Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố thái nguyên, giai đoạn 2008 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 99 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện
tồn tại và phát triển của nền sản xuất xã hội, của bản thân con người và là điều
kiện sinh tồn của thế giới động, thực vật trên Trái đất. Đất đai tham gia vào tất
cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một tư liệu sản xuất đặc biệt.
Tuy nhiên, đất đai là một nguồn tài nguyên hữu hạn, nó chỉ trở nên vô hạn và
quý giá tuỳ thuộc hoàn toàn vào sự hiểu biết và thái độ đối xử của con người
đối với đất đai.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế quốc dân trong điều
kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, các công trình đô thị,
công trình dân cư phát triển với quy mô và tốc độ ngày càng lớn, đòi hỏi công
tác quản lý đất đai phải thực hiện tiết kiệm và hiệu quả; đảm bảo hài hòa lợi
ích giữa Nhà nước với người sử dụng đất, đồng thời thúc đẩy hình thành thị
trường bất động sản công khai và lành mạnh trên cơ sở kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước.
Từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, Việt Nam trong quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng
xã hội chủ nghĩa đã và đang thu được những thành công đáng kể, đó là tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế cao và kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh. Vào những năm
gần đây kinh tế nước ta có những bước tiến vượt bậc, đặc biệt là từ khi chúng
ta ra nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tổng sản phẩm trong nước
bình quân tăng nhanh, chất lượng cuộc sống từng bước được nâng cao Tuy
nhiên, bên cạnh sự phát triển về kinh tế là sự bùng nổ dân số và tốc độ đô thị
hóa ngày càng tăng, hình thành các khu đô thị, các khu công nghiệp lớn gây
biến động đất đai tại các địa phương.
1
Cùng với sự phát triển chung của cả nước, tốc độ đô thị hoá của tỉnh
Thái Nguyên diễn ra mạnh mẽ. Là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc, cách
Hà Nội 80km về phía Bắc, tiếp giáp với 6 tỉnh, có hệ thống giao thông đường
bộ, đường sắt nối liền với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh trong vùng rất thuận tiện


cho việc vận chuyển, lưu thông hàng hoá. Không những thế Thái Nguyên còn
là trung tâm văn hóa của các tỉnh miền núi phía Bắc, là nơi tập trung của rất
nhiều trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề Trong những năm gần
đây Thái Nguyên không ngừng phát triển, cơ sở hạ tầng cũng được đầu tư
nâng cấp hoàn thiện dần.
Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa đã làm đất đai khu vực biến động
mạnh cả về mục đích sử dụng và đối tượng sử dụng đất. Diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp, thay vào đó là các khu đô thị tăng lên. Việc quản
lý, sử dụng đất trở lên phức tạp hơn, việc mua bán, trao đổi, chuyển mục đích
sử dụng đất trái phép diễn ra ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước. Giá cả đất
đai khu đô thị trên thị trường thường tăng cao và có những biến động phức
tạp. Ngoài ra, sự phát triển của các khu đô thị đã thu hút lực lượng lao động
lớn từ nông thôn ra thành thị gây lên sự bất ổn xã hội như: giải quyết việc
làm, nhu cầu đất ở, ô nhiễm môi trường….
Quá trình đô thị hóa đã, đang và sẽ mang lại các mặt tích cực như thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội rõ rệt, đồng thời do sự phát triển của xã hội và vấn đề đô
thị hóa nên diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, và nếu không có biện
pháp quản lý một cách thích hợp thì chẳng bao lâu nữa đất nông nghiệp sẽ chẳng
còn bao nhiêu. Chẳng hạn như những diện tích dành để bố trí các công trình kinh
tế đầu mối, các khu dân cư, các công trình cơ sở sản xuất, dịch vụ y tế, đào tạo
nghiên cứu khoa học, một diện tích lớn khác đã được xây làm nhà ở, để tách hộ,
để bán, để tự kinh doanh
Đứng trước những vấn đề trên, để tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân sử
dụng đất cũng như mong muốn tham mưu, tìm ra những giải pháp có hiệu quả
2
nhằm khắc phục những vấn đề bức xúc nêu trên, góp phần hoàn thiện công
tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là hết sức cần thiết nhằm hoàn thiện hơn
nữa công tác quản lý Nhà nước về đất đai; nâng cao tính khả thi của việc sử
dụng đất hợp lý, hiệu quả cao; tạo cơ sở pháp lý vững chắc để các tổ chức
kinh tế, cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình về sử dụng đất đối với

Nhà nước; đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất phát từ những vấn đề
trên và nhu cầu thực tiễn, được sự đồng ý của Khoa Sau đại học, Trường Đại
học Nông Lâm, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Viết Khanh, tôi triển
khai nghiên cứu đề tài: “Thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, giai đoạn 2008 - 2012”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trên
địa bàn thành phố Thái Nguyên, giai đoạn 2008 – 2012.
- Đánh giá ảnh hưởng của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
đến hộ gia đình.
- Tìm ra giải pháp cho sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả và không
ảnh hưởng đến quá trình đô thị hoá.
3. Yêu cầu của đề tài nghiên cứu
- Phân tích, đánh giá quá trình đô thị hoá của thành phố Thái Nguyên.
- Đánh giá tình hình quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố
Thái Nguyên.
- Đánh giá tình hình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trên
địa bàn thành phố Thái Nguyên trong giai đoạn 2008 – 2012.
- Đánh giá ảnh hưởng của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
đến hộ gia đình.
3
- Đánh giá những kết quả đạt được, những khó khăn, thuận lợi trong quá
trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
- Đưa ra những nguyên nhân, tồn tại, khó khăn để từ đó đề xuất giải pháp
khắc phục có tính khả thi phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học: Là cơ hội cho bản
thân củng cố kiến thức đã học, đồng thời là cơ hội cho bản thân tiếp cận với
tình hình chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp tại địa phương.

