng hoá có hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp ở huyện Bắc Quang –
tỉnh Hà Giang.
3
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Sản xuất nông nghiệp và hướng phát triển sản xuất trên thế giới và ở
Việt Nam.
1.1.1 Tổng quát về tình hình và những phương hướng phát triển sản xuất

nông nghiệp trên thế giới
1.1.1.1. Tổng quát về tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp trên thế giới
Nông nghiệp là một ngành sản xuất chiếm tỷ trọng không nhỏ trong cơ
cấu kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Đặc biệt ở các nước đang phát
triển, sản xuất nông nghiệp không chỉ đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm
cho con người mà còn tạo ra sản phẩm xuất khẩu, thu ngoại tệ cho quốc gia.
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) [26], tổng sản lượng lương
thực sản xuất hiện tại chỉ đáp ứng nhu cầu cho khoảng 6 tỉ người trên thế giới,
tuy nhiên sản lượng sản xuất ra có sự phân bổ không đồng đều giữa các vùng.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 3,3 tỉ ha đất nông nghiệp, trong đó đã khai
thác được 1,5 tỉ ha; còn lại đa phần là đất xấu, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều
khó khăn. Qui mô đất nông nghiệp được phân bố như sau: châu Mỹ chiếm
35%, châu Á chiếm 26%, châu Âu chiếm 13%, châu Phi chiếm 20%, châu
Đại Dương chiếm 6% [24].
Để đáp ứng được lương thực, thực phẩm cho con người trong hiện tại và
tương lai, con đường duy nhất là thâm canh tăng năng suất cây trồng trong điều
kiện hầu hết đất canh tác trong khu vực đều bị nghèo về độ phì, đòi hỏi phải bổ
sung cho đất một lượng dinh dưỡng cần thiết qua con đường sử dụng phân bón.
Hiện tượng suy thoái đất có liên quan chặt chẽ đến chất lượng đất và môi
trường. Báo cáo của Viện Tài nguyên thế giới [33], cho thấy gần 20% diện tích
đất đai châu Á bị suy thoái do những hoạt động của con người. Trong đó hoạt
động sản xuất nông nghiệp là một nguyên nhân không nhỏ làm suy thoái đất.
4
1.1.1.2. Những phương hướng phát triển nông nghiệp trên thế giới
Theo Đường Hồng Dật (1995) [6], trên con đường phát triển nông
nghiệp, mỗi nước đều chịu ảnh hưởng của các điều kiện khác nhau, nhưng
phải giải quyết vấn đề chung sau:
- Không ngừng nâng cao chất lượng nông sản, năng suất lao động trong
nông nghiệp, nâng cao hiệu quả đầu tư;
- Mức độ và phương thức đầu tư vốn, lao động, khoa học và quá trình

phát triển nông nghiệp. Chiều hướng chung nhất là phấn đấu giảm lao động
chân tay, đầu tư nhiều lao động trí óc, tăng cường hiệu quả của lao động quản
lý và tổ chức;
- Mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp và môi trường.
Từ những vấn đề chung trên, mỗi nước lại có chiến lược phát triển
nông nghiệp khác nhau và có thể chia làm hai xu hướng:
* Nông nghiệp công nghiệp hoá: Sử dụng nhiều thành tựu và kết quả
của công nghiệp, sử dụng nhiều vật tư kỹ thuật, dùng trang thiết bị máy móc,
sản xuất theo quy trình kỹ thuật chặt chẽ gần như công nghiệp, đạt năng suất
cây trồng vật nuôi và năng suất lao động cao. Khoảng 10% lao động xã hội
trực tiếp làm nông nghiệp nhưng vẫn đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng và xuất
khẩu. Nông nghiệp công nghiệp hoá gây nên nhiều hậu quả sinh thái nghiêm
trọng, gây ô nhiễm môi trường làm giảm tính đa dạng sinh học, làm hao hụt
nguồn gen thiên nhiên [2].
* Nông nghiệp sinh thái: Đưa ra nhằm khắc phục những nhược điểm
của nông nghiệp công nghiệp hoá, nông nghiệp sinh thái nhấn mạnh việc đảm
bảo tuân thủ những nguyên tắc về sinh học trong nông nghiệp, với mục tiêu:
Cải thiện chất lượng dinh dưỡng thức ăn; Nâng cao độ phì nhiêu của đất bằng
phân bón hữu cơ, tăng chất mùn trong đất…; Hạn chế mọi dạng ô nhiễm môi
trường với đất, nước, môi trường, thức ăn.
Gần đây nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu nền nông nghiệp bền vững,
5
đó là một dạng của nông nghiệp sinh thái với mục tiêu sản xuất nông nghiệp đi
đôi với giữ gìn bảo vệ môi trường đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền
vững, lâu dài.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển thành công về sản xuất
nông nghiệp và tăng trưởng về mức sống, nhiều nước đã đẩy mạnh chuyển
đổi cơ cấu cây trồng và đa dạng hoá sản xuất. Như: Philipin năm 1987-1992
chính phủ đã có chiến lược chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hoá cây
trồng nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển; Thái Lan những năm 1982-1996

