Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận Thủy nông cải tạo đất ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 38 trang )

Tiểu luận Thủy nông cải tạo đất
I. Phần mở đầu
Tài nguyên nước có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của con người,
Nước được dùng trong sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, tưới tiêu trong nông
nghiệp, giao thông vận tải, đánh bắt thủy hải sản và nhiều giá trị khác… hiện
nay trên thế giới vẫn còn nhiều nơi không có đủ nước sạch để dùng. Việt Nam là
một quốc gia Đông Nam Á được thiên nhiên ưu đãi về nhiều mặt, trong đó có sự
dồi dào về nguồn tài nguyên nước: với lượng mưa dồi dào và hệ thống sông
ngòi dày đặc với 9 hệ thống sông lớn phân bố từ Bắc vào Nam. Trong đó, hệ
thống sông Đồng Nai là một hệ thống sông quan trọng, lưu vực của nó là vùng
kinh tế quan trọng, phát triển sôi động nhất cả nước đóng góp trên 40% mức thu
ngân sách cho nhà nước. Cùng với sự phát triển đó, nơi đây cũng tạo nên những
áp lựu ngày càng lớn lên hệ thống sông Đồng Nai cả về sử dụng và xả thải làm
cho nguồn nước bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Đây là một thực
trạng đang được báo động và gây ra những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, sản
xuất, sinh hoạt của người dân trong khu vực.
Qua đề tài này, chúng tôi đề cập đến đặc điểm, nguyên nhân gây ô nhiễm,
những tác động xấu đến cuộc sống của người dân, những biện pháp đã được áp
dụng và đề xuất một số giải pháp để giải quyết thực trạng ô nhiễm nguồn nước
trên hệ thống sông Đồng Nai nói riêng và ô nhiễm nguồn nước nói chung.
II. Nội dung
1. Giới thiệu về hệ thống sông Đồng Nai
Lưu vực hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai là một trong
những lưu vực sông lớn của Việt Nam, có diện tích khá rộng (37.885 km
2
)
và liên quan đến nhiều địa phương.
Lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có hình thái cấu trúc theo dạng nhánh
cây, phân bố theo trục Đông Bắc_ Tây Nam và các nhánh sông lớn quan trọng
cùng đổ nước vào dòng sông chính là sông La Ngà (nằm bên trái dòng sông
chính theo hướng từ thượng nguồn ra cửa sông), sông Bé, sông Sài Gòn và


sông Vàm Cỏ ( nằm bên phải). Sông Đồng Nai có dòng chải chính dài 470 km
và có diện tích lưu vực tính đến thác Trị An là 14.800 km
2
. Sông Sài Gòn có
dòng chảy chính dài 256 km, diện tích lưu vực 4710 km
2
. Sông Bé có dòng
chảy chính là 344 km, diện tích lưu vực 7170 km
2
. Sông La Ngà có độ dài 290
km, diện tích lưu vực 4.100 km
2
. Toàn bộ diện tích lưu vực có trên 266 sông
suối với chiều dài từ 10 km trở lên.
Tổng lượng dòng chảy hang năm LVHTS Đồng Nai khoảng 36,3 tỷ
m
3
, trong đó có khoảng 32 tỷ m
3
phát sinh trong lãnh thổ ( chiếm 89%), lượng
dòng chảy năm của sông Bé khoảng 8 tỷ m
3
, sông Sài Gòn khoảng 3 tỷ m
3
,
sông Vàm Cỏ, sông La Ngà khoảng 5 tỷ m
3
mỗi sông. Chế độ dòng chảy ở
lưu vực sông phụ thuộc nhiều vào chế độ mưa và chế độ triều từ biển
Đông. Chế độ thủy văn biến đổi lớn theo không gian và thời gian: mưa