- Ý nghĩa trong thực tiễn: Tìm ra những mặt hạn chế và tích cực của quá
trình chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hoá -
hiện đại hoá. Từ đó đề xuất ra những giải pháp thích hợp, phù hợp với điều
kiện thực tế của địa phương, góp phần đẩy nhanh quá trình sử dụng đất đạt
hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý luận
Đề tài là công trình khoa học nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống về các chính sách đất đai, đặc biệt là chính sách chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên và đề xuất
hướng hoàn thiện chính sách kèm theo các giải pháp thực hiện.
Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố để ngày càng văn minh, giàu đẹp, sánh vai
với các thành phố lớn trong khu vực và trên cả nước; góp phần vào việc nâng
cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và hoàn thiện
chính sách, phương thức chuyển đổi mục đích sử dụng đất nói riêng trên địa
bàn thành phố; góp phần hạn chế, giải toả những bức xúc về khiếu kiện của
công dân khi bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất để thực hiện các dự án trên
địa bàn.
* Khái niệm về chuyển mục đích sử dụng đất
Chuyển mục sử dụng đất mới được Luật đất đai đề cập đến từ năm 2001
(khi sửa đổi, bổ sung lần thứ 2 Luật Đất đai 1993).
Chuyển mục đích sử dụng đất là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
ra quyết định hành chính cho phép chuyển mục đích sử dụng với những diện
tích đất cụ thể từ mục đích này sang mục đích khác.
Luật đất đai 2003 quy định, Nhà nước căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân

cư nông thôn; Căn cứ vào nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư,
đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm
5
quyền xét duyệt mà cho phép người sử dụng đất được chuyển sang sử dụng
vào mục đích khác ngay trên diện tích đất mà họ đang sử dụng.
Nhà nước không phải thu hồi rồi giao lại mà chỉ cần cho phép người sử
dụng được thực hiện nghĩa vụ tài chính và công nhận cho họ được chuyển
sang sử dụng vào mục đích khác.
* Mục đích của chuyển mục đích sử dụng đất
- Đa dạng các hình thức có được đất để sử dụng của người sử dụng.
- Đơn giản thủ tục hành chính trong việc phân phối lại đất đai.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Như vậy, Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép người sử dụng đất
chuyển mục đích sử dụng đất đều là các hoạt động trao quyền sử dụng đất từ
Nhà nước cho người sử dụng đất hoặc đồng ý cho người đang sử dụng đất
chuyển sang mục đích khác. Các hoạt động này đều nhằm:
+ Đáp ứng được các nhu cầu đối tượng sử dụng đất, kể cả trong nước và
ngoài nước.
+ Đảm bảo cho đất đai được phân phối và phân phối lại cho các đối
tượng sử dụng được sử dụng hợp pháp, đúng mục đích mà Nhà nước đã quy
định, đạt hiệu quả cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
+ Xác lập mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước với người sử dụng làm cơ
sở để giải quyết mọi mối quan hệ đất đai và người sử dụng yên tâm thực hiện
các quyền của mình trên diện tích đất đó.
Nhà nước thu hồi đất nhằm thực hiện quyền định đoạt của Nhà nước đối
với đất đai để thực hiện quyền quyết định duy nhất của Nhà nước đối với đất
đai và đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai.
* Vai trò của chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất đóng vai trò trung tâm để phát triển
kinh tế, chính trị, thương mại, văn hóa của xã hội.

6
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp hóa
nhanh chóng.
* Các đối tượng nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
Các đối tượng nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất:
- Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp
- Tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế - xã hội
- Tổ chức sự nghiệp công
- Hộ gia đình, cá nhân trong nước
Các đối tượng trên khi được giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất có đầy đủ các điều kiện về hồ sơ theo quy định thể hiện nhu cầu xin
giao đất, xin thuê đất, xin chuyển mục đích sử dụng đất của họ; phù hợp với
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất hay chuyển
mục đích sử dụng đất.
* Các hình thức chuyển mục đích sử dụng đất
Điều 36, Luật Đất đai năm 2003, quy định việc chuyển mục đích sử
dụng làm 2 trường hợp sau:
- Những trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải xin phép của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền
+ Chuyển đất chuyên trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng
rừng, đất nuôi trồng thủy sản;
+ Chuyển đất trồng rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng vào
mục đích khác;
+ Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp
+ Chuyển đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử
dụng đất sang đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất hoặc thuê đất;
7

+ Chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở [9].
- Những trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất không phải xin phép
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
Tất cả những trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất không thuộc quy
định trong 5 trường hợp trên thì người sử dụng đất không phải xin phép cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền, nhưng phải đăng ký với văn phòng của tổ
chức có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất (Văn phòng đăng ký quyền
sử dụng đất) hoặc Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất.
Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất phụ thuộc vào mục đích sử
dụng nên sau khi chuyển mục đích sử dụng đất thì quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất có thể bị thay đổi. Nguyên tắc chung là quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất, chế độ sử dụng đất được áp dụng theo loại đất sau khi chuyển mục
đích sử dụng. Thời hạn sử dụng đất sau khi chuyển mục đích được thực hiện
theo quy định tại Khoản 3 Điều 67 và Điều 68 Luật Đất đai 2003 [9].
1.1.2. Cơ sở pháp lý
Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đất đai đã và đang đặt ra một
đòi hỏi bức bách của các ngành, các cấp và của đại đa số quần chúng nhân
dân với kỳ vọng có cơ chế quản lý đất đai thông thoáng, hấp dẫn để khuyến
khích, thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và tất cả các đối tượng có nhu
cầu sử dụng đất nhanh chóng có đất để sản xuất; thông qua đó nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng đất, khơi dậy nguồn lực phát triển đất nước. Sau đây là một số
Văn bản là cơ sở pháp lý để quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên đất ở nước ta.
1.1.2.1. Một số văn bản của Nhà nước
- Luật Đất đai được Quốc hội nước Cộng hòa xã hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003.
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính
phủ về thi hành luật đất đai 2003.
8
- Thông tư số 01/2005/TT- BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường
ngày 13 ngày 4 tháng 2004 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định