đã có những chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp; Ấn Độ kể từ thập kỷ
80, khi sản xuất lương thực đã đủ đảm bảo an ninh lương thực thì các chính
sách phát triển nông nghiệp của chính phủ cũng chuyển sang đẩy mạnh
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hoá sản xuất, phát triển nhiều cây trồng
ngoài lương thực
1.1.2 Tình hình sản xuất và sử dụng đất nông nghiệp của Việt Nam
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn, khái niệm và đánh giá đất, phân
hạng đất đã có từ lâu đời ở nước ta nhằm phục vụ cho việc quản lý đất đai và sản
xuất. Trong thời kỳ phong kiến đã tiến hành phân hạng ruộng đất nhằm phục vụ
chính sách quản điền và tô thuế. Thời kỳ phong kiến, thực dân, để tiến hành thu
thuế đất đai, đã có sự phân chia ruộng đất thành “tứ hạng điền, lục hạng thổ”.
Sau tháng 7/1954 đất nước bị chia cắt, do vậy công trình nghiên cứu
nói chung được thực hiện riêng lẻ trên từng miền.
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu ở miền Bắc.
- Năm 1963 “Các quá trình thổ nhưỡng ở miền Bắc Việt Nam” đã được
V.M.Fridland, Lê Duy Thước thực hiện và công bố tại Maxcơva.
- Năm 1972 – 1974 Vũ Cao Thái, Bùi Quang Toàn đã tiến hành phân
hạng đất cấp huyện và cấp xã tại huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình.
- Năm 1975 V.M.Fridland cùng với các nhà khoa học Việt Nam: Vũ
Ngọc Tuyên, Tôn Thất Chiểu, Đỗ ánh, Trần Vân Nam, Nguyễn Văn Dũng đã
6
tiến hành khảo sát và xây dựng sơ đồ thổ những miền Bắc Viêt Nam (tỷ lệ
1:1000.000) xây dựng sơ đồ thổ những miền Bắc Việt Nam.
- Ban biên tập bản đồ đất Việt đã biên soạn được bản đồ miền Bắc Việt
Nam (tỷ lệ: 1:500.000) tổng kết quá trình điều tra từ cấp tỉnh, huyện và các
nông trường và trạm trại (Cao Liêm, Đỗ Đình Thuận, Nguyễn Bá Nhuận).
- V.M.Fridland tập hợp các kết quả nghiên cứu đất Việt Nam trong
cuốn “Đất và vỏ phong hoá nhiệt đới Việt Nam” được dịch ra tiếng việt năm
1973, đây được xem là tài liệu mô tả đầy đủ nhất về đặc điểm và qui mô của
tài nguyên đất vùng đồng bằng sông Hồng.

Vụ quản lý ruộng đất và Viện Thổ nhưỡng Nông hoá rồi sau đó là Viện
Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp đã có những công trình nghiên cứu và quy
trình phân hạng đất vùng sản xuất nông nghiệp nhằm tăng cường công tác
quản lý độ màu mỡ đất và xếp hạng thuế nông nghiệp. Dựa vào chỉ tiêu chính
về điều kiện sinh thái và tính chất đất của từng vùng sinh thái nông nghiệm.
Đất đã được phân hạng thành 5-7 hạng theo phương pháp xếp điểm.
1.1.2.2 Công tác nghiên cứu ở miền Nam.
- Bản đồ đất tổng quát miền Nam Việt Nam (tỷ lệ 1:1000.000) do
F.R.Moorman thực hiện (1961) là tài liệu đầu tiên có tính tổng quát về nghiên
cứu đặc điểm thổ nhưỡng ở phía Nam.
- Năm 1972 những bản đồ ở qui mô tỉnh (tỷ lệ 1:1000.000 và
1:200.000) do sở địa học Sài Gòn ấn hành. Đồng thời những thuyết minh kèm
theo trên từng vùng đất như “Đất đai miền châu thổ sông Cửu Long”, “Đất
đai miền đông Nam bộ” đây được xem là tài liệu cơ bản đầu tiên cho đất ở
miền Nam dùng cho việc quy hoạch sử dụng đất đai.
- Năm 1974, đoàn chuyên gia Hà Lan đã xây dựng “bản đồ tài nguyên
đất đai” ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là tài liệu đầu tiên ở Việt
Nam nghiên cứu tài nguyên đất trong mối quan hệ tương hỗ với các yếu tố tự
nhiên khác (khí hậu, thuỷ văn )
7
Những năm 1980 trở lại đây, các nghiên cứu về đánh giá khả năng sử
dụng đất đai bắt đầu được tiến hành ở Việt Nam. Một số công trình sau đây đã
đặt nền tảng cho công việc nghiên cứu đánh giá đất đai:
- Đánh giá phân hạng đất khái quát toàn quốc (Tôn Thất Chiểu và nhóm
nghiên cứu) thực hiện năm 1984 ở tỷ lệ bản đồ 1:500.000 trên cơ sở dựa vào
nguyên tắc phân loại khả năng đất đai của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, chỉ tiêu sử
dụng là đặc điểm thổ nhưỡng và địa hình, được phân công nhằm mục đích sử
dụng đất đai tổng hợp, bao gồm 7 nhóm đất đai được phân lớp cho sản xuất nông
nghiệp và các mục đích sử dụng khác.
- Trong nghiên cứu đánh giá và qui hoạch sử dụng đất khai hoang ở Việt

