Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Quản lý tổng hợp vùng bờ ( Nguyến Bá Quý ) - Chương 1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.85 KB, 20 trang )

Trường Đại học Thủy lợi - Delft University of Technology





NGUYỄN BÁ QUỲ



Qu¶n lý tæng hîp vïng bê

Cố vấn khoa học: Assoc. Prof. Ir. K.J. Verhagen







Hµ Néi -2002
MỤC LỤC


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ QUẢN LÝ VÙNG BỜ
01-14
1.1 Lịch sử và khái niệm quản lý vùng ven bờ
1.2 Quan điểm hệ thống về vùng ven bờ
1.2.1 Khái quát về hệ thống đa dạng vùng ven bờ
1.2.2 Phân hệ tự nhiên
1.2.3 Phân hệ kinh tế – xã hội


1.2.4 Cơ sở hạ tầng và thể chế
1.3 Quản lý vùng ven bờ: phân tích chính sách và hệ thống
1.3.1 Phân tích hệ thống trong giải quyết các vấn đề vùng ven bờ
1.3.2 Các loại dự án quản lý dải ven bờ


CHƯƠNG 2: PHÂN HỆ PHI SINH VẬT: MÔI TRƯỜNG VẬT LÝ,
CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN PHI SINH VẬT
15-38
2.1 Mở đầu
2.2 Phân loại và định nghĩa về vùng ven bờ
2.2.1 Phân loại theo nguồn gốc tự nhiên
2.2.2 Bờ biển sơ cấp và thứ cấp
2.3 Các quá trình ven bờ
2.3.1 Sóng và các quá trình liên quan đến sóng
2.3.2 Dòng chảy biển và các quá trình liên quan đến dòng chảy
2.3.3 Vận chuyển trầm tích do gió
2.3.4 Địa mạo bờ biển
2.4
Địa mạo bờ biển
2.4.1 Phạm vi không gian và thời gian trong nghiên cứu địa mạo bờ biển
2.4.2 Mặt cắt bờ biển và sự tiến triển địa mạo ngắn hạn
2.4.3 Sự tiến triển địa mạo dài hạn


CHƯƠNG 3: PHÂN HỆ HỮU SINH: MÔI TRƯỜNG SINH THÁI,
TÀI NGUYÊN SỐNG
39-70
3.1 Giới thiệu
3.2 Quá trình sinh thái

3.2.1 Vòng tuần hoàn dinh dưỡng trong hệ sinh thái
3.2.2 Dòng năng lượng qua hệ sinh thái
3.2.3 Cơ chế điều hành hoạt động của hệ sinh thái
3.3 Hệ sinh thái ven bờ
3.3.1 Rạn san hô ngầm
3.3.2 Rừng ngập mặn
3.3.3 Bãi cỏ biển
3.3.4 Vùng cửa sông và đầm phá
3.3.5 Đầm lầy nước mặn
3.3.6 Bãi thuỷ triều
3.3.7 Bãi biển
3.3.8 Hệ sinh thái đụn cát
3.3.9 Hệ sinh thái cỏ biển và bờ đá


CHƯƠNG 4: CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ THỂ CHẾ
71-80
4.1 Mở đầu
4.2 Lập kế hoạch xây dựng và các biện pháp bảo vệ bờ biển
4.3 Các công trình bảo vệ bờ biển
4.3.1 Phương án số 0
4.3.2 Nuôi bãi nhân tạo
4.3.3 Mỏ hàn
4.3.4 Tường đứng
4.3.5 Kè bảo vệ cồn cát
4.3.6 Đê chắn sóng đơn
4.3.7 Tôn cao bãi biển
4.3.8 Kiểm soát bồi lắng
4.4 Các mô hình hình thái
4.4.1 Khái niệm về các mô hình hình thái một chiều

4.4.2 Khái niệm về các mô hình hình thái tựa hai chiều
4.4.3 Khái niệm về các mô hình hình thái hai chiều
4.5 Cơ sở hạ tầng thể chế


CHƯƠNG 5: PHÂN HỆ KINH TẾ – XÃ HỘI
SỰ ĐA DẠNG CỦA CÁC CHỨC NĂNG, LỢI ÍCH VÀ XUNG ĐỘT
81-95
5.1 Giới thiệu
5.2 Chức năng sử dụng trong hệ thống ven biển
5.2.1 Đặc điểm
5.2.2 Chức năng sử dụng
5.3 Khía cạnh kinh tế xã hội
5.3.1 Các bên liên quan trong quản lý dải ven biển
5.3.2 Các khía cạnh thể chế và luật pháp
5.3.3 Các khía cạnh kinh tế
5.3.4 Các vấn đề về môi trường
5.3.5 Các vấn đề về xã hội
5.3.6 Các yếu tố chính trị


CHƯƠNG 6: QUẢN LÝ VÙNG VEN BIỂN LÀ MỘT ĐÁP ỨNG
VỚI SỰ THAY ĐỔI TOÀN CẦU
96-
108
6.1 Giới thiệu
6.2 Xu hướng dân số
6.3 Phát triển kinh tế và nhu cầu cạnh tranh
6.3.1 Du lịch và giải trí
6.3.2 Ngư nghiệp

6.3.3 Bảo tồn thiên nhiên
6.4 Thay đổi khí hậu và sự gia tăng mực nước biển
6.4.1 Các dự báo và cơ chế gia tăng mực nước biển
6.4.2 Tác động của sự gia tăng nước biển
6.5 Quản lý tổng hợp vùng ven biển


CHƯƠNG 7: QUẢN LÝ TỔNG HỢP DẢI VEN BIỂN TRONG BỐI
CẢNH CHÍNH SÁCH QUỐC TẾ
109-
114
7.1 Mở đầu
7.2 Uỷ ban liên Chính phủ về thay đổi khí hậu
7.3 Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hiệp quốc
7.4 Hội nghị quốc tế về vùng ven biển
7.5 Ngân hàng Thế giới


CHƯƠNG 8: DỰ ÁN QUẢN LÝ VÙNG VEN BỜ HẢI HẬU - TỈNH
NAM ĐỊNH
115-
143
8.1 Mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ của công tác quản lý vùng bờ
8.1.1 Mục đích
8.1.2 Yêu cầu
8.1.3 Nhiệm vụ
8.2 Những thuận lợi và khó khăn của vùng biển Hải Hậu – Nam Định
8.2.1 Những thuận lợi đối với vùng biển Hải Hậu – Nam Định
8.2.2 Những khó khăn đối với vùng biển Hải Hậu – Nam Định
8.2.3 Yếu tố kinh tế xã hội