181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật
Đất đai.
- Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
- Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 của Chính
phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
- Nghị định số 198/2004/NĐ–CP của Chính phủ ngày 03 tháng 12 năm
2004 về thu tiền sử dụng đất.
- Thông tư số 117/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12
năm 2004 về thu tiền sử dụng đất.
- Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 về việc sửa đổi bổ
sung một số điều của các Nghị định của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25 tháng 05 năm
2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trình
tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi và giải quyết
khiếu nại về đất đai.
- Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 7 năm 2007 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường; Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT/BTC-
BTNMT ngày 31 tháng 01 năm 2008 của Liên bộ Tài chính – Tài nguyên và
Môi trường, hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-
CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính Phủ.
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính
phủ qui định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.1.2.2. Một số văn bản của UBND tỉnh Thái Nguyên
9
- Chỉ thị số 16/2004/CT-UB ngày 13 tháng 8 năm 2004 của UBND tỉnh
Thái Nguyên về việc triển khai thực hiện Luật Đất đai 2003.
- Quyết định số 1883/2005/QĐ-UBND ngày 16 tháng 9 năm 2005 của

UBND tỉnh Thái Nguyên ban hành quy định về hạn mức đất ở khi giao đất và
hạn mức công nhận đất ở đối với trường hợp thửa đất có vườn, ao khi cấp
GCN quyền sử dụng đất cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh.
Quyết định số 1597/QĐ-UBND ngày 10/8/2007 của UBND tỉnh Thái
Nguyên V/v điều chỉnh cấp đổi GCN quyền sử dụng đất, GCN quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với thửa đất có vườn, ao đã cấp vượt hạn
mức đất ở theo quy định do không tách diện tích đất ở và đất vườn ao trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Quyết định số 326/2006/QĐ-UBND ngày 27 tháng 2 năm 2006 của
UBND tỉnh Thái Nguyên về việc ban hành quy trình về thu hồi đất, quản lý
quỹ đất đã thu hồi, trình tự thủ tục xin giao đất, cho thuê đất, cấp GCNQSD
đất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Quyết định số 867/2007/QĐ-UBND ngày 14 tháng 5 năm 2007 của
UBND tỉnh Thái Nguyên V/v ban hành quy định về thu hồi đất, quản lý quỹ
đất đã thu hồi; trình tự, thủ tục xin giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 05 tháng 1 năm 2010 của UBND
tỉnh Thái Nguyên về việc ban hành quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
1.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất nông nghiệp trên Thế giới và ở Việt
Nam
1.2.1. Tình hình quản lý và sử dụng đất nông nghiệp trên Thế giới
Tổng diện tích bề mặt của toàn thế giới khoảng 510 triệu km
2
trong đó đại
dương chiếm 361 triệu km
2
(chiếm 71%), còn lại là diện tích lục địa chỉ chiếm
149 triệu km
2

(chiếm 29%). Bắc bán cầu có diện tích lục địa lớn hơn nhiều so
10
với Nam bán cầu. Toàn bộ quỹ đất có khả năng sản xuất nông nghiệp trên thế
giới là 3.256 triệu ha (chiếm khoảng 22% tổng diện tích đất liền. Diện tích đất
nông nghiệp trên thế giới được phân bố không đều: Châu Mỹ chiếm 35%,
Châu Á chiếm 26%, Châu Âu chiếm 13%, Châu Phi chiếm 6%. Đất trồng trọt
toàn thế giới mới đạt 1,5 tỷ ha, chiếm 10,8% tổng diện tích đất đai trong đó có
46% đất có khả năng sản xuất nông nghiệp như vậy còn 54% đất có khả năng
sản xuất nhưng chưa được khai thác. Diện tích đất đang canh tác trên thế giới chỉ
chiếm 10% tổng diện tích tự nhiên (khoảng 1.500 triệu ha), được đánh giá là:
Đất có năng suất cao: 14%
Đất có năng suất TB: 28%
Đất có năng suất thấp: 28%
Nguồn tài nguyên đất trên thế giới hàng năm luôn bị giảm, đặc biệt là đất
nông nghiệp mất đi do chuyển sang mục đích khác. Mặt khác dân số ngày
càng tăng, theo ước tính mỗi năm dân số thế giới tăng từ 80 – 85 triệu người.
Như vậy với mức tăng này mỗi người cần phải có 0,2 – 0,4 ha đất nông
nghiệp mới đủ lương thực, thực phẩm. Đứng trước những khó khăn rất lớn đó
thì việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất cũng như tình hình chuyển mục đích sử
dụng đất nông nghiệp là hết sức cần thiết. [24]
Dân số ngày một tăng cùng với những phát hiện mới về thiên nhiên, con
người đã nghĩ ra nhiều phương thức sản xuất mới, nhiều ngành nghề khác
nhau để kiếm sống. Quá trình chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp đều
xảy ra ở tất cả các nước trên thế giới. Tuy nhiên, có sự khác nhau về mức độ
đô thị hóa cũng như diện tích đất được chuyển mục đích hàng năm. Quá trình
chuyển mục đích trên thế giới diễn ra sớm hơn với tốc độ mạnh mẽ hơn ở
Việt Nam. Đặc biệt là ở một số nước phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức,
Italia, Nhật Bản vv…thì tốc độ đô thị hóa nhanh đã làm quá trình chuyển mục
đích sử dụng đất trong đó có đất nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ hơn. Tuy
nhiên, chính quá trình đô thị hoá, chuyển mục đích sử dụng đất một cách hợp