Nam (Bùi Quang Toản và nhóm nghiên cứu, 1995) đã áp dụng và phân loại khả
năng của FAO. Tuy nhiên, chỉ đánh giá các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, thuỷ
văn, tưới tiêu, khí hậu nông nghiệp). Trong nghiên cứu này, hệ thống phân vị chỉ
dừng lại ở lớp (class) thích hợp cho từng loại hình sử dụng đất.
Các nhà khoa học đất với các nhà qui hoạch sử dụng đất, quản lý đất
đai ở nước ta đã tiếp thu nhanh chóng tài liệu đánh giá đất đai của FAO,
những kinh nghiệp của các chuyên gia đánh giá đất quốc tế để ứng dụng từng
bước cho công tác đánh giá đất ở Việt Nam.
Ở đồng bằng sông Cửu Long một số nghiên cứu chuyên đề ở khu vực
nhỏ đã bước đầu ứng dụng phương pháp đánh giá đất đai định lượng của FAO
(Lê Quang Trí, 1989, Trần Kim Tính, 1986).
Từ năm 1990 viện qui hoạch và thiết kế nông nghiệp đã thực hiện nhiều
công trình nghiên cứu đánh giá đất trên phạm vi toàn quốc với 9 vùng sinh
thái và nhiều vùng chuyên canh theo các dự án đầu tư. Nguyễn Khang, Phạm
Dương Ưng (1994) với “Kết quả bước đầu đánh giá tài nguyên đất Việt
Nam”. Nguyễn Công Pho (1995) với “Đánh giá đất vùng Đồng bằng Sông
Hồng”, Nguyễn Khang, Nguyễn Văn Tân “Đánh giá đất vùng dự án đa mục
tiêu E.A.Soup”, Nguyễn Chiến Thắng, Cẩn Tiển (1997) “Đánh giá đất tỉnh
8
Bình Định”, Nguyễn Văn Nhân (1995) “Đánh giá khả năng và sử dụng đất
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”.
Hàng loạt các dự án nghiên cứu, các chương trình thử nghiệm ứng dụng
qui trình đánh giá đất đai theo FAO được tiến hành ở cấp từ vùng sinh thái
đến tỉnh, huyện và tổng hợp thành cấp quốc gia đã được triển khai từ Bắc tới
Nam và đã thu được kết quả khả quan, các nhà khoa học đất trên toàn quốc đã
hoàn thành các nghiên cứ đánh giá đất phục vụ cho quy hoạch tổng thể và quy
hoạch sử dụng đất ở các vùng sinh thái lớn.
- Vùng đồng bằng sông Hồng với những công trình nghiên cứu có kết quả
đã công bố của tác giả: Nguyễn Công Pho, Lê Hồng Sơn (1995, Cao Liêm, Vũ
Thị Bình, Quyền Đinh Hà (1992 – 1993), Phạm Văn Lang (1992). Trong

chương trình nghiên cứu vận dụng phương pháp đánh giá đất của FAO, các tác
giả đã kết luận: Vùng đồng bằng sông Hồng có 33 đơn vị đất đai, trong đó có 22
đơn vị đất đai thuộc đồng bằng và 11 đơn vị đất đai thuộc đồi núi.
Tổ chuyên gia thuộc Văn phòng dự án VIE/39/034 (1993) nghiên cứu
đánh giá đất vùng đồng bằng sông Hồng gồm có 7 nhóm chính.
Nguyễn Khang (1993) khi nghiên cứu vận dụng đánh giá đất theo FAO
thực hiện trên bản đồ tỷ lệ: 1:250.000 cho phép đánh giá mức độ tổng hợp phục
vụ cho quy hoạch tổng thể đồng bằng sông Hồng, đã kết luận phân cấp chỉ tiêu
xây dựng bản đồ đơn vị đất đai gồm 4 yếu tố đó là nhóm đất (10 chỉ tiêu), độ dốc
(3 chỉ tiêu), độ dầy tầng đất (3 chỉ tiêu), nước mặt (4 chỉ tiêu).
Các kết quả đánh giá mức độ thích hợp đất đai của các LUT ở các cấp
từ toàn quốc đến bền vững, tỉnh, huyện đều cho thấy có sự nhất quán tuân
theo phương pháp của FAO làm cơ sở cho phân hạng thích hợp đất đai. Đây
chính là bước lựa chọn và phân cấp các chỉ tiêu phân hạng thích hợp đất đai.
Trong điều kiện của Việt Nam, phần lớn các tác giả của chương trình đánh giá
đất đều lấy yếu tố đơn vị đất đai hoặc tính chất đất làm cơ sở của xếp hạng và
phân cấp chỉ tiêu cho đánh giá mức độ thích hợp của các LUT.
9
Tháng 01/1995, hội thảo quốc gia về đánh giá đất và qui hoạch sử dụng
đất trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền do Viện Quy hoạch và Thiết
kế Nông nghiệp tổ chức với sự tham gia và đóng góp của nhiều nhà khoa học.
Hội nghị đã tổng kết và khẳng định phương pháp đánh giá đất do FAO đề
xuất, phù hợp với Việt Nam và kiến nghị Nhà nước cho triển khai ứng dụng.
Kết quả là đã xây dựng tài liệu “Đánh giá đất và đề xuất sử dụng tài nguyên
đất phát triển nông nghiệp bền vững” (thời kỳ 1996-2000 và 2010). Từ những
năm 1996 đến nay các chương trình đánh giá đất cho các vùng sinh thái khác
nhau, các tỉnh đến các huyện trọng điểm đã được thực hiện và những tư liệu,
thông tin có giá trị cho các dự án quy hoạch sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu
cây trồng ở cấp cơ sở, xuất phát từ những nhu cầu sử dụng và quản lý tài
nguyên đất, vấn đề nghiên cứu đất trên cơ sở đánh giá khả năng sử dụng thích