8.3 Đánh giá những tác động bất lợi đối với vùng biển Hải Hậu – Nam Định
8.3.1 Đối với môi trường tự nhiên
8.3.2 Đối với các ngành kinh tế
8.3.3 Đối với môi trường xã hội
8.3.4 Các mâu thuẫn
8.4 Quy hoạch tổng thể vùng bờ biển Hải Hậu – Nam Định
8.4.1 Di Dân
8.4.2 Xây dựng công trình bảo vệ bờ
8.4.3 Lựa chọn phương án bảo vệ bờ


LỜI NÓI ĐẦU
Quản lý vùng bờ là một trong các môn học được lựa chọn trong dự án
“Nâng cao năng lực đào tạo về kỹ thuật bờ biển cho Trường Đại học Thủy lợi
Hà nội” do chính phủ Hà lan tài trợ
Môn học bao gồm những nội dung chủ yếu về bờ biển: Quản lý vùng bờ,
quản lý đường bờ, cồn cát, nghiên cứu cửa sông ,bờ biển
Đối tượng của quản lý vùng bờ là quan tâm xem xét vùng bờ biển như là
một hệ thống tương tác các hoạt động kinh tế, quá trình vật lý, các phản ứng hóa
học và hoạt động sinh vật. Ví dụ hoạt động kinh tế như: đánh cá, hàng hải, hoạt
động giải trí, quốc phòng, lắng động chất thải, khai thác khoảng sản, đặt đường
ống, đường cáp dưới đáy biển, khai hoang, xây dựng phát trển hải cảng, thăm dò
khai thác dầu khí, bảo tồn thiên nhiên
Phát triển kinh tế trong vùng bờ phụ thuộc vào năng suất có thể chấp nhận
được trong thời gian lâu dài và khả năng của tài nguyên vùng bờ.Quản lý với
mục tiêu sử dụng hiệu quả tài nguyên bờ biển cho những lợi ích phát triển kinh
tế vùng. Quản lý cần dựa trên nhận thức tổng hợp về một hệ thống bờ biển và
mối tương tác giữa hệ thống bờ biển với hệ thống ngoại vi liền kề: lưu vực sông,
biển, đại dương.
Lập kế hoạch là một việc làm liên tục của các cơ quan quản lý và được

xem xét là một nhiệm vụ cốt yếu trong sự phát triển cân bằng bền vững giữa một
mặt là phát triển vùng, mặt khác là bảo vệ tài nguyên vùng bờ lâu dài.
Mục tiêu cần đạt được trong môn Quản lý vùng bờ là:
- Đưa ra một phương pháp tổng hợp có hệ thống để mô tả quá trình vật lý,
sinh vật và kinh tế xã hội trong vùng bờ và mối tương tác giữa chúng
trong hệ thống.
- Tăng cường kiến thức và sự hiểu biết về những quá trình này.
- Chỉ ra cách làm để sử dụng và cung cấp các thông tin có chất lượng cho
các nhà ra quyết định về chính sách và các nhà quản lý vùng bờ.
Môn học này được chia ra làm 3 phần:
* Phần giới thiệu đưa ra một cách nhìn cơ bản, toàn cảnh về hệ thống vùng bờ.
Bên cạnh các phân tích chính sách cốt lõi được coi như là một công cụ trong
việc giải quyết vấn đề bờ biển. Những yếu tố chính trong bất kỳ các phân tích về
quản lý tổng hợp vùng bờ là:
+ Phân tích hệ thống tự nhiên bao gồm nước, bùn cát, chất hữu cơ hoặc
hình thái bờ biển.
+ Phân tích, đánh giá các hoạt động kinh tế và tác động của chúng với hệ
thống tự nhiên.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện việc phát triển kinh tế xã hội bền
vững theo hướng tiếp cận quản lý tổng hợp.
* Phần thứ hai bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
- Hệ thống phi sinh vật
- Hệ thống hữu sinh
- Phân hệ kinh tế xã hội
- Sự phát triển của hệ thống quản lý
- Sự thay đổi toàn cầu tác động đến các hệ sinh thái ven biển
- Chính sách quốc tế về quản lý vùng bờ
* Phần thứ ba trình bày một mô phỏng mẫu về phương thức quản lý vùng bờ
thông qua trò chơi mô phỏng. Thông qua việc xây dựng các kịch bản giúp người
học hiểu biết nội dung cần làm trong việc quản lý, nhận thức sâu sắc hơn các giá

trị của vùng bờ và đề xuất các giải pháp nhằm khai thác, sử dụng và phát triển
tài nguyên vùng ven biển.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các cán bộ, nhân viên của CICAT, Khoa
xây dựng, Trường Đại học công nghệ Delft. Cảm ơn các nhà khoa học, đồng
nghiệp trong và ngoài trường Đại học Thủy lợi, đặc biệt là PGS. H.J.Verhagen,
người đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành quyển giáo trình và PGS. TS. Vũ Minh
Cát - người hiệu đính, hoàn thiện trước khi in ấn. Đây là lần soạn thảo đầu tiên,
không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận được ý kiến đóng của các
chuyên gia, các đồng nghiệp và sinh viên để từng bước hoàn thiện, có thêm một
tài liệu khoa học phục vụ giảng dạy và tham khảo