nhiều thì dòng chảy mạnh, mưa ít thì dòng chảy yếu. Khi có triều cường
thì dòng chảy mạnh hơn, xâm nhập vào đất liền và khi triều kém thì
ngược lại.
Khí hậu trong lưu vực có hai mùa chính (mùa mưa và mùa khô) ,
Nên chế độ dòng chảy ở lưu vực sông cũng hình thành tương ứng: chế độ
dòng chảy mùa mưa, chế độ dòng chảy mùa kiệt. Sự biến đổi dòng chảy
giữa hai mùa rất tương phản nhau.
Lưu vực có đập và công trình điều tiết với 2 hồ chứa lớn là hồ Trị An
( phát điện) và hồ Dầu Tiếng ( hồ thủy lợi). Các công trình thủy điện khác như
Đơn Dương, Đai Ninh, trên sông Đồng Nai, thác Mơ, Srok Fuming trên sông
Bé, Hàm Thuận, Đa Mi trên sông La Ngà. Sau khi có thủy điện Dầu Tiếng, lưu
lượng trung bình tháng trong mùa kiệt ( tháng 2,3,4) tăng lên tới 4 đến 5 lần so
cới trước, lưu lượng mùa lũ( tháng 8, 9, 10)giảm chỉ còn 50% so với trước khi
có công trình.
Về điều kiện tự nhiên, 11 tỉnh thuộc lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai
có diện tích hơn 5 triệu ha. Nền nhiệt độ trên lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai
tương đối cao và ổn định. Lưu vực sông chịu ảnh hưởng chủ yếu của ba hệ thống
hoàn lưu: gió mùa mùa đông, gió mùa mùa hè và gió tín phong xen kẽ vào các thời
kỳ suy yếu của từng đợt gió mùa. Do đó hướng gió thịnh hành ở lưu vực sông thay
đổi rõ rệt theo mùa. Sự biến đổi của độ ẩm phụ thuộc theo mùa, với độ ẩm tương
đối trung bình năm từ 78% - 86%. Trong lưu vực sông có hai mùa rõ rệt: mùa mưa
và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ cuối tháng 4 đến trung tuần tháng 11. Thời gian
còn lại trong năm là của mùa khô. Lượng mưa hàng năm trên lưu vực khá lớn,
nhiều nơi đạt trên 2000 mm, nhưng tập trung nhiều vào mùa mưa (chiếm 85% tổng
lượng mưa cả năm).
Tài nguyên thiên nhiên và môi trường:
Lưu vực hệ thống sông Đồng Nai được biết là khu vực có tài nguyên
khoáng sản phong phú bao gồm vàng, sắt, thiếc, kẽm…bắt đàu đueọc quan tâm
và khai thác trong thời gian gần đây.
Hệ thống rừng đầu nguồn đóng vai trò quan trọng đối với nguồn nước ở

LVHTS Đồng Nai. Tổng diện tích rừng đầu nguồn ở LVHTS Đồng Nai hiện
còn 950.000 ha, chiếm khoảng 18.66% tổng diện tích đất tự nhiên của 9 tỉnh
miền Đông Nam bộ, trong đó có khoảng 28000 ha là rừng đặc dụng, rừng đầu
nguồn có ý nghĩa lớn trong duy trì nguồn nước LVHTS Đồng Nai vào mùa khô
và chống lũ vào mùa mưa, Đồng thời có ý nghĩa trong bảo vệ các nguồn gen
quý và là nơi bảo tồn đa dạng sinh học của các hệ sinh thái nhiệt đới. Tuy
nhiên, hiện nay rừng ngày càng bị tàn phá nặng nề, không bảo đảm chức năng
phòng hộ của rừng đầu nguồn. Về số lượng, 89% các loại thực bì che phủ rừng
là các loại kém tác dụng về mặt dữ nước, dưới tán rừng thảm mục ít, làm giảm
khả năng điều hòa nước.
Trong lưu vực có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên có giá trị sinh thái và kinh tế cao, lớn
nhất là khu bảo tồn sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ với diện tích 73.260 ha ( khu
bảo tồn sinh quyển đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận), khu bảo tồn
sinh quyển vườn quốc gia Cát Tiên diện tích 73.878 ha. Ngoài ra còn rất nhiều khu
rừng đầu nguồn cũng có giá trị cao về nhiều mặt.
Vùng châu thổ của hệ thống sông Đồng Nai được biết đến là nơi sinh
sản của các loài thủy sinh, trong đó sản phẩm từ thủy sản đóng góp một phần
đáng kể vào kinh tế địa phương. Ô nhiễm nước vùng của sông sẽ đe dọa
nghiêm trọng tới cuộc sống ngư dân vùng biển.
Về điều kiện kinh tế xã hội: Tổng dân số của 11 tỉnh thuộc lưu vực
năm 2005 khoảng 16,4 triệu người chiếm 19,7% dân số cả nước. Trong đó, dân
số nông thôn khoảng 8,3 triệu người, dân số thành thị khoảng 7,8 triệu người.
Phân bố dân cư trên toàn bộ lưu vực không đồng đều, có sự khác biệt, mất cân
bằng giữa các địa phương, giữa thành thị và nông thôn.
Mật độ dân số trung bình là 296 người/ km
2
, riêng thành phố Hồ Chí
Minh là 2.811 người/ km
2
.