11
lý đã giúp nền kinh tế của các nước này phát triển khá nhanh trong những
năm qua. Để đạt được những thành tựu đó thì công tác quản lý đất đai ở các
quốc gia này được thực hiện khá tốt. Một trong những nước điển hình về công
tác quản lý Nhà nước về đất đai đó là nước Pháp. Pháp là quốc gia phát triển
thuộc hệ thống quốc gia TBCN, tuy thể chế chính trị khác nhau, nhưng nước
ta chịu ảnh hưởng của phương pháp tổ chức QLNN trong lĩnh vực đất đai khá
rõ của Cộng hòa Pháp. Vấn đề này dễ lý giải vì Nhà nước Việt Nam hiện
đang khai thác khá hiệu quả những tài liệu quản lý đất đai do chế độ thực dân
để lại, đồng thời ảnh hưởng của hệ thống quản lý đất đai thực dân còn khá rõ
nét trong ý thức một bộ phận công dân Việt Nam hiện nay. Quản lý đất đai
của Nước Cộng hòa Pháp có một số đặc điểm đặc trưng sau:
Về chế độ sở hữu tài sản là bất khả xâm phạm và thiêng liêng, không ai
có quyền buộc người khác phải nhường quyền sở hữu của mình. Ở Pháp hiện
nay tồn tại hai hình thức sở hữu cơ bản: SHTN về đất đai và SHNN (đối với
đất đai và công trình xây dựng công cộng). Tài sản công cộng (bao gồm cả
đất đai công cộng) có đặc điểm là không được mua và bán. Trong trường hợp
cần sử dụng đất cho các mục đích công cộng, Nhà nước có quyền yêu cầu sở
hữu đất đai tư nhân nhường quyền sở hữu thông qua chính sách bồi thường
thiệt hại một cách công bằng.
Về công tác quy hoạch đô thị: Do đa số đất đai thuộc SHTN, vì vậy để
phát triển đô thị, ở Pháp công tác quy hoạch đô thị được quan tâm chú ý từ rất
sớm và thực hiện rất nghiêm ngặt. Ngay từ năm 1919, ở Pháp đã ban hành
Đạo luật về kế hoạch đô thị hóa cho các thành phố có từ 10.000 dân trở lên.
Năm 1973 và năm 1977, Nhà nước đã ban hành các Nghị định quy định các
quy tắc về phát triển đô thị, là cơ sở để ra đời Bộ Luật về phân cấp quản lý,
trong đó có sự xuất hiện của một tác nhân mới rất quan trọng trong công tác
quản lý của Nhà nước về quy hoạch đó là cấp xã. Cho đến nay, Luật Đô thị ở
Pháp vẫn không ngừng phát triển, nó liên quan đến cả quyền SHTN và sự can
12

thiệp ngày càng sâu sắc hơn của Nhà nước, cũng như của các cộng đồng địa
phương vào công tác quản lý đất đai, quản lý quy hoạch đô thị. Nó mang ý
nghĩa kinh tế rất lớn thông qua việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các ngành
khác nhau như bất động sản, xây dựng và quy hoạch lãnh thổ…
Về công tác quản lý Nhà nước đối với đất đai: Mặc dù là quốc gia duy trì
chế độ SHTN về đất đai, nhưng công tác QLNN về đất đai của Pháp được
thực hiện rất chặt chẽ. Điều đó được thể hiện qua việc xây dựng hệ thống hồ
sơ địa chính. Hệ thống hồ sơ địa chính rất phát triển, rất quy củ và khoa học,
mang tính thời sự để quản lý tài nguyên đất đai và thông tin lãnh thổ, trong đó
thông tin về từng thửa đất được mô tả đầy đủ về kích thước, vị trí địa lý,
thông tin về tài nguyên và lợi ích liên quan đến thửa đất, thực trạng pháp lý
của thửa đất. Hệ thống này cung cấp đầy đủ thông tin về hiện trạng, phục vụ
nhiệm vụ quy hoạch, quản lý và SDĐ có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của cộng
đồng, đảm bảo cung cấp thông tin cho hoạt động của ngân hàng và tạo cơ sở
xây dựng hệ thống thuế đất và BĐS công bằng.
Ngoài Pháp thì Mỹ cũng là một trong các quốc gia có hệ thống pháp luật
về đất đai rất phát triển có khả năng điều chỉnh được các quan hệ xã hội đa
dạng và phức tạp nhất. Luật đất đai của Mỹ quy định công nhận và khuyến
khích quyền SHTN về đất đai, các quyền này được pháp luật bảo hộ rất chặt
chẽ như là một quyền cơ bản của công dân. Cho đến nay có thể thấy các quy
định này đang phát huy rất có hiệu quả trong việc phát triển kinh tế đất nước,
vì nó phát huy được hiệu quả đầu tư để nâng cao giá trị của đất đai và làm
tăng đáng kể hiệu quả SDĐ trong phạm vi toàn xã hội.
Tuy công nhận quyền SHTN, nhưng luật đất đai của Mỹ vẫn khẳng định
vai trò ngày càng lớn và có vị trí quyết định của Nhà nước trong quản lý đất
đai. Các quyền định đoạt của Nhà nước bao gồm: Quyền quyết định về quy
hoạch và kế hoạch sử dụng đất, quyền quy định về quy hoạch kiến trúc đô thị
và công trình xây dựng; quyền quy định về mục đích sử dụng đất; quyền xử lý
13
các tranh chấp về quyền sử dụng đất và quyền ban hành các quy định về tài

chính đất (thu thuế kinh doanh BĐS; quy định mức giá thuê đất hoặc thuê bất
động sản…). Quyền thu hồi đất thuộc SHTN để phục vụ các lợi ích công cộng
trên cơ sở đền bù công bằng cho người bị thu hồi… bản chất quyền SHTN về
đất đai ở Mỹ tương đương với quyền SDĐ ở Việt Nam.
Như vậy có thể nói, hầu hết các quốc gia trên thế giới (dù quy định chế
độ sở hữu đối với đất đai khác nhau), đều có xu hướng ngày càng tăng cường
vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai. Xu thế này phù hợp với sự phát
triển ngày càng đa dạng của các quan hệ kinh tế, chính trị theo xu hướng toàn
cầu hóa hiện nay. Mục tiêu của mỗi quốc gia là nhằm quản lý chặt chẽ, hiệu
quả tài nguyên trong nước, tăng cường khả năng cạnh tranh, để phục vụ cao
nhất cho quyền lợi của quốc gia, đồng thời có những quy định phù hợp với xu
thế mở cửa, phát triển, tạo điều kiện để phát triển hợp tác đầu tư giữa các
quốc gia thông qua các chế định pháp luật thông thường, cởi mở nhưng vẫn
giữ được ổn định về an ninh kinh tế và an ninh quốc gia. [2]
1.2.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.121,20 nghìn ha, trong đó đất
nông nghiệp là 24.696 nghìn ha (chiếm 74,56% tổng diện tích tự nhiên). Diện
tích đất bình quân trên đầu người ở Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất thế giới.
Ngày nay với áp lực về dân số và tốc độ đô thị hóa kèm theo là những quá
trình xói mòn, rửa trôi bạc màu do mất rừng, mưa lớn, canh tác không hợp lý,
chăn thả quá mức, quá trình chua hóa, mặn hóa, hoang mạc hóa, cát bay, đá lộ
đầu, mất cân bằng dinh dưỡng… cùng với chế độ chăm bón chưa phù hợp, tỷ
lệ bón phân N : P : K trên thế giới là 100 : 33 : 17, còn ở Việt Nam là 100 : 29
: 7 thiếu lân và kali nghiêm trọng dẫn đến diện tích đất đai nước ta nói chung
ngày càng giảm, đặc biệt là đất nông nghiệp. Tính theo bình quân đầu người
thì diện tích đất tự nhiên giảm 26,7%, đất nông nghiệp giảm 21,5%. Vì vậy,
để đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm trong khi diện tích đất nông
14
nghiệp ngày càng giảm đang là một áp lực rất lớn. Do đó, việc sử dụng hiệu quả
nguồn tài nguyên đất nông nghiệp càng trở nên quan trọng đối với nước ta. [25]