Hà nội – 2002
PGS. TS. Nguyễn Bá Qùy

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ QUẢN LÝ VÙNG BỜ
1.1 Lịch sử và khái niệm quản lý vùng ven bờ
Con người luôn ưa thích vùng ven bờ vì những nguồn tài nguyên hấp dẫn của
nó. Với những vùng đất đồng bằng màu mỡ và có nguồn tài nguyên biển phong phú,
cộng với khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế một cách dễ dàng, vùng ven bờ đã
và vẫn đang thu hút sự quan tâm của con người. Vùng ven bờ là trung tâm phát triển
kinh tế của một quốc gia, nơi tập trung rất nhiều hoạt động kinh tế, xã hội, đồng thời
cũng chịu nhiều ảnh hưởng bởi hoạt động này. Trong tương lai, tầm quan trọng của
vùng ven bờ sẽ ngày một cao hơn do số lượng người dân đến đó sinh sống ngày một
nhiều hơn.
Vùng ven bờ thực chất là một hệ thống tài nguyên đa dạng. Nó cung cấp các tài
nguyên sinh vật và phi sinh vật cho hoạt động của con người và có chức năng điều hoà
môi trường tự nhiên cũng như nhân tạo. Mặt khác, vùng ven bờ là một hệ thống nhiều
người sử dụng. Con người sử dụng các nguồn tài nguyên cho sự sống như nước và
thức ăn, cho các hoạt động kinh tế như sử dụng không gian, các tài nguyên tái tạo và

không tái tạo được và nghỉ ngơi, giải trí (các bãi cát và nước ven bờ).
Quá trình công nghiệp hoá, phát triển thương mại và áp lực của sự gia tăng dân
số liên tục ở nhiều nơi đã làm tăng sự xói mòn, lũ lụt, mất dần các vùng đất ngập nước,
ô nhiễm, khai thác bừa bãi đất đai và các nguồn nước ở vùng ven bờ.
Nâng cao nhận thức về giới hạn của các nguồn tài nguyên, sự suy thoái môi
trường và hậu quả đối với con người đã thúc đẩy các nghiên cứu nhằm đưa ra giải
pháp lâu dài cho vấn đề quản lý các nguồn tài nguyên. Những nghiên cứu đó dựa trên
cơ sở khái niệm về khả năng chịu đựng của môi trường, là chỉ dẫn cho các hoạt động
kinh tế xã hội vì mục tiêu bảo tồn lâu dài các yếu tố và khu vực thiết yếu và khu vực
thiết yếu của hệ thống môi trường.
Năm 1972, lần đầu tiên trong báo cáo của Câu Lạc Bộ Thành Rôm đã đề cập
những vấn đề nói trên một cách hệ thống và chặt chẽ, kết quả đã cho ra đời một cuốn
sách nổi tiếng nhan đề “Những giới hạn phát triển “ (Meadows và những người khác -
1972). Phản ứng chính trị đối với thách thức này đã được Uỷ ban Quốc tế về Môi
trường và Phát triển trình bày năm 1987 trong báo cáo Bruntland về “Tương lai chung
của chúng ta”(WCED-1987). Báo cáo đưa ra khái niệm phát triển bền vững như một
giải pháp đảm bảo những điều kiện sống có thể chấp nhận được cho các thế hệ hôm
nay cũng như mai sau. Báo cáo Bruntland đã đưa ra các mục tiêu cho chiến lược bảo
tồn toàn cầu như sau:
- Duy trì các quá trình sinh thái thiết yếu và các hệ thống duy trì sự sống.
- Bảo tồn đa dạng gen.
- Sử dụng bền vững các loài và các hệ sinh thái.

1
Năm 1992, 20 năm sau báo cáo của câu lạc bộ Thành Rôm, một hội nghị đặc
biệt về môi trường và Phát triển(UNCED) của Liên hợp quốc đã được tổ chức ở Rio de
janero. Chương trình nghị sự 21 là một kế hoạch hành động được đưa ra cho các quốc
gia nhằm phát triển bền vững. Nội dung “Chương trình nghị sự 21” bao gồm toàn bộ
những chủ đề có liên quan đến môi trường và Phát triển. Sự tiếp cận theo huớng tổng
hợp như vậy được trình bày trong cuốn sách của Meadow - được gọi là “Tiếp cận tầm

giới hạn” (Meadow và các cộng sự -1992).


Hình 1.1: Phát triển của các thành phố trên bờ biển
Ngày nay người ta đã công nhận rằng sự phát triển vùng ven bờ cần dựa trên cơ
sở sự hiểu biết đúng đắn về các quá trình ở đó, sử dụng kĩ thuật và các kỹ năng kinh tế
xã hội nhằm đạt được một sự cân bằng có thể chấp nhận được giữa những lợi ích trước
mắt và lâu dài. Chính vì vậy, một sự phát triển được kiểm soát cần phải tiến hành ngay
tại vùng ven bờ. Các mâu thuẫn giữa các đối tượng sử dụng khác nhau đang trở nên
gay gắt hơn. Chúng ngày càng phát triển cả về quy mô cũng như phạm vi khi dân số
và việc sử dụng các nguồn tài nguyên trên trái đất tăng lên. Sự cần thiết phải có một
phương pháp chung để mô tả mối quan hệ qua lại phức tạp giữa hệ thống tài nguyên và
việc sử dụng nó. Bởi thế, cần phải lập kế hoạch và kiểm soát quá trình này một cách
bền vững và hệ thống. Quá trình này gọi là “Quản lý vùng ven bờ” (CZM).
Quản lý vùng ven bờ nhằm mục đích giải quyết những vấn đề hiện tại và trong
tương lai ở vùng ven bờ, bằng cách tìm ra một sự cân bằng bền vững giữa lợi ích kinh

2
tế và sự an toàn của môi trường. Điều này có thể đạt được nhờ phân tích kỹ lưỡng các
quá trình tự nhiên và hoạt động phát triển kinh tế xã hội.
Cần phải đẩy mạnh việc phát triển khả năng quản lý tổng hợp vùng ven bờ đối
với các quốc gia vùng ven biển, bởi vì:
- Xu hướng tăng tỷ lệ đói nghèo ở các vùng ven biển hiện nay đang dẫn đến sự suy
thoái vùng ven bờ và chất lượng cuộc sống ở đó.
- Các áp lực do phát triển và dân sinh hiện nay đang làm gia tăng ô nhiễm biển có
nguồn từ đất liền và sự can thiệp của con người ở các lưu vực sông cũng như ảnh
hưởng của quá trình ven bờ. Những áp lực này bao gồm :
- Giảm nơi cư trú và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó có các bãi biển,
rừng ngập nặm, đất ngập nước, cỏ biển và san hô,cũng như các tài nguyên thuỷ
sản và các nguồn tài nguyên biển và ven bờ khác;