Trên lưu vực sông đang diễn ra quá trình đô thị hóa với tốc độ cao, trung bình trên
toàn lưu vực là 5.5%, trong đó cao nhất là tại Bình Dương lên tới 15,6 %. T.p Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Bà Rịa_ Vũng Tàu…là những tỉnh có tốc độ đô thị hóa cao tập trung
phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ và đô thị hóa mạnh nhất trong hệ
thống các vùng kinh tế lớn của Việt Nam mà trọng tâm là vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, nhưng cơ sở hạ tầng lại không tương xứng . Như vậy sông Sài Gòn – Đồng
Nai giữ vai trò đặc biệt trong phát triển kinh tế xã hội của 11 tỉnh, thành phố có liên
quan đến lưu vực. Hệ thống này vừa là nguồn cung cấp nước cho sinh hoạt và các
hoạt động kinh tế trên lưu vực, đồng thời là môi trường tiếp nhận và vận chuyển
các nguồn đổ thải trên lưu vực. Trên lưu vực sông đang diễn ra mâu thuẫn hết sức
gay gắt giữa các mục tiêu khai thác, sử dụng nguồn nước để phát triển kinh tế - xã
hội với các mục tiêu quản lý, bảo vệ nguồn nước để sử dụng lâu bền.
2. Thực trạng chất lượng nước
2.1. Hạ lưu
hệ thống sông Đồng
Nai ô nhiễm nặng
Trải rộng trên địa
bàn nhiều tỉnh, lưu vực hệ thống
sông Đồng nai chịu ảnh hưởng
mạnh của nhiều nguồn tác động
trên toàn lưu vực. Phần hạ lưu
của nhiều sông trong khu vực đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, trong đó có đoạn đã trở
thành sông chết.
Thông tin trên đã được Cục Kiểm soát ô nhiễm (Bộ Tài nguyên và Môi
trường) công bố tại Hội thảo "Tăng cường hỗ trợ đầu tư bảo vệ môi trường tại lưu
vực hệ thống sông Đồng Nai từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam” do Quỹ này tổ
chức tại thành phố Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu), ngày 6/4.Theo Cục Kiểm
soát ô nhiễm, nhiều chỉ tiêu về môi trường ở hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai đã
vượt tiêu chuẩn cho phép ở mức độ báo động, trong đó nghiêm trọng nhất là ô
nhiễm hữu cơ, vi sinh, kim loại nặng và dầu mỡ. Kết quả quan trắc chất lượng nước

của Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh tại trạm cấp nước sinh
hoạt Hóa An (trên sông Đồng Nai) cũng cho thấy các chỉ tiêu DO, dầu và caliform
đều không đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt loại A1.
Phó giám đốc Sở Tài nguyên môi trường TP HCM Nguyễn Văn
Phước cho hay, hiện nước sông Đồng Nai đoạn từ nhà máy nước Thiện Tân đến
Long Đại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã bị ô nhiễm chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng
vượt mức cho phép 3-9 lần. Giá trị các chất COD vượt 1,8-2,8 lần, giá trị DO cũng
thấp dưới giới hạn cho phép.
Hiện chỉ số N-NH
4
(lượng amoniac) trong nguồn nước ở tất cả cửa
sông thuộc lưu vực sông Đồng Nai đều vượt chỉ tiêu quốc gia (QCVN) về chất
lượng nước loại A1, trong đó chỉ số COD nhiều nơi có xu hướng tăng mạnh ở các
khu vực như phà Bình Khánh, Tam Thôn Hiệp, sông Soài Rạp…
Chất lượng nước sông của khu vực hạ lưu: giá trị DO giảm xuống rất
thấp, SS vượt từ 2-2,5 lần TCVN 5942 – 1995 (loại B). Vùng này cũng đã bị nhiễm
mặn nghiêm trọng, nước sông ở khu vực này không không còn khả năng sử dụng
cho mục đích cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu.
Nước trên các con sông thuộc lưu vực sông Đồng Nai càng ngày càng đen
- Ảnh do Văn phòng Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực sông Đồng Nai cung cấp
Đánh giá tầm quan trọng của sông Đồng Nai đối với đời sống của hơn
17 triệu dân tại các tỉnh thành trong khu vực, TS Nguyễn Văn Ba, phó vụ trưởng
Vụ Khoa học công nghệ – môi trường, nói: “Sông Đồng Nai như là động mạch chủ
của các tỉnh miền Đông và các tỉnh thành lân cận. Thế nhưng lưu lượng nước trên
dòng sông này ngày càng giảm”.
Tài liệu của Hội Tài nguyên nước Việt Nam cho thấy năm 2005, lưu
lượng nước trên sông Đồng Nai chỉ cung cấp được khoảng 2.486m
3
nước/người/năm (theo tiêu chuẩn quốc tế, nếu một người dân chỉ được sử dụng
dưới 4.000m

3
/người/năm là đã thiếu nước sạch trầm trọng), năm 2010 giảm xuống
còn trên 2.000m
3
/người/năm và tới năm 2020 chỉ còn khoảng 1.770m
3
/người/năm.
Tình hình thiếu nước, dù là nước đang bị ô nhiễm, đang ngày càng gay gắt.
Tình trạng ô nhiễm hệ thống sông Đồng Nai làm cho hệ sinh thái bị
thay đổi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại và phát triển của các loại sinh vật
sống ở đây. Từ năm 2004 đến nay, nhiều hộ nuôi cá bè ở tỉnh Đồng Nai đã phải
điêu đứng vì tình trạng cá chết hàng loạt. Đầu năm 2007, cá bè của bà con ở
phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa bị chết rất nhiều, nhất là lúc nước sông
chảy chậm. Chỉ trong năm 2010, hàng chục tấn cá nuôi ở trong các bè của nhiều hộ
dân thành phố Biên Hòa chết nổi trắng trên mặt nước. Ông Nguyễn Văn Thỏa, một
hộ nuôi cá ở xã Hiệp Hòa (Biên Hòa) bức xúc cho biết: Hàng chục tấn cá, chủ yếu
là cá chép và cá điêu hồng của chúng tôi nổi trắng mặt sông vì nước bị ô nhiễm,
thiệt hại quá lớn về kinh tế, mà không biết bao giờ mới khắc phục được.
Nước sông Cái, một nhánh của sông Đồng Nai, bị ô nhiễm khiến cá nuôi
chết hàng loạt (ảnh nhỏ – chụp ngày 25-6-2010)
2.2. Ô nhiễm hệ thống sông Sài Gòn
Theo Tổng cục Môi trường, năm 2010 kết quả quan trắc cho thấy hiện
trạng mặt nước sông Sài Gòn về chất N-NH4 có chỉ số luôn vượt ngưỡng tiêu
chuẩn QCVN ở mức B1 nhiều lần; còn chỉ số BOD5 (nhóm chỉ tiêu đánh giá về
mức độ ô nhiễm chất hữu cơ của bề mặt nước) nhiều khu vực tăng mạnh… Điều
đáng nói là N-NH4 ở tất cả cửa sông đều vượt QCVN loại nước A1 như phà Bình
Khánh, đập Tam Thôn Hiệp, sông Soài Rạp…
Theo nghiên cứu của Sở Tài
nguyên môi trường TP HCM, đoạn sông từ
khu vực trạm bơm cấp nước Hóa An đến