hợp đất đai ở Việt Nam hiện nay là cần thiết nhằm điều tra phân hạng và định
hướng sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên đất một cách hữu hiệu gắn với
quan điểm sinh thái bền vững và bảo vệ môi trường. Các kết quả bước đầu
của các hoạt động đánh giá đất đai trong thời gian qua với sự hỗ trợ và giúp
đỡ tích cực của các cơ quan nhà nước và quốc tế đã và đang góp phần hoàn
thiện quy trình đánh giá đất của Việt Nam.
Sử dụng đất nông nghiệp được đặt ra và xúc tiến năm 1962 do ngành
nông nghiệp chủ trì và được lồng vào các công tác phân vùng sử dụng đất
nông, lâm nghiệp nhưng lại thiếu sự phối hợp của các ngành có liên quan. Kết
quả là xác định phương pháp phát triển nông lâm nghiệp cho vùng lãnh thổ
thường chỉ đạo ngành chủ quản thông qua.
Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp ngày càng được Nhà nước quan tâm
và chỉ đạo một cách sát sao bằng các văn bản pháp luật và coi như là một luận
chứng cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
10
1.2 Những hệ thống nông nghiệp và hệ thống sử dụng đất thích hợp ở
Việt Nam
1.2.1 Một số đặc trưng của hệ thống cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông
nghiệp ở Việt Nam
Hệ thống cây trồng, vật nuôi mang tính khách quan và được hình thành
do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội.
Hệ thống cây trồng, vật nuôi phải đảm bảo các mối quan hệ cân đối và
đồng bộ giữa các bộ phận trong một tổng thể, mà tổng thể đó là một hệ thống
lớn bao trùm những hệ thống nhỏ, mỗi hệ thống nhỏ lại bao gồm nhiều hệ
thống nhỏ hơn gắn bó với nhau một cách chặt chẽ trong mối quan hệ cân đối
và đồng bộ.
Hệ thống cây trồng, vật nuôi không ngừng vận động, biến đổi và phát
triển theo xu hướng ngày càng hoàn thiện hơn, mở rộng hơn và có hiệu quả hơn.
Quá trình vận động, biến đổi chính là quá trình điều chỉnh, chuyển dịch cơ cấu
cây trồng, vật nuôi.

Việc xác định hệ thống cây trồng, vật nuôi cho một vùng hay một khu vực
đảm bảo hiệu quả kinh tế, ngoài việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa hệ thống
cây trồng, vật nuôi với các điều kiện khí hậu, thời tiết, đất đai, quần thể sinh vật,
tập quán canh tác còn có mối quan hệ chặt chẽ với phương hướng sản xuất ở
vùng, khu vực đó.
Chuyển đổi hệ thống cây trồng, vật nuôi cần phải theo hướng tăng
nhanh các sản phẩm có tính hàng hoá, song song với việc nâng cao chất lượng
nông sản.
*) Quan điểm chuyển đổi hệ thống cây trồng, vật nuôi:
- Chuyển đổi hệ thống cây trồng, vật nuôi trên quan điểm sản xuất hàng
hoá và đạt hiệu quả cao.
- Sản xuất luôn luôn phải gắn với thị trường, do đó trong cơ chế của
kinh tế thị trường, yếu tố sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải có một hệ thống cây
11
trồng phù hợp. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng vùng sẽ quyết
định việc chuyển đổi hệ thống cây trồng. Quá trình sản xuất nông nghiệp phải
gắn với chuyên môn hoá và tập trung hoá. Chuyên môn hoá đòi hỏi người sản
xuất phải đạt trình độ cao, tập trung vào một vài sản phẩm chủ yếu. Những
sản phẩm đó chứa một dạng tri thức khoa học kỹ thuật và tổ chức quản lý,
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và
tiêu thụ được sản phẩm.
- Trong nền kinh tế thị trường, hộ gia đình trở thành một đơn vị kinh tế
tự chủ độc lập, người dân tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh
doanh. Điều đó đã kích thích các hộ gia đình khai thác hết mọi tiềm năng về
đất đai, vốn và con người của mình nhằm tạo ra hiệu quả cao trong sản xuất,
nâng cao được tỉ suất hàng hoá thông qua việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đa
dạng hoá cây trồng. Hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, do đó vấn đề áp đặt
một hệ thống cây trồng là không hợp lý, mà chỉ khuyến khích vận động để họ
chủ động nắm bắt và nhanh chóng áp dụng những mô hình canh tác tiến bộ.
Các hộ nông dân căn cứ vào khả năng của gia đình mình để quyết định lựa