- Tăng sự tổn thương đối với vùng ven bờ do bị ô nhiễm, mất bãi biển, sinh cảnh,
tăng hiểm hoạ tự nhiên và các tác động lâu dài của sự thay đổi khí hậu toàn cầu.
Những thay đổi nói trên hiển nhiên sẽ hạn chế khả nằng phát triển trong tương lai:
- Nhiều nguồn tài nguyên và hệ sinh thái ven bờ đã xuống cấp và đang bị đe diah cần
phải được tái tạo và phục hồi;
- Các nỗ lực để phát triển năng lực quản tổng hợp vùng ven bờ và thực hiện các
chương trình quốc gia có kéo dài 10 năm hoặc hơn nữa;
- Thực hiện các chiến lược nhằm thích ứng và giảm thiểu những ảnh hưởng của thay
đổi khí hậu toàn cầu có thể kéo dài một vài thập kỷ và hơn nữa, cho dù có áp dụng
ngay các biện pháp làm giảm bớt lượng phát thải khí nhà kính.
D©n sè vïng kh¸c
D©n sè vïn
g
ven biÓn

Hình 1.2: Dân số vùng ven biển
Bởi vậy, bây giờ là lúc phải bắt đầu hoặc tăng cường quản lý tổng hợp vung
ven bờ. Nhìn chung, các mục tiêu cơ bản của quản lý vùng ven bờ:
- Dự báo nhu cầu về sử dụng các nguồn tài nguyên trong tương lai.

3
- Lập kế hoạch khai thác các nguồn tài nguyên này.
- Kiểm soát việc sử dụng các nguồn tài nguyên này.
Quản lý vùng ven bờ là cả một quá trình. Nó bao gồm tất cả các hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội. Thành công của quản lý vùng ven bờ phụ thuộc rất nhiều vào
nhận thức của cộng đồng về các vấn đề liên quan đến sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên và thiện chí chính trị để giải quyết chúng. Trong quá trình này, nhiều giai đoạn
khác nhau cần được tiến hành như sau:
Giai đoạn 1: xác định vấn đề - các dấu hiệu mang tính xã hội (chẳng hạn như khi các
nhóm bị ảnh hưởng lên tiếng) chỉ ra khả năng có một vấn đề. Trong một thời đoạn

nào đó, có thể có mâu thuẫn về quan điểm về các nhóm khác nhau trong xã hội về
phạm vi, nguyên nhân và ảnh hưởng của vấn đề đó. Sự nhất trí về tính cần thiết của sự
can thiệp về phía chính quyền (trong hoạch định chính sách) là mục tiêu cuối cùng kết
thúc giai đoạn này.
Giai đoạn 2: Lập chính sách - mặc dù đã có sự thống nhất là có vấn đề, song vẫn còn
những quan điểm khác nhau về cách giải quyết nó. Phát triển công nghệ được lưu tâm
để giải quyết vấn đề này. Giai đoạn 2 được kết thúc khi chính quyền đưa ra một chính
sách đầy đủ cùng với các biện pháp tương ứng. Phân tích chính sách là một phần
trong giai đoạn này. Nhiệm vụ của tổ chức quản lý vùng ven bờ được đề cập đến
trong giai đoạn này.
Giai đoạn 3: Thực thi chính sách – cuối cùng thì kế hoạch được phê duyệt sẽ đưa vào
thực hiện. Đầu tư được triển khai; các dự án được thiết kế và thực hiện và sự phản
ứng liên quan về khía cạnh chính trị xã hội cũng lắng xuống.
Giai đoạn 4: Quản lý và kiểm soát – kiểm soát là trọng tâm của giai đoạn này. Những
công việc thường xuyên như giám sát có thể dẫn đến đòi hỏi đổi mới công nghệ và
tăng đầu tư. Điều chỉnh tính pháp lý trở nên quan trọng. Cần thận trọng bởi vì những
phát triển mới cũng như kiến thức và sự hiểu biết về tình hình liên quan có thể đòi hỏi
các biện pháp bổ sung. Đây là quá trình có tính tuần hoàn rất đặc trưng.
Rõ ràng, việc quản lý vùng vùng ven bờ là hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi
phải có kiến thức rất rộng. Sự gia tăng các hoạt động ở vùng ven bờ làm nảy sinh các
vấn đề ngày càng nhiều hơn. Những vấn đề này có thể rất đa dạng về phạm vi không
gian và thời gian như:
- Xói lở bờ biển do xây dựng cảng, kè trên sông và khai thác cát.
- Suy thoái hệ sinh thái do phát triển đô thị, nuôi trồng thuỷ sản và ô nhiễm nước.
- Giảm sút hoạt động du lịch do các bãi biển bị ô nhiễm bởi rong, rêu phát triển khi
có nhiều chất dinh dưỡng từ đất liền đưa ra biển.
- Ô nhiễm do sự cố tràn dầu.
Ở nhiều nước, những vấn đề như đã đề cập ở trên được giải quyết mà không thể
dự tính trước. Trong khi đó, các vấn đề không thể tách biệt nhau và là một phần của


4
phát triển tổng thể kinh tế - xã hội. Cách giải quyết một vấn đề cụ thể được lồng ghép
trong bài toán tổng thể.
Các thách thức đối với công tác quản lý vùng ven bờ rất đa dạng, chẳng hạn
như sự thay đổi các điều kiện ngoại cảnh (mực nước biển dâng lên, xói lở trên diện
rộng, sụt lún đất), sự thay đổi mô hình kinh tế xã hội (gia tăng sự chuyển dịch các hoạt
động kinh tế xã hội về các vùng ven bờ) và các hoạt động từ nguồn nước thải, khai
thác cát đá v.v.
Để nghiên cứu mức độ dễ bị tổn thương của vùng ven bờ do những thay đổi nói
trên, không chỉ có các tác động riêng lẻ mà sự tương tác giữa chúng cũng cần phải
biết. Nói chung, tính dễ bị tổn thương của vùng ven bờ có thể bị xem xét trong bối
cảnh của sự phát triển bền vững, một khái niệm dùng để chỉ khả năng của một quốc
gia trong việc giải quyết một cách lâu bền tất cả những áp lực, vấn đề và thiệt hại về
môi trường ở vùng ven bờ của mình.
Giá trị sinh thái và kinh tế phải được xem xét cân đối để đưa ra các chiến lược
cho sự phát triển bền vững như vậy. Đây là một vấn đề phức tạp bởi vì suy thoái môi
trường là một quá trình diễn ra chậm nhưng khó có thể đảo ngược được. Các hành
động ngăn ngừa phải được xúc tiến trước khi những dấu hiệu của sự suy thoái trở nên
rõ ràng.
Quy hoạch các nguồn tài nguyên vùng ven bờ chứa đựng các khía cạnh về kỹ
thuật, xã hội, kinh tế và môi trường. Nó đòi hỏi sự đóng góp của rất nhiều ngành, lĩnh
vực. Một số ví dụ về lĩnh vực chuyên môn trong nhóm nghiên cứu lập kế hoạch được
đưa ra dưới đây:
Kỹ thuật: Kỹ thuật biển, địa hình ven bờ, hình thái bờ biển, thuỷ động lực học, khí
tượng biển, địa chất;
Kinh tế- xã hội : Kinh tế vĩ mô, kinh tế kỹ thuật, nhân khẩu học, quy hoạch vùng, xã
hội học và các chuyên môn khác của đối tượng sử dụng như nghề cá, khai khoáng,
giao thông và du lịch.
Môi trường: sinh học, sinh thái học, hoá học.
Bên cạnh sự đóng góp của các ngành chuyên môn, phải cần đến năng lực của