Cát Lái, qua địa bàn TP HCM thuộc hệ
thống sông Sài Gòn chất lượng nước tương
đối ổn định. Tuy nhiên, tại các trạm quan
trắc Phú Cường, Bình Phước và Phú An,
nước đã bị ô nhiễm hữu cơ, đặc biệt là ô
nhiễm dầu và vi sinh, không thể dùng làm
nguồn cấp nước sinh hoạt.
Theo kết quả phân tích chất
lượng nước từ năm 2000 đến 2006 thì khu
vực sông Sài Gòn đã bị ô nhiễm vi sinh
(coliform) ở mức cao, vượt từ 3 đến 168
lần tiêu chuẩn cho phép và có xu hướng
tăng dần từ thượng nguồn, khu vực Phú
Cường, về phía hạ lưu, trạm bình Phước và
Cát Lái.
Tại khu vực Nhà Bè – Cần
Giờ (phía sau hợp lưu sông Sài Gòn và
sông Đồng Nai), khu vực Nhà Bè và Lý
Nhơn (trên sông Nhà Bè), Tam Thôn
Hiệp (trên sông Đồng Tranh) và Vàm Cỏ
(cửa sông Vàm Cỏ): chất lượng nước
sông tại khu vực Nhà Bè - Cần Giờ
không có dấu hiệu ô nhiễm chất hữu cơ.
Giá trị DO và BOD5 vẫn đạt tiêu chuẩn
chất lượng. Song ô nhiễm vi sinh vẫn ở mức cao và có chiều hướng gia tăng so với
cùng kỳ các năm trước.
Càng xuống vùng trung lưu (khu vực cầu Bến Súc, cửa sông Thị Tính)
và đi dần về phía hạ lưu sông thì tình hình ô nhiễm lại ở mức báo động. Theo kết
quả quan trắc, vùng cửa sông Thị Tính có hàm lượng Nitơ vượt gần 30 lần tiêu
chuẩn.


Nguồn nước sông Sài Gòn đang bị ô nhiễm nghiêm trọng
(Ảnh: K.V)
2.3. Những con sông khác thuộc lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai
Các con sông thuộc lưu
vực hệ thống sông Đồng Nai như
Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, Sài
Gòn, sông Bé, Đồng Nai, La Ngà… –
nơi sinh sống của cả chục triệu người
– đang bị ô nhiễm nặng nề.
Chất lượng nước của một số sông nhánh khác như Sông Bé, Đa Nhim
– Đa Dung phần hạ lưu cũng đang diễn biến theo chiều hướng xấu đi. Hàm lượng
sắt trên sông Bé rất cao, vượt TCVN 5942 – 1995 (loại A) từ 10 – 12,5 lần, điều
này khiến cho việc sử dụng nước sông để cấp nước sinh hoạt gặp rất nhiều khó
khăn. Ngoài ra, vào mùa mưa, nước sông thường rất đục.
Sông Vàm Cỏ đã bị ô nhiễm hữu cơ. Giá trị đo được của các thông số
đặc trưng cho ô nhiễm hữu cơ đều tương đối cao, vượt TCVN 5942- 1995 (loại A).
Khu vực cầu Kênh Xáng (Tây Ninh, thượng lưu sông Vàm Cỏ Đông) là khu vực
chịu ô nhiễm nặng nhất, trong những tháng cuối năm, giá trị DO thấp hơn TCVN
nhiều lần. Trong khi đó, N-NH4+ lại vượt TCVN 5942-1995 9 (loại A) nhiều lần.
Chất lượng nước sông không còn đảm bảo tiêu chuẩn sử dụng cho mục đích cấp
nước.
Tình trạng ô nhiễm nặng tại sông Thị Vải, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, với
một đoạn sông "chết" dài hơn 10 km. Nước ở đây bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng,
có màu nâu đen và bốc mùi hôi thối kể cả khi triều lên xuống. Giá trị DO thường
xuyên dưới 0,5 mg/l (giá trị thấp nhất tại khu vực cảng Vedan (0,04 mg/l). Với giá
trị DO gần bằng 0 thì các loài sinh vật không còn khả năng sinh sống. Thông số N-
NH4+ cũng vượt quá TCVN 5942-1995 (loại B) từ vài chục đến hang trăm lần.
Hàm lượng thủy ngân tại khu vực cảng Vedan, cảng Mỹ Xuân vượt 1,5-4 lần, kẽm