chọn hệ thống cây trồng thích hợp [6].
1.2.2 Nghiên cứu về hệ thống nông nghiệp và các hệ thống sử dụng đất
thích hợp ở Việt Nam
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới ẩm Châu Á có nhiều thuận lợi cho phát
triển sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên nguồn đất có hạn, dân số lại đông, bình
quân đất tự nhiên trên người là 0,45 ha, chỉ bằng 1/3 mức bình quân của thế
giới, xếp thứ 135 trên thế giới, xếp thứ 9/10 nước Đông Nam Á. Mặt khác,
dân số lại tăng nhanh làm cho bình quân diện tích đất trên người sẽ tiếp tục
giảm. Tốc độ tăng dân số bình quân trên năm là 2,0%. Theo dự kiến nếu tốc
độ tăng dân số là 1,0 -1,2% năm thì dân số Việt Nam sẽ là 100,8 triệu người
vào năm 2015 [14]. Trong khi đó diện tích đất nông nghiệp có chiều hướng
giảm nhanh do chuyển mục đích sử dụng phục vụ cho công cuộc CNH - HĐH
12
đất nước. Do vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là yêu cầu cần
thiết đối với Việt Nam trong những năm tới [15].
Thực tế những năm qua chúng ta đã quan tâm giải quyết tốt các vấn đề
về kỹ thuật và kinh tế, tổ chức trong sử dụng đất nông nghiệp, việc nghiên
cứu và ứng dụng được tập trung vào các vấn đề như: lai tạo các giống cây
trồng mới ngắn ngày có năng suất cao, bố trí luân canh cây trồng phù hợp với
từng loại đất, thực hiện thâm canh trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất. Các công trình có giá trị trên phạm vi cả nước phải kể đến công
trình nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất đai Việt Nam của Nguyễn Khang và
Phạm Dương Ưng (1993) [16], đánh giá hiện trạng sử dụng đất theo quan
điểm sinh thái và phát triển lâu bền của Trần Anh Phong (1995) [10].
Vùng ĐBSH có tổng diện tích đất nông nghiệp là 903.650 ha, chiếm
44%, diện tích tự nhiên trong vùng. Trong đó, gần 90% đất nông nghiệp dùng
để trồng trọt . Đây là trung tâm sản xuất lương thực lớn thứ 2 của cả nước, là
nơi thu hút nhiều công trình nghiên cứu khoa học, góp phần định hướng cho
việc xây dựng các hệ thống cây trồng và sử dụng đất thích hợp. Ở vùng Đồng
bằng Bắc Bộ đã xuất hiện nhiều mô hình luân canh cây trồng 3-4 vụ một năm

đạt hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt ở các vùng sinh thái ven đô, tưới tiêu chủ
động. Đã có những điển hình về chuyển đổi hệ thống cây trồng, trong việc bố
trí lại và đưa vào những cây trồng có giá trị kinh tế như: hoa, cây ăn quả, cây
thực phẩm cao cấp [8]
Việc quy hoạch tổng thể vùng ĐBSH, nghiên cứu đa dạng hoá sản phẩm
nông nghiệp và phân vùng sinh thái nông nghiệp của nhiều tác giả và các nhà
khoa học như: Vũ Năng Dũng, Trần An Phong, Phùng Văn Phúc. Các tác giả
đã chỉ ra mỗi vùng sinh thái có đặc điểm khí hậu thời tiết, điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội khác nhau cần phải quy hoạch cụ thể và nghiên cứu ở từng vùng
sinh thái thì hiệu quả các biện pháp kinh tế kỹ thuật trong sản xuất mới phát
huy tác dụng và đạt kết quả tốt.
13
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thực hiện các biện pháp quản lý kinh tế
sản xuất tổ chức ngành hàng trong nông nghiệp cũng như trong nông hộ của:
Phạm Vân Đình, Nguyễn Ích Tân, Đỗ Văn Viện
Có thể nhận thấy rằng các nghiên cứu sâu về đất và sử dụng đất trên
đây là những cơ sở cần thiết và có ý nghĩa quan trọng cho các định hướng sử
dụng và bảo vệ đất, cũng như xác định các chỉ tiêu cho đánh giá sử dụng đất,
quản lý đất đai bền vững trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Tóm lại, trong nguyên cứu đánh giá các hệ thống sử dụng đất nông
nghiệp cần xuất phát từ những cách tiếp cận chính sau:
- Nghiên cứu cấu trúc của hệ thống sử dụng đất nông nghiệp và hệ
thống canh tác thích hợp từ lý thuyết hệ thống kết hợp với phương pháp tiếp
cận hệ thống và tổng hợp cả 2 hình thức nghiên cứu là vĩ mô và vi mô.
- Sự hình thành các hệ thống sử dụng đất nông nghiệp phải được bắt
đầu bằng việc đánh giá các yếu tố bên ngoài có tác động trực tiếp đến hệ
thống như những yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội và những yếu tố bên trong:
đất đai, lao động, tiền vốn, kỹ năng nghề nghiệp của người nông dân.
- Nghiên cứu phát triển hệ thống sử dụng đất nông nghiệp phải từ sự
phân tích sâu đối với hệ thống trồng trọt hiện tại, tìm ra những nhược điểm và