các nhà phân tích hệ thống và chính sách, những người có thể tổng hợp các đóng góp
của các chuyên gia vào hệ thống phân tích chặt chẽ và có thể đưa ra các chiến lược
trình các nhà ra quyết định.
1.2 Quan điểm hệ thống về vùng ven bờ
1.2.1 Khái quát về hệ thống đa dạng vùng ven bờ
Vùng ven bờ là một vùng điển hình, nơi các vấn đề tương tác với nhau có thể
được xem xét bằng phương pháp phân tích hệ thống. Như minh hoạ một cách trìu
tượng ở hình 1.3, vùng ven bờ trước hết được kiểm soát bởi hai nguồn hoạt động: Các
điều kiện tự nhiên (tồn tại ngoài sự kiểm soát của con người) và cơ sở hạ tầng tổ chức

5
hay các kế hoạch phat triển kinh tế xã hội, hình thái có tổ chức và được phê chuẩn, mà
trong đó có sự hoạt động tích cực của con người. Tiếp theo cũng trên hình 1.3, ba hệ
thống cơ bản trong vùng ven bờ được phân biệt:

Hình 1.3: Nguyên tắc hệ thống của các yếu tố chính trong vùng ven bờ
- Hệ tự nhiên: bao gồm tất cả những gì không do con người tạo ra (khí quyển, thạch
quyển, thuỷ quyển) kể cả sự tương tác giữa chúng thông qua các quá trình sinh học,
phi sinh học và hoá học. Đây là hệ các nguồn tài nguyên tồn tại khá bền vững, nếu
không có sự tác động của con người.
- Các chức năng sử dụng thể hiện toàn bộ các lợi ích của con người trong việc “sử
dụng” theo một nghĩa rộng nhất các nguồn tài nguyên đó.
- Cơ sở hạ tầng: bao gồm cơ sở hạ tầng về tổ chức và kỹ thuật. Những cơ sở hạ tầng
này cần phải có sẵn và như vậy có thể vật chất hoá những chức năng sử dụng dự
định. Trong nhiều trường hợp, các cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng vô ý cũng như hữu
ý đến hệ tự nhiên, và đôi khi ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các chức năng
sử dụng khác, gây ra áp lực và mâu thuẫn.
Ba hệ thống: hệ tự nhiên, các chức năng sử dụng và cơ sở hạ tầng tương tác với
nhau về: Nguyên tắc rất nhạy cảm đối với các phân tích khoa học và định lượng. Tất
cả các hoạt động của con người, theo như định nghĩa, diễn ra trong mối tương tác với

hệ tự nhiên, một phần chỉ đơn thuần do sự có mặt của con người, phần khác qua các
ảnh hưởng trực tiếp của việc khai thác, cơ sở vật chất hạ tầng và sự ô nhiễm của các
chất thải.
Tam giác cong nhỏ ở giữa với vị trí chiến lược là giao của ba hệ thống trên, thể

6
hiện vai trò quan trọng của công tác quản lý vùng ven bờ. Đây là nơi có tất cả các
thông tin liên quan và các chiến lược cho phát triển bền vững được xây dựng trên cơ
sở các kiến thức tổng hợp, hệ thống thông tin và phân tích chính sách.
1.2.2 Phân hệ tự nhiên
Trong sơ đồ hệ thống vùng ven bờ, hệ tự nhiên là hệ không có sự tác động của
con người. Các yếu tố cơ bản trong hệ tự nhiên là:
- Không khí (khí quyển ).
- Nước (thuỷ quyển) kể cả các chất hoà tan có thể được mô tả qua các tính chất hoá
học, vật lý và sinh học của chúng.
- Trầm tích (thạch quyển) đặc trưng bởi các tính chất vật lý, khoáng vật học và hoá
học của nó, cũng như các tham số thuỷ động lực học và kỹ thuật địa chất liên quan
như tốc độ lắng chìm và ứng suất tiếp tới hạn.
- Sự sống trên đất liền và dưới biển được đặc trưng bởi số lượng các loài khác nhau
với số cá thể khác nhau.
Nhìn chung, các tính chất của các yếu tố cơ bản trên có thể sử dụng làm tài liệu
đầu vào cho các mô tả mang tính định lượng về các quá trình tự nhiên đang diễn ra ở
vùng ven bờ. Chúng là cơ sở quan trọng phục vụ cho việc giám sát các điều kiện sinh
thái ở vùng ven bờ .
Hệ thống vùng ven bờ thực chất là phần giao nhau giữa khí quyển, thuỷ quyển
và thạch quyển. Việc mô tả chi tiết hơn về hệ thống có thể sử dụng mô hình số trị.
Việc mô tả này bao gồm đánh giá các yếu tố quan trọng của hệ thống, các mối tương
tác vật lý giữa chúng và sau đó xây dựng hệ phương trình cơ bản biểu diễn các quá
trình tương tác giữa những yếu tố này.
Một điều quan trọng khác nữa là xác định gianh giới hệ thống của vùng nghiên