Tình hình sử dụng đất cũng như quản lý đất đai của nước ta qua mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau thì lại có những điểm mới để phù hợp với quá trình
phát triển chung. Trong những năm gần đây đặc biệt là từ khi có Luật Đất đai
năm 1987 thì tình hình quản lý về đất đai đã được cải thiện. Đây là văn bản
luật đầu tiên điều chỉnh quan hệ đất đai, bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước,
giao đất ổn định lâu dài. Theo tinh thần của Luật này thì: Kinh tế nông hộ đã
được khôi phục và phát triển. Các hộ nông dân đã được giao ruộng đất để sử
dụng lâu dài, khuyến khích kinh tế tư nhân trong lĩnh vực khai thác sử dụng
đất v.v Tuy nhiên Luật Đất đai 1987 được soạn thảo trong bối cảnh nước ta
bắt đầu đổi mới, vừa tuyên bố xóa bỏ chế độ quan liêu bao cấp nên còn mang
nặng tính chất của cơ chế đó khi soạn luật; do đó đã bộc lộ một số tồn tại sau:
Việc tính thuế trong giao dịch đất đai rất khó khăn vì Nhà nước chưa thừa
nhận quyền sử dụng đất có giá trị; chưa quy định rõ những cơ sở pháp lý cần
thiết để điều chỉnh về quan hệ đất đai trong quá trình chuyển sang nền kinh tế
thị trường, trong quá trình tích tụ tập trung sản xuất trong nông nghiệp và
phân công lại lao động trong nông thôn; chính sách tài chính đối với đất đai
chưa rõ nét, đặc biệt là giá đất; chưa có điều chỉnh thích đáng đối với những
bất hợp lý trong những chính sách cũ vv…
Như vậy giai đoạn này, công tác quản lý đất đai đã bắt đầu đi vào nề nếp
và đặc biệt chú ý tới việc xác định, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính
các cấp địa phương. Tuy nhiên, đất nông nghiệp đã giao cho nông dân sử
dụng lâu dài nhưng công tác quản lý chưa được chặt chẽ.
Sau giai đoạn đổi mới (từ năm 1986 – 1991), chúng ta vẫn còn thiếu
nhiều quy định và ngay cả hệ thống pháp luật đã ban hành cũng còn nhiều bất
cập, chưa đáp ứng được tình hình đổi mới của đất nước. Vì vậy, Hiến pháp
1992 ra đời đã khắc phục được những hạn chế của Luật Đất đai 1987 và trên
15
cơ sở của Hiến pháp 1992 thì ngày 14 tháng 7 năm 1993 Luật Đất đai năm
1993 đã được Quốc hội khóa IX thông qua.
Luật Đất đai năm 1993 đã chế định cơ sở pháp lý cơ bản để quan hệ đất

đai ở nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng XHCN. Luật này đã đề cập đến nhiều nội dung quan trọng và hoàn
thiện hơn.
Trong quá trình chúng ta thực hiện Luật Đất đai 1993 đã đạt được khá
nhiều thành tựu đáng kể nhưng cùng với sự phát triển thì một số nội dung của
Luật cần được thay đổi và bổ sung thêm để đáp ứng kịp thời nhu cầu của đất
nước đặt ra. Ngày 26 tháng 12 năm 2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI
đã thông qua Luật Đất đai mới – Luật Đất đai 2003. Và trong số các nội dung
đổi mới mà Luật đề cập có nội dung về chuyển mục đích sử dụng đất nói
chung và chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp nói riêng. Như vậy, Đảng
và Nhà nước đã quan tâm tới việc sử dụng đất đúng theo mục đích cũng như
hạn chế việc tự ý chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia. Và cho đến nay chúng ta vẫn đang thực hiện theo Luật
Đất đai 2003 cùng với những văn bản dưới Luật để quản lý và bảo vệ nguồn
tài nguyên đất đai một cách tốt nhất. [4]
Quá trình chuyển mục đích sử dụng đất luôn diễn ra ở mọi thời điểm.
Trước kia khi chưa có Luật Đất đai quy định về trình tự, thủ tục chuyển mục
đích thì quá trình chuyển mục đích vẫn luôn diễn ra. Sau khi chúng ta xây
dựng luật để quản lý cũng như bảo vệ quỹ đất nói chung và quỹ đất nông
nghiệp nói riêng thì vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất vẫn chưa được quan
tâm. Cho đến lần sửa đổi thứ 2 (năm 2001) của Luật Đất đai 1993 thì vấn đề
chuyển mục đích sử dụng đất mới được đưa ra và chính thức được bổ sung
vào các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai của Luật Đất đai 2003. Hiện
nay cùng với quá trình đô thị hóa mạnh mẽ đã kéo theo việc chuyển mục đích
16
sử dụng các loại đất cũng như chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp ngày
càng tăng.
Việc mở rộng không gian đô thị đang có nguy cơ làm giảm diện tích đất
nông nghiệp. Theo Hội nông dân Việt Nam, trong quá trình xây dựng, các
khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng, mỗi năm Việt Nam có gần 200