nghiên cứu các giải pháp khắc phục để hình thành một hệ thống sử dụng đất
nông nghiệp tiến bộ và bền vững hơn.
1.3 Sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm phát triển bền vững
1.3.1 Sự cần thiết phải sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm phát triển
bền vững
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý báu không chỉ trong hiện tại mà cả
tương lai. Khi dân số trên trái đất còn ít thì diện tích đất luôn đáp ứng một cách
dễ dàng nhu cầu của con người và con người cũng ít tác động lớn đến tài nguyên
quý báu này.
Đất đai có những tác dụng to lớn đối với hệ sinh thái nói chung và cuộc
14
sống của con người nói riêng. Theo E. R De Kimpe và B. F Warkentin (1998)
[25] thì đất có
5 chức năng chính:
+ Duy trì vòng tuần hoàn sinh hoá và địa hoá học.
+ Phân phối nước.
+ Dự trữ và phân phối vật chất.
+ Tính đệm.
+ Phân phối năng lượng.
Những chức năng trên đảm bảo cho khả năng điều chỉnh sự cân bằng
của hệ sinh thái tự nhiên trước những thay đổi trong quá trình sử dụng đất đai
con người đã không chỉ tác động vào đất đai mà còn tác động vào khí quyển,
để tạo thành ngày một nhiều hơn lương thực, thực phẩm và hậu quả là đất đai
và các nhân tố tự nhiên khác bị suy thoái ngày một theo chiều hướng xấu đi.
Vì vậy cần phải có những chiến lược về sử dụng đất để duy trì khả năng hiện
có của đất và nâng cao hiệu quả sử dụng đất ở hiện tại và tương lai.
Theo tài liệu của FAO/UNESCO [25]: trên thế giới hàng năm có
khoảng 15% diện tích đất bị suy thoái vì lý do tác động con người, trong đó
suy thoái vì xói mòn do nước chiếm khoảng 55,7% diện tích, do gió 28% diện
tích, mất chất dinh dưỡng do rửa trôi 12,2% diện tích. Ở Trung Quốc, diện

tích đất bị suy thoái là 280 triệu ha, chiếm 30% lãnh thổ, trong đó có 36,67
triệu ha đất đồi bị xói mòn nặng; 6,67 triệu ha đất bị chua mặn; 4 triệu ha đất
bị úng, lầy. Tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương có khoảng 860 ha đất đã bị
hoang mạc hoá làm ảnh hưởng đến đời sống của 150 triệu người. Theo kết
quả điều tra của FAO 1992 [23], do chế độ canh tác không tốt đã gây xói mòn
đất nghiêm trọng dẫn đến suy thoái đất, đặc biệt ở vùng nhiệt đới và vùng đất
dốc. Mỗi năm lượng đất bị xói mòn tại các châu lục là: Châu Âu, Châu Úc,
Châu Phi: 5 -10 tấn/ha, Châu Mỹ: 10 - 20 tấn/ha; Châu Á: 30 tấn/ha.
15
Những vấn đề môi trường đã trở nên mang tính toàn cầu và được phân
thành 2 loại chính: một loại gây ra bởi công nghiệp hoá và các kỹ thuật hiện
đại, loại khác gây ra bởi lối canh tác tự nhiên. Hệ sinh thái nhiệt đới vốn cân
bằng một cách mỏng manh rất dễ bị đảo lộn bởi các phương thức canh tác
phản tự nhiên, buộc con người phải sản xuất nông nghiệp theo hướng sử dụng
tài nguyên và bảo vệ môi trường, thoả mãn các yêu cầu của thế hệ hiện tại
nhưng không làm phương hại đến nhu cầu của các thế hệ tương lai, đó là mục
tiêu của việc xây dựng và phát triển nông nghiệp bền vững và đó cũng là
hướng đi trong tương lai [12].
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới ẩm Châu Á có nhiều thuận lợi cho phát
triển sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên nguồn đất có hạn, dân số lại đông, bình
quân đất tự nhiên trên người là 0,45 ha, chỉ bằng 1/3 mức bình quân của thế
giới, xếp thứ 135 trên thế giới, xếp thứ 9/10 Đông Nam Á. Mặt khác, dân số
lại tăng nhanh làm cho bình quân diện tích đất trên người sẽ tiếp tục giảm.
Trong khi đó diện tích đất nông nghiệp có chiều hướng giảm nhanh do
chuyển mục đích sử dụng. Vì thế nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
là yêu cầu cần thiết đối với Việt Nam trong những năm tới.
1.3.2 Quan điểm sử dụng đất sản xuất nông nghiệp bền vững
Sử dụng đất một cách hiệu quả và bền vững luôn là mong muốn cho
sự tồn tại và tương lai phát triển của loài người. Chính vì vậy việc nghiên cứu
và đưa ra các giải pháp sử dụng đất thích hợp, bền vững đã được nhiều nhà