cứu. Chưa có một định nghĩa chung nào về vùng ven bờ được công nhận. Năm 1982,
hội nghị Liên Hợp Quốc về luật biển đã đưa định nghĩa đối với các vùng khác nhau
theo chủ quyền và tính pháp lý. Trong bối cảnh đó, các hoạt động khoa học tại vùng
ven bờ bị giới hạn trong hải phận quốc gia. Để áp dụng được vào thực tế, cần có sự
hoàn thiện hơn về khía cạnh luật pháp, trên cơ sở xem xét tổng thể các điều kiện sinh
thái và vật lý. Biên giới nghiên cứu phải xác định cho một đối tượng cụ thể, bởi vì các
nghiên cứu có thể được tiến hành với quy mô khác nhau cả về thời gian lẫn không
gian. Biên giới của hệ thống nghiên cứu và việc mô tả các quá trình liên quan đến nó
sẽ được lựa chọn tương ứng. Không gian theo chiều dọc bờ biển của hệ thống được
xác định khi các các hoạt động trong đó được xem xét trong khoảng thời gian xác
định. Điều này có thể dẫn tới phạm vi của hệ thống lên đến hàng 100 km và cần được
xem xét trong một khoảng dài. Các kỹ sư chuyên về vùng ven bờ hoặc các nhà địa
mạo học vùng ven bờ thường được tham gia nghiên cứu các hệ thống với quy mô nhỏ
hơn có kích thước vài chục kilomét.

7
Nếu nghiên cứu tác động của hệ thống đến chất lượng nước và hệ sinh thái thì
khái niệm hệ thống vùng ven bờ cần được xem xét và phân tích với quy mô lớn hơn.
Trong trường hợp đó, nghiên cứu thường phải mở rộng ra cả ngoài hải phận quốc gia,
mà đôi khi nó đòi hỏi phải có một phương thức tiếp cận mang tính quốc tế.
Gianh giới về phía biển, ví dụ như gianh giới của hệ thống động lực địa mạo
thường được chọn ở nơi đủ sâu, nơi sự đóng góp cho quỹ bùn cát sát bờ là nhỏ. Điều
này thường xảy ra tại độ sâu nằm trong khoảng từ 25 đến 30m. Nếu có hẻm núi ở vùng
nước sâu ngoài khơi, thì ảnh hưởng của chúng cần được tính đến như một điểm hút
bùn cát. Rõ ràng, các điều kiện biên thuỷ lực ở phía biển cần phải xác định một cách
hợp lý nhằm phân tích được ảnh hưởng của sóng và dòng chảy từ một hệ thống vùng
ven bờ lớn hơn.
Gianh giới phía đất liền thường được chọn là gianh giới giữa biển và đất liền tại
mức thuỷ triều cao. Ở những vùng mà đồng bằng ven biển và những đụn cát có đóng
góp đáng kể vào quỹ trầm tích, ảnh hưởng của chúng phải được thể hiện trong điều

kiện biên. Tương tự như vậy, vận chuyển bùn cát từ các con sông ra biển cũng phải
được tính đến như một nguồn bùn cát. Những vùng có chất lượng nước kém, cũng cần
được đưa vào hệ thống xem xét một cách đầy đủ.
Các quá trình vật lý ở vùng ven bờ rất phức tạp. Các tương tác thường xuyên
giữa 2 hay nhiều quá trình cần được tính đến. Nói chung, có thể phân chia ra các loại
quá trình dưới đây:
- Các quá trình động lực học chẳng hạn như tương tác khí quyển - biển hoặc sự vận
chuyển bùn cát do gió.
- Các quá trình thuỷ động lực học như sóng, triều, mực nước và dòng chảy.
- Các quá trình hình thái động lực học như tương tác giữa vận chuyển bùn cát và các
thay đổi địa hình đáy biển và hình thái đường bờ.
- Các quá trình địa động lực học do sự mất ổn định về địa chất như sụt lún, nâng lên
của mặt đất, động đất, hoá lỏng và trượt lở.
- Các quá trình sinh thái động lực học mô tả những thay đổi xảy ra trong hệ sinh thái
do các quá trình /yếu tố nêu trên.


8

Hình 1.4: Các quá trình vật lý vùng ven bờ

1.2.3. Phân hệ kinh tế – xã hội
Theo quan niệm truyền thống, vùng ven bờ là vùng có hoạt động kinh tế xã hội
mạnh nhất và cũng là vùng sản xuất lượng thực phẩm chính. Nhìn chung, gianh giới
của hệ thống kinh tế xã hội không đồng nhất với gianh giới của hệ tự nhiên. Các hoạt
động trong một vùng rộng hơn vùng ven bờ, có thể bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi trong
phạm vi vùng ven bờ. Việc gia tăng xâm nhập mặn do xói lở bờ biển có thể ảnh hưởng
tới những vùng nông nghiệp thấp trũng rộng lớn trong nội địa. Việc mất đi các bãi biển
có ảnh hưởng đến các hoạt động liên quan ở những khu vực lân cận.
Chưa có một chỉ dẫn chung cho việc xác định gianh giới của hệ thống kinh tế

xã hội. Các gianh giới này phải dựa trên cơ sở phân tích các hoạt động kinh tế xã hội
hiện tại và trong tương lai ở vùng ven bờ và vùng nội địa liên quan đến nó, như trình
bày trong các kế hoạch phát triển vùng và quốc gia.
Trên cơ sở chức năng sử dụng khác nhau của vùng ven bờ, có thể phân ra các
nhóm sau:
- Các chức năng cơ bản: sản xuất lương thực, cung cấp nước và năng lượng
- Các chức năng xã hội: Xây dựng nhà ở và giải trí.
- Các chức năng kinh tế: Giao thông vận tải, phát triển công nghiệp và khai thác cát.
- Các chức năng công cộng: bảo vệ và xử lý nước, rác thải.


9




Hình 1.5: Ảnh hưởng các hoạt động KTXH đến hệ sinh thái biển
Hiện tại và tương lai của vùng ven biển được nghiên cứu theo không gian sử
dụng của các hoạt động khác nhau, hàng hoá và dịch vụ do chúng cung cấp và những
giá trị kinh tế xã hội vốn có của chúng. Hiện nay, nhiều nước xây dựng hệ thống cơ sở
dữ liệu để có thể sử dụng một cách hiệu quả trong việc thể hiện các hoạt động trong hệ
thống.
Kết quả của nghiên cứu phân tích chính sách phải xác định được các tác động
từ chính sách đã lựa chọn lên các chức năng sử dụng. Ví dụ điển hình là vùng nghiên
cứu nằm ở phía Tây Nam Hà Lan, trên một vùng đồng bằng ven biển, điểm hội tụ của
3 cửa sông chính trước đây. Những mâu thuẫn gay gắt nảy sinh giữa chức năng giải trí,
phát triển thuỷ sản và bảo tồn sinh thái (đặc biệt là sự sống của các loài chim và hải
cẩu). Chính sách ưu tiên ở đây là bảo tồn sự phát triển hệ sinh thái, trong khi hoạt động
của ngành thuỷ sản và hoạt động giải trí có thể được lồng ghép vào sự phát triển đó.
Vấn đề này được thực hiện dựa vào các giới hạn sử dụng và việc phân vùng các chức

năng sử dụng chính.