nghìn ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tương ứng mỗi
hộ có khoảng 1,5 lao động mất việc làm (Bộ Xây dựng, 1995).
Tốc độ ĐTH quá nhanh cùng với sự gia tăng dân số đã làm ảnh hưởng
tới nhiều vấn đề như: vấn đề đói nghèo, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường vv…
Đứng trước vấn đề đó ngày 23 tháng 01 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã
phê duyệt “ Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị đến năm 2020”
trong quyết định số 10/1998/QĐ-TTG, trong đó xác định phương hướng xây
dựng và phát triển đô thị trên địa bàn cả nước và các vùng đặc trưng (Bộ Xây
dựng, 1999).
Ở Việt Nam hiện nay cũng đã có những công trình nghiên cứu, hội thảo
về quá trình chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng
cũng như các đề tài liên quan tới vấn đề này. Từ đó cung cấp những cơ sở
khoa học cho các cơ quan liên quan đến việc quy hoạch, định hướng cuộc
sống và sử dụng quỹ đất nông nghiệp sao cho hợp lý và hiệu quả nhất.
Ngày 6 tháng 9, tại TP HCM đã diễn ra hội thảo “Công tác quy hoạch sử
dụng đất nông nghiệp và chính sách pháp luật về sử dụng đất trong tình hình
hiện nay”.
Hội thảo do Văn phòng Quốc hội phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi
trường tổ chức nhằm đóng góp những ý kiến giúp Chính phủ xây dựng dự án Luật
Đất đai sửa đổi cho phù hợp, góp phần đảm bảo hài hòa lợi ích phát triển kinh tế
đất nước, đồng thời đảm bảo ổn định xã hội và an ninh lương thực quốc gia.
Bên cạnh đó, trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH cũng nảy
sinh nhiều vấn đề bất cập như thu hồi đất nông nghiệp, giá cả đền bù, tạo
17
công ăn việc làm cho nông dân bị thu hồi đất, tái định cư Kết quả giám sát
của Quốc hội cho thấy hơn 80% đơn khiếu nại tố cáo liên quan về đất đai cần
tiếp tục xem xét giải quyết.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong 7 năm qua (2001-
2007) đã có trên 500.000 ha diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi chuyển sang
đất phi nông nghiệp, chiếm 5% đất nông nghiệp đang sử dụng; đặc biệt, đất

nông nghiệp bị thu hồi chuyển sang mục đích đô thị hóa và công nghiệp hóa
năm sau luôn tăng hơn năm trước.
Chỉ tính trong năm 2007, diện tích đất trồng lúa của cả nước đã giảm
125.000 ha. Riêng tỉnh Đồng Tháp, công tác quy hoạch sử dụng đất từng lúc,
từng nơi chưa theo kịp yêu cầu phát triển; tình hình quy hoạch treo còn khá
phổ biến, có những dự án kéo dài 5-7 năm không thực hiện dẫn đến đời
sống của người dân trong nhiều khu quy hoạch chưa được đảm bảo.
Ông Trần Văn Kiệt - Đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long cho rằng, một số
nơi không cần đất nông nghiệp hoặc sản xuất không hiệu quả cần được
chuyển mục đích thì không được quy hoạch.
Nơi đất sản xuất nông nghiệp tốt thì lại quy hoạch chuyển mục đích,
không phải để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cũng không phải
mở rộng đô thị mà quy hoạch để làm sân golf dẫn đến hàng vạn nông dân mất
đất sản xuất, đời sống khó khăn phải đi tha phương cầu thực, thậm chí đây là
một trong những nguyên làm cho tình hình mất an ninh trật tự, tệ nạn xã hội
tăng lên. [4]
Cục Trồng trọt (Bộ NN PTNT) báo động về việc đất nông nghiệp đang
từng ngày bị chuyển đổi mục đích sử dụng một cách thiếu quy hoạch và tùy
tiện nên ngày càng bị thu hẹp một cách báo động. Tổng diện tích đất lúa toàn
quốc hiện nay là trên 4,1 hécta. Song từ năm 2000 - 2005, diện tích đất lúa đã
giảm nghiêm trọng với hơn 302.000ha. Gần 9 năm qua, đất lúa đã bị giảm
trên 59.000ha. Riêng tại ĐBSCL, tính toán sơ bộ cho thấy từ năm 2000 -
18
2007, đất lúa đã bị giảm 205.000ha (chiếm 57% đất lúa bị suy giảm toàn
quốc). Tại phía Bắc, Hải Dương là tỉnh có tỉ lệ đất lúa giảm lớn nhất, bình
quân 1.569ha/năm, Hưng Yên 939ha/năm, Hà Nội (cũ) là 653ha/năm
Theo tính toán, năm 2020 dân số cả nước sẽ xấp xỉ 100 triệu người, năm
2030 sẽ có khoảng 110 triệu người. Tổng nhu cầu lúa cho năm 2015 là 32,1
triệu tấn, năm 2020 là 35,2 triệu tấn và năm 2030 là 37,3 triệu tấn. Tuy nhiên,
tình trạng ồ ạt chuyển đổi đất nông nghiệp đã khiến sản lượng lúa suy giảm