khoa học đất và các tổ chức quốc tế quan tâm. Thuật ngữ “sử dụng đất bền
vững” (Sustainable Land Use) đã trở thành thông dụng trên thế giới hiện nay.
Nông nghiệp bền vững là một hệ thống thiết kế để tạo môi trường bền
vững cho cuộc sống của con người. Mục đích của nông nghiệp bền vững là
xây dựng một hệ thống ổn định về mặt sinh thái, có tiềm lực kinh tế, có khả
năng thoả mãn những nhu cầu của con người mà không bóc lột đất đai, không
16
làm ô nhiễm môi trường. Nông nghiệp bền vững phải coi thiên nhiên là môi
trường lý tưởng để phát triển một cách hoà hợp với thiên nhiên.
Hệ thống canh tác lấy năng lượng, nguyên liệu từ môi trường, nếu khai
thác cạn kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo được, hoặc khai thác quá khả
năng phục hồi của nguồn tài nguyên này sẽ dẫn đến không còn nguyên liệu,
năng lượng. Phải loại bỏ khả năng sản xuất hoặc triệt tiêu hệ thống canh tác.
Do vậy khi bố trí các hệ thống canh tác các nhà khoa học bao giờ cũng phải
cân nhắc đến hiệu quả kinh tế và môi trường.
Không có ai hiểu biết hệ sinh thái nông nghiệp ở một vùng bằng chính
những người sinh ra và lớn lên ở đó. Vì vậy, xây dựng nông nghiệp bền vững
cần thiết phải có sự tham gia của người nông dân trong vùng nghiên cứu. Phát
triển bền vững là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên thiên nhiên, định
hướng những thay đổi công nghệ và thể chế theo một phương thức hợp lý để
đạt đến sự thoả mãn một cách liên tục những nhu cầu của con người, của
những thế hệ hôm nay và mai sau [23].
FAO đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là:
- Thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương
lai về số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác.
- Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống, làm
việc tốt cho mọi người trực tiếp làm nông nghiệp.
- Duy trì và tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài nguyên
thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên tái tạo được mà
không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở cân bằng tự nhiên,

không phá vỡ bản sắc văn hoá - xã hội của các cộng đồng sống ở nông thôn,
hoặc không gây ô nhiễm môi trường.
- Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng
tin trong nông dân.
17
Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển đã họp tại
Rio De Janerio - Braxin, đã định hướng cho các quốc gia, các tổ chức quốc tế
chiến lược về môi trường và phát triển bền vững để bước vào thế kỷ 21. UNDP
đã đưa ra cách thức sử dụng đất bền vững được xác định theo 5 nguyên tắc:
- Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất (năng suất).
- Giảm mức rủi ro đối với sản xuất (an toàn).
- Bảo vệ tiềm năng các nguồn tài nguyên tự nhiên chống lại được sự
thoái hoá đối với chất lượng đất và nước (bảo vệ).
- Khả thi về mặt kinh tế (tính khả thi).
- Được sự chấp nhận của xã hội (sự chấp nhận).
Năm nguyên tắc nêu trên được coi là những trụ cột của sử dụng đất bền
vững và là những mục tiêu cần đạt được. Thực tế nếu các nguyên tắc trên diễn
ra đồng bộ so với các mục tiêu đặt ra thì khả năng bền vững sẽ đạt được, nếu
chỉ đạt một hay một vài mục tiêu đặt ra mà không phải tất cả thì khả năng bền
vững chỉ mang tính bộ phận [23].
Như vậy, sử dụng đất bền vững không chỉ thuần tuý về mặt tự nhiên mà
còn cả về mặt môi trường, lợi ích kinh tế và xã hội.
Năm nguyên tắc trên nếu trong thực tế đạt được đầy đủ thì sự bền vững
trong sử dụng đất sẽ thành công, ngược lại sẽ chỉ đạt được khả năng bền vững
một số bộ phận hay chỉ bền vững có điều kiện. Theo quan điểm và nguyên tắc
FAO thì sử dụng đất bền vững áp dụng vào điều kiện ở Việt Nam cần phải thể
hiện ở ba nguyên tắc sau:
+ Bền vững về mặt kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và được
thị trường chấp nhận.
+ Bền vững về mặt môi trường: Loại hình sử dụng đất bảo vệ được đất