10
1.2.4 Cơ sở hạ tầng và thể chế
Khái niệm cơ sở hạ tầng có nhiều nghĩa. Nó đề cập đến các yếu tố vật chất như
đường xá, cầu, đê chắn sóng, đê chắn cát ngoài biển v.v và cả những yếu tố liên quan
đến thể chế.
Phần lớn các hoạt động ở vùng ven bờ đều nhờ vào cơ sở hạ tầng và vấn đề
này được xem xét đến trước tiên. Do ảnh hưởng của các công trình vùng ven bờ đến hệ
thống tự nhiên và chi phí xây dựng chúng, các công trình này là yếu tố quan trọng
trong các nghiên cứu quản lý vùng ven bờ. Tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của chúng tới hệ
thống ven bờ, có thể phân chúng theo 3 nhóm sau:
- Công trình chống đỡ: bao gồm vật chất tự nhiên như cát, sỏi. Chúng là tấm bình
phong để chống xói lở các vùng ven bờ. Các cồn cát, bãi bồi nhân tạo ảnh hưởng ít
nhất đến các quá trình tự nhiên.
- Công trình bảo vệ: được làm từ vật chất có khả năng chịu lực như đất sét, đá hoặc
các sản phẩm nhân tạo như bê tông. Các công trình như đê, kè, tường biển được
xây dựng để bảo vệ bờ biển khi gặp sóng mạnh và thuỷ triều cao. Khi các công
trình làm chức năng bảo vệ thì chúng cũng tác động vào các quá trình vùng ven bờ
- Công trình tác động: được thiết kế để tác động một cách tích cực đến các quá trình
tự nhiên nhằm cải thiện các điều kiện cho một vài hoặc tất cả các hoạt động ven bờ.
Bởi thế các công trình này được xây dựng từ những vật chất nhân tạo có thể chịu
được áp lực tự nhiên. Ví dụ như các đê chắn sóng, đê bảo vệ bờ biển. Rõ ràng kiểu
công trình này có tác động mạnh đến hệ sinh thái ven biển.
Cơ sở hạ tầng ở bên ngoài vùng ven bờ cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến động
học vùng ven bờ. Chẳng hạn việc xây dựng đập ngăn sông giữ lại một phần lượng
nước và bùn cát vận chuyển tới vùng ven bờ. Kết quả là theo thời gian, một phần bãi
trước sẽ bị xói mòn do thiếu hụt bùn cát và kết quả là sau một thời gian nào đó, quá
trình xói lở sẽ diễn ra.
Tiếp theo là những nội dung liên quan đến thể chế. Quản lý vùng ven bờ một

cách hiệu quả cần đến một hệ thống kiểm soát, trong đó đưa ra các mục tiêu quản lý
vùng ven bờ, giám sát quá trình thực hiện và các kế hoạch hành động ngắn hạn và dài
hạn thích hợp. Liên quan đến nội dung này có thể xác định được 4 hệ thống sau:
- Hệ thống chính sách: xác định các mục tiêu lâu dài quản lý vùng ven bờ và tiêu
chuẩn áp dụng cho phân tích các kịch bản;
- Hệ thống luật pháp: bao gồm các công ước quốc tế, tính hiệu lực đối với việc thực
thi chính sách nói trên.
- Hệ thống tài chính: cung cấp nguồn tài chính cần thiết.
- Hệ thống thực thi: xác định phạm vi trách nhiệm đối với tất cả các hoạt động liên
quan đến quản lý vùng ven bờ.


11

Hình 1.6: Ảnh hưởng các hoạt động kinh tế xã hội tới vùng ven biển
Do các điều kiện lịch sử, văn hoá, hành chính, xã hội và tài chính khác nhau,
mỗi nước xây dựng các hệ thống kiểm soát khác nhau. Bởi vì hệ thống kiểm soát có ý
nghĩa quyết định đối với sự thành công của quản lý vùng ven bờ, cho nên các đặc điểm
của nó và trách nhiệm của các liên quan phải được nhận thức bởi chính các nhà quản
lý vùng ven bờ đó.
1.3. Quản lý vùng ven bờ: phân tích chính sách và hệ thống
1.3.1. Phân tích hệ thống trong giải quyết các vấn đề vùng ven bờ
Quản lý vùng ven bờ thực chất là một quá trình ra quyết định liên tục, nhằm
mục đích thu hẹp khoảng cách giữa thực tế và điều mong muốn trong sử dụng các
nguồn tài nguyên biển và ven bờ. Nói chung, điều này có thể đạt được nhờ một hệ
thống các quyết định/ biện pháp. Việc hình thành vấn đề, xác định mục tiêu quản lý và
xây dựng các chính sách phù hợp để đạt được các mục tiêu quản lý đó, cần được tiến
hành theo một quy trình hệ thống, trong đó có việc đề xuất, phân tích và đánh giá các
chiến lược nhờ sử dụng phương pháp phân tích hệ thống.
Phân tích chính sách có thể được mô tả như một quá trình hệ thống, giúp những

người lãnh đạo đưa ra quyết định xác đáng, đánh giá và lựa chọn một hành động tối ưu
trong số các các chiến lược khả thi khác nhau để đạt được những mục tiêu quản lý đề
ra. Đó là một cách tiếp cận có hệ thống và logíc với các giả thuyết, mục tiêu và tiêu chí
được xác định và chỉ ra một cách rõ ràng. Nó có thể hỗ trợ đắc lực người ra quyết định