khá lớn qua mỗi năm, trung bình giảm từ 400.000 - 500.000 tấn/năm. Cục
Trồng trọt báo động, với tốc độ đô thị hóa chóng mặt như hiện nay thì sẽ
không còn lúa gạo để xuất khẩu vào năm 2020. Một số liệu đáng chú ý khác
cho thấy, tại cả hai miền Nam và Bắc, số lượng các khu công nghiệp lấy từ
quỹ đất nông nghiệp đang bị bỏ hoang không ít và hiện chỉ lấp đầy khoảng
50%-70% số lượng doanh nghiệp hoạt động. [4]
1.2.3. Tình hình quản lý và sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thành
phố Thái Nguyên
Thành phố Thái Nguyên với tổng diện tích tự nhiên năm 2010 là
18.630,56 ha, trong đó đất nông nghiệp là 12.266,51 ha chiếm 65,8 % tổng
diện tích tự nhiên, diện tích đất phi nông nghiệp là 5.992,86 ha chiếm 32,2%,
diện tích đất chưa sử dụng là 371,19 ha chiếm 2%. Qua phân tích trên ta có
thể thấy diện tích đất nông nghiệp là cao nhất với 65,8%. Trong đó diện tích
đất trồng lúa chiếm tỷ lệ khá thấp với 19,8% (3.661,23 ha). Tình hình sản
xuất của người dân vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều cánh đồng vẫn còn tình
trạng thiếu nước để sản xuất với nhiều nguyên nhân khác nhau như: vị trí địa
lí, địa hình khó khăn không thể xây mương dẫn nước vào đồng ruộng. Vì vậy,
người dân chỉ trông chờ vào nguồn nước tự nhiên (nước mưa). Ngoài ra sâu
bệnh cũng là một trong những vấn đề làm giảm năng suất cây trồng. Đặc biệt
trong những năm gần đây do diễn biến của thời tiết khá phức tạp, xuất hiện
nhiều loại sâu bệnh mới làm cho tình hình sản xuất ngày một khó khăn hơn.
19
Trong những năm gần đây tốc độ đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, diện tích đất
nông nghiệp đang có xu hướng giảm khá nhanh do chuyển mục đích sang đất
phi nông nghiệp để phục vụ các mục tiêu phát triển của thành phố hay để phù
hợp với hiện trạng đất đai.[20]
Trong từng giai đoạn của quá trình phát triển, căn cứ vào đường lối
chính sách của Đảng, của Nhà nước, Trung ương, địa phương thành phố Thái
Nguyên đã ban hành những quy định về quản lý đất đai trên địa bàn thành phố
Thái Nguyên.

Trước khi có Luật Đất đai năm 1993, do cơ chế quản lý tập trung bao
cấp, vì vậy tình trạng chung trong quản lý đất đai ngành nào do ngành ấy
quản lý, không có sự quản lý thống nhất. Việc quản lý đất đai chủ yếu tập
trung vào đất xây dựng, nhất là đất xây dựng các khu đô thị. Quy hoạch tổng
thể là chưa có, do vậy ngoài những văn bản của Trung ương, của Tổng cục về
công tác quản lý đất đai, thành phố Thái Nguyên đã có những văn bản quy
định về việc giao đất cho nhân dân xây dựng nhà ở, quy định về việc mua bán
nhà và hoa mầu trong đô thị, đảm bảo cho việc quản lý đất trong lĩnh vực xây
dựng có trật tự, ổn định. Song cũng trong giai đoạn này tình trạng lấn chiếm
đất tự ý làm nhà, phường, xã cấp đất cho nhân dân làm nhà ở, sử dụng đất sai
mục đích, bán nhà cửa và hoa mầu không qua cấp thẩm quyền, xảy ra khá phổ
biến, việc giải quyết xử lý còn chậm và chưa triệt để, còn để tồn tại kéo dài.
Trong thời kỳ đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện nhiều, đất đai ở
khu đô thị thành vấn đề quan tâm hàng đầu trong đời sống và sản xuất. Đất đai
trở thành có giá, do đó đã nảy sinh vấn đề bức xúc cần giải quyết như: Đòi đất
cha ông, tự ý làm nhà, cấp đất sai thẩm quyền, tự ý thay đổi mục đích sử dụng
đất, các cơ quan cho cán bộ mượn đất làm nhà riêng, xây kiốt bán hàng dưới
dạng hợp đồng nhiều năm, thanh lý nhà tập thể cho cán bộ công nhân viên, tự ý
cơi nới, sửa chữa xây dựng.
20
Từ năm 2003, khi Luật Đất đai năm 2003 được áp dụng, công tác quản
lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố từng bước đi vào nền nếp. Tình
trạng đòi đất ông cha ở địa bàn thành phố cơ bản được khắc phục và không
còn xảy ra, việc cấp đất sai thẩm quyền đã được chấm dứt, nhà ở do các cơ
quan thanh lý cho các cán bộ công nhân viên chức đã và đang được xem xét,
vận dụng các Nghị định của Chính phủ và của Bộ Tài nguyên và Môi trường
để hợp thức thủ tục, giao quyền sử dụng đất cho nhân dân. Việc khai thác và
sử dụng nguồn lực đất đai ngày càng hiệu quả hơn, cơ bản đáp ứng nhu cầu
sử dụng đất đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; tạo điều kiện về mặt bằng cho
các ngành sản xuất, kinh doanh; cải thiện điều kiện về nhà ở cho nhân dân,

góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và
xây dựng đô thị thành phố Thái Nguyên.
Các cấp chính quyền từ thành phố đến cơ sở đã có nhiều cố gắng trong
công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn, đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính trong lĩnh vực đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và
nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định
của pháp luật.
Hòa theo xu hướng phát triển chung của đất nước và của tỉnh Thái
Nguyên, thành phố Thái Nguyên đang cố gắng đẩy mạnh quá trình đô thị hóa,
chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn. Tất cả đều được thực
hiện theo định hướng chiến lược của cơ quan, ban nghành cấp trên trực tiếp
chỉ đạo. Vì vậy, trong những năm qua trên địa bàn thành phố trung bình mỗi
năm có khoảng 52 ha đất nông nghiệp bị thu hồi và 63 ha đất nông nghiệp
chuyển mục đích sang đất phi nông nghiệp. Bộ mặt thành phố đã có nhiều
thay đổi tuy nhiên việc thu hồi đất hay chuyển mục đích sử dụng đất cũng đã
có những ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của người dân mất đất. Đây sẽ là
một trong những vấn đề cần quan tâm và giải quyết trong thời gian tới.
21
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề về lý luận, thực tiễn của quá trình chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp và ảnh hưởng của nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
- Thực trạng và nguyên nhân của quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp tại thành phố Thái Nguyên.
- Những vấn đề liên quan đến quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Thái Nguyên -
Tỉnh Thái Nguyên.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2012.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Thành phố Thái Nguyên - tỉnh Thái Nguyên
- Thời gian: Từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 10 năm 2013
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến biến
động hiện trạng sử dụng đất của thành phố Thái Nguyên
- Điều kiện tự nhiên
- Điều kiện kinh tế - xã hội của thành phố Thái Nguyên
- Thực trạng phát triển của thành phố Thái Nguyên
2.3.2. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành
phố Thái Nguyên
- Hiện trạng sử dụng đất của thành phố
- Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về đất đai
22
2.3.3. Thực trạng quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, giai đoạn 2008 – 2012
- Đánh giá thực trạng quản lý giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
- Sự biến động đất đai trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
- Thực trạng quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
2.3.4. Ảnh hưởng của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đến
các hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp
- Ảnh hưởng của CMĐ đối với kinh tế hộ nông dân mất đất nông nghiệp
- Đánh giá sự ảnh hưởng của chuyển mục đích SDĐ nông nghiệp tới đời
sống kinh tế - xã hội của nông hộ thông qua câu hỏi định tính
- Kế hoạch trong thời gian tới của các hộ dân có đất CMĐ để thực hiện
dự án
- Tác động của công tác thu hồi đất đến quá trình phát triển kinh tế xã

hội của thành phố
2.3.5. Đánh giá chung tác động của chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp tới sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
- Chuyển đất lúa sang nuôi trồng thủy sản
- Chuyển đất lúa sang trồng cây khác
- Chuyển đất lúa sang mục đích phi nông nghiệp
2.3.6. Định hướng và đề xuất một số giải pháp nâng cao đời sống kinh tế
cho những hộ mất dất nông nghiệp, tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nước trong thời gian tới tại thành phố Thái Nguyên
- Định hướng phát triển thành phố Thái Nguyên trong thời gian tới.
- Một số giải pháp nâng cao đời sống kinh tế cho những hộ nông nghiệp
- Giải pháp từ phía Nhà nước
- Giải pháp từ phía chính quyền thành phố
- Giải pháp cho các hộ nông dân
23
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong khi khảo sát, ngoài việc thu thập thông tin từ phỏng vấn, đề tài
còn dùng phương pháp quan sát và ghi chép để từ đó chọn các hộ điều tra phù
hợp với nội dung nghiên cứu và có tính đại diện cao cho vùng.
Việc thu thập tài liệu thông tin bao gồm việc sưu tầm và thu thập những
tài liệu, số liệu liên quan đã được công bố và những tài liệu, số liệu mới tại
địa bàn nghiên cứu.
a. Tài liệu thứ cấp (tài liệu đã được công bố)
Đây là các số liệu từ các công trình nghiên cứu trước được lựa chọn sử
dụng vào mục đích phân tích, minh họa rõ nét về nội dung nghiên cứu. Nguồn
gốc của các tài liệu này đã được chú thích rõ trong phần “Tài liệu tham khảo”.
Nguồn tài liệu này bao gồm:
- Các sách, báo, tạp chí, các văn kiện Nghị quyết, các chương trình nghiên
cứu đã được xuất bản, các kết quả nghiên cứu đã công bố của các cơ quan

nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài nước, các tài liệu trên internet
- Tài liệu, số liệu đã được công bố về tình hình kinh tế, xã hội nông thôn,
kinh tế của các ngành sản xuất, đời sống của các nông hộ nông nghiệp nằm
trong khu vực bị thu hồi đất… các số liệu này thu thập từ phòng Tài nguyên và
Môi trường, phòng Thống kê thành phố, Sở Tài nguyên và Môi trường và các
Sở, ban, ngành có liên quan. Trên cơ sở đó tiến hành tổng hợp các thông tin
cần thiết phục vụ cho công tác nghiên cứu.
b. Tài liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp là những số liệu phục vụ cho nội dung nghiên cứu đề tài.
Những số liệu này được thu thập từ việc điều tra các hộ có đất sản xuất nông
nghiệp. Các số liệu này được sử dụng để phân tích về tình hình hiện trạng sản
xuất nông nghiệp của các hộ nông dân trong phường, xã. Tình hình mất đất
24
nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tình hình chuyển đổi việc làm của
các hộ do tác động của quá trình thu hồi đất.
* Cơ sở chọn mẫu điều tra
Đề tài đã chọn 150 hộ thuộc diện đã bị mất đất nông nghiệp trên địa bàn
thành phố Thái Nguyên để điều tra theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
theo nhiều cấp.
- Phương pháp phát phiếu điều tra trực tiếp:
Để thu thập số liệu cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu, đã điều tra
các hộ sản xuất nông nghiệp bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp 1 thành
viên hiểu biết về nông nghiệp của gia đình, ngoài ra có sự đóng góp ý kiến
của các thành viên khác trong gia đình. Điều này đảm bảo lượng thông tin có
tính đại diện và chính xác. Đề tài phỏng vấn thử một số hộ theo một mẫu câu
hỏi đã được soạn thảo trước. Sau đó xem xét bổ sung phần còn thiếu và loại
bỏ phần không phù hợp trong bảng câu hỏi. Câu hỏi được soạn thảo bao gồm
các câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Nội dung các câu hỏi phục vụ cho đề tài
nghiên cứu theo các nhóm thông tin sau:
+ Nhóm thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, dân số, lao động.

+ Nhóm thông tin về đặc điểm chung của hộ mất đất và nguồn sống
chính của các hộ.
+ Nhóm thông tin về điều kiện đất đai và sử dụng đất đai của hộ.
+ Nhóm thông tin về tình hình sản xuất nông nghiệp của hộ.
+ Nhóm thông tin về tình hình thu nhập của hộ.
+ Nhóm thông tin về nguyện vọng của người dân mất đất nông nghiệp
trong tình hình hiện nay.
+ Các câu hỏi mở về những khó khăn, thuận lợi trong sản xuất nông
nghiệp trong quá trình bị thu hồi đất, mong muốn của người nông dân về vấn
đề việc làm
25

×