đai, ngăn chặn sự thoái hoá đất, bảo vệ môi trường tự nhiên.
+ Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được nhiều lao động, đảm bảo đời
sống người dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
18
Tóm lại, hoạt động sản xuất nông nghiệp của con người diễn ra hết sức
đa dạng trên nhiều vùng đất khác nhau. Vì vậy khái niệm sử dụng đất bền
vững thể hiện nhiều hoạt động sản xuất và quản lý đất đai trên nhiều vùng đất
xác định theo nhu cầu và mục đích sử dụng của con người. Đất đai trong sản
xuất nông nghiệp chỉ được gọi là sử dụng bền vững trên cơ sở duy trì các
chức năng chính của đất là đảm bảo khả năng sản xuất của cây trồng một cách
ổn định, không làm suy giảm về chất lượng tài nguyên đất theo thời gian và
việc sử dụng đất không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con
người và sinh vật.
Ở Việt Nam nền văn minh lúa nước đã hình thành từ hàng ngàn năm nay,
có thể coi là một mô hình nông nghiệp bền vững ở vùng đồng bằng, thích hợp
trong điều kiện thiên nhiên ở nước ta. Gần đây, những mô hình sử dụng đất như
VAC (vườn, ao, chuồng), mô hình nông - lâm kết hợp trên đất đồi thực chất là
những kinh nghiệm truyền thống được đúc rút ra từ quá trình lao động sản xuất
lâu dài, bền vững với thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại và phát triển.
1.4 Sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
1.4.1. Khái niệm về sản xuất nông nghiệp
- Đối với nông dân, những sản phẩm được bán ra ngoài thì gọi là sản
phẩm hàng hóa.
- Đối với hệ thống trồng trọt, nếu mức hàng hóa sản xuất được bán ra thị
trường dưới 50% gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hóa một phần, nếu trên
50% gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hóa ( sản xuất theo hướng hàng hóa).
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động dùng để trao đổi, Sản xuất hàng
hóa là sản xuất ra sản phẩm đem bán để thu về giá trị của nó trong đó có phần
giá trị thặng dư để tái sản xuất và mở rộng quy mô. Hàng hóa là sản phẩm do
lao động tạo ra, dùng để trao đổi, sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển dựa

trên cơ sở phát triển các phương thức sản xuất vá sự phân công lao động xã
hội. Sự phân công ấy ngày càng cao, càng sâu sắc, trình độ chuyên môn hóa
19
cao thì sản xuất hàng hóa càng phát triển, đời sống người dân ngày một tăng
lên. Điều đó làm cho quá trình trao đổi diễn ra mạnh hơn, sản xuất hàng hóa
ngày càng phát triển đa dạng hơn.
1.4.2 Một số định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa ở Việt Nam.
Những năm gần đây Chính phủ đã ban hành một số chính sách về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Theo đó 10
năm tới những ngành sản xuất hàng hoá quan trọng của nông nghiệp nước ta
cần phát triển theo định hướng sau:
- Về sản xuất lương thực: Lúa gạo là ngành sản xuất có thế mạnh, sản
lượng ổn định khoảng 33 triệu tấn/năm. Cây màu lương thực chủ yếu là ngô, cần
phát triển đạt mức 5 - 6 triệu tấn/năm đủ nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi.
- Về cây công nghiệp ngắn ngày: Phát triển mạnh cây có dầu (Lạc, đậu
tương, vừng, hướng dương…) để cung cấp dầu ăn, các loại cây có sợi (dâu
tằm, bông…) gắn với ngành ươm tơ dệt lụa.
- Những cây công nghiệp lâu năm truyền thống có giá trị kinh tế cao, tập
trung phát triển cà phê, chè; sản lượng cà phê trong tương lai giữ mức khoảng
600.000 tấn/năm. Phát triển mạnh cây điều ở miền trung, diện tích cây cao su.
Bên cạnh đó phát triển mạnh công nghiệp chế biến các sản phẩm mủ từ cao su,
gỗ cao su.
- Về rau, hoa quả và cây cảnh, ngoài các loại rau truyền thống, phát
triển các loại rau cao cấp mới như: Các loại đậu rau, ngô rau, măng, nấm ăn,
nấm dược liệu… là những loại rau có giá trị dinh dưỡng cao, có thị trường
tiêu thụ, tiếp tục phát triển các loại cây ăn quả có khả năng xuất khẩu: vải,
nhãn, dứa, thanh long … gắn với công nghiệp chế biến.
- Về lâm nghiệp: ngoài việc bảo vệ, khoanh nuôi, tái sinh, trồng rừng
phòng hộ, cần phát triển rừng sản xuất. Cụ thể là phát triển các loại tre trúc,

20

×