12
đưa ra quyết định đúng đắn hơn thông qua việc mở rộng cơ sở thông tin, nâng cao sự
hiểu biết về hệ thống vùng ven bờ và dự đoán kết quả của một số phương án hành
động khác nhau. Cốt lõi của phân tích chính sách (phương pháp xây dựng vấn đề)
chính là phân tích hệ thống. Phân tích chính sách là một hoạt động giải quyết vấn đề
liên quan đến các kiến thức và phương pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến, các khái niệm
về các mục tiêu và công bằng xã hội, các yếu tố đánh giá và xem xét đối tượng trong
bối cảnh rộng hơn và cả những điều không chắc chắn vốn có. Trong quá trình ra quyết
định, có thể kể ra 3 giai đoạn chính sau:
- Xác định và phân tích vấn đề.
- Xây dựng các giải pháp lựa chọn.
- Đánh giá và lựa chọn giải pháp tối ưu.
Trong thực tế, quá trình này thường có tính chất tuần hoàn. Nhiều nhà quản lý
đề xuất nhiều hoặc ít hơn các bước trong quá trình phân tích chính sách, đó là:
1. Xác định vấn đề;
2. Xác định các mục tiêu;
3. Xác định các tiêu chuẩn;
4. Xác định các giới hạn, cản trở; toàn bộ giai đoạn hình thành;
5. Xác định, xây dựng và sàng lọc phương án - một phần của giai đoạn nghiên cứu
6. Đánh giá các phương án
7. So sánh và xếp loại các phương án chính sách khác nhau và
8. Đưa ra các kết quả toàn bộ giai đoạn đánh giá và trình bày.
Quá trình phân tích chính sách nói chung không phải là công việc có thể làm
được ngay, mà thường phải trải qua nhiều chu trình khác nhau. Do đó, mục tiêu không
phải đưa ra những mô hình phân tích cứng nhắc mà phải chỉ ra, trong một phạm vi nào

đó, những giai đoạn cơ bản của việc phân tích. Bằng việc làm rõ những giai đoạn này
trong quá trình phân tích, có thể nhận được một hướng dẫn ban đầu về cấu trúc của
việc phân tích. Tuy nhiên, vấn đề cụ thể đặt ra và cản trở đối với việc nghiên cứu, cuối
cùng sẽ quyết định cách tiếp cận cho việc phân tích.
Mô hình phân tích định lượng thường bao gồm 4 giai đoạn cơ bản (DELFT
HYDTAULIC: Hoozemans, 1991).
1. Giai đoạn khởi xướng.
2. Giai đoạn thu thập và phân tích dữ liệu.
3. Giai đoạn mô hình hoá.
4. Giai đoạn lập kế hoạch.
Sự thẩm vấn với những người ra quyết định là hết sức quan trọng trong giai
đoạn 1 và giai đoạn 4. Trong giai đoạn 1- giai đoạn khởi xướng, các mục tiêu và thủ
tục phân tích phải được xác định. Giai đoạn này sẽ đưa ra một kế hoạch công việc cho
giai đoạn tiếp theo. Giai đoạn 2, giai đoạn thu thập và phân tích dữ liệu và giai đoạn 3,
giai đoạn mô hình hoá, yêu cầu nhà phân tích đưa ra được các thông tin chính.Giai
đoạn 2 có một đặc điểm là việc sử dụng các kiến thức chuyên ngành. Điều này rất cần

13
thiết cho việc thiết kế hệ thống hỗ trợ ra quyết định. Một hệ thống như vậy sẽ được áp
dụng trong giai đoạn 3, với điều kiện phải có các công cụ tính toán đủ dùng. Trong
giai đoạn cuối, các phương án về chính sách được đưa ra nhằm đánh giá và sắp xếp ưu
tiên. Kết quả của giai đoạn này có thể là việc hình thành một hoặc nhiều chính sách
hoặc chiến lược mong muốn. Mặc dù có sự chuyển giao từ từ giữa các giai đoạn trên,
nhưng việc tách riêng chúng là cần thiết để có thể kiểm soát được quá trình phân tích.
Đối với việc thiết kế các giai đoạn liên tiếp của kế hoạch quản lý vùng ven bờ,
cần đến một số công cụ và kỹ thuật sau:
- Thủ tục xây dựng các kịch bản.
- Kỹ thuật thu thập và xử lý dữ liệu.
- Thủ tục xây dựng và sàng lọc các chiến lược.
- Lập mô hình hệ thống.

- Các kỹ thuật sàng lọc và đánh giá và
- Các kỹ thuật trình bày.
Lập mô hình hệ thống chỉ có thể thực hiện được khi các tham số hệ thống đã
biết và các kịch bản được xác định một cách hợp lý. Hiệu quả của mô hình hoá sẽ
được nâng cao nếu các dữ liệu dựa vào được trình bày ở dạng thích hợp. Các áp dụng
thực tế sẽ mang lại hiệu quả cao nếu việc trình bày thuận tiện, dễ hiểu. Kỹ thuật tiên
tiến về GIS và cơ sở dữ liệu, có thể hỗ trợ công việc mô hình hoá cũng như các hoạt
động tiền và hậu xử lý. Việc tổng hợp các thành phần này vào hệ thống hỗ trợ việc ra
quyết định là rất có lợi.
1.3.2 Các loại dự án quản lý dải ven bờ
Có nhiều loại dự án quản lý vùng ven bờ. Các dự án này có thể phân biệt với
nhau theo độ liên kết giữa hệ tự nhiên, các chức năng và cơ sở hạ tầng (CSHT). Chẳng
hạn như:
Các hệ thống thông tin vùng ven bờ: các dự án chủ yếu được thực hiện để xây
dựng cơ sở dữ liệu và phân tích nhờ GIS.
Quản lý thiên tai: Các dự án chủ yếu tập trung vào kiểm soát xói lở bờ biển và
các giải pháp bảo vệ.
Quản lý chất lượng nước: Các dự án chủ yếu tập liên quan đến chất lượng
nước, hiệu ứng phân tán vật chất trong nước v.v…
Đánh giá và quy hoạch môi trường: các dự án chủ yếu liên quan đến việc xác
định các vùng nhạy cảm về môi trường, trong đó có quản lý đất ngập nước.
Phát triển du lịch và kinh tế: Các dự án chủ yếu nhằm xây dựng các lợi ích và
chiến lược du lịch
.
Quy hoạch và quản lý tổng hợp vùng ven bờ: Các dự án chủ yếu tập trung vào
việc phân vùng sử dụng đất và các văn bản pháp quy cho vùng ven bờ


14

×