vượt 3-5 lần TCVN 5942-1995 (loại B).
Những người nuôi cá bè trên sông Cái (một con sông trong hệ thống
sông Đồng Nai) luôn khốn khổ bởi cá chết hàng loạt do nước sông bị ô
nhiễm.
2.4. Hệ thống ao hồ, kênh rạch trong khu vực đô thị trên
lưu vực hệ thống sông Đồng Nai đã bị ô nhiễm nghiêm trọng
Ô nhiễm nước mặt tại các kênh rạch nội thành TP.HCM hiện nay đang
trở thành một trong những vấn đề nổi
cộm của lưu vực sông. Khu vực nội
thành của thành phố hiện có 5 hệ
thống kênh rạch tiêu thoát nước chính.
Hầu hết các kênh rạch này đã bị ô
nhiễm hữu cơ và ô nhiễm vi sinh ở
mức cao. Vào mùa khô, ô nhiễm trở
nên đặc biệt nghiêm trọng do khả
năng tự làm sạch của thủy vực kém
hơn mùa mưa. Đặc biệt, giá trị Coliform tại hầu hết các kênh rạch đều ở mức rất
cao, vượt TCVN
5942 -1995
(loại B) từ hàng
nghìn đến vài chục
nghìn lần.
Nước hồ thủy điện Trị An cũng bị cảnh báo là ô nhiễm
nghiêm trọng. Ảnh: P.A.
3. Nguyên nhân
3.1. Nước thải công nghiệp
Thống kê sơ bộ, đến hết năm 2009, 12 tỉnh/thành thuộc lưu vực sông
có đến 103 khu công nghiệp (do Chính phủ ra quyết định thành lập, chưa kể các
khu công nghiệp, cụm công nghiệp
do địa phương thành lập). Trong đó

chủ yếu tập trung ở t.p Hồ Chí Minh,
chiếm trên 60 %.
Theo Trung tâm Công
nghệ môi trường (ENTEC), lưu
lượng nước thải công nghiệp tống ra
lưu vực sông Đồng Nai là gần 2 triệu
m
3
/ngày đêm. Đó là chưa kể hơn 2,7
triệu m
3
nước thải sinh hoạt đổ ra,
trong đó nước thải của hàng loạt khu đô thị không hề được xử lý, xả thẳng ra sông
suối.
Điều này cho thấy tổng lượng nước thải ô nhiễm xả thẳng ra các dòng
sông thuộc lưu vực sông Đồng Nai đang ở mức báo động. Báo cáo hiện trạng môi
trường của tỉnh Bình Dương cho thấy chỉ có 20% cơ sở sản xuất nằm ngoài khu,
cụm công nghiệp đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn.
Ngoài ra còn có trên 38% khu công nghiệp xả nước thải trực tiếp ra các dòng sông
vượt quy chuẩn cho phép.
Ông Nguyễn Văn Thùy phân tích: “Theo điều tra của ENTEC, trên
350 cơ sở xả nước thải trực tiếp ra sông Đồng Nai, trong 34 doanh nghiệp nằm
ngoài khu, cụm công nghiệp thì có 16 doanh nghiệp chưa xây dựng hệ thống xử lý
nước thải, gây nên ô nhiễm rất lớn”.
Bảng: Tổng hợp nguồn thải từ các khu công nghiệp tại một số tỉnh/thành
phố thuộc lưu vực sông Đồng Nai
3.2. Hoạt động của các khu công nghiệp và khu chế xuất
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và môi trường, tính đến hết năm
2009, 11 tỉnh thuộc lưu vực sông có đến 103 khu công nghiệp (khu công nghiệp do
Chính phủ ra quyết định thành lập, chưa kể các khu công nghiệp/Cụm công nghiệp

do địa phương thành lập) với diện tích quy hoạch trên 33.600 ha, diện tích sử dụng
là 18.200 ha. Trong số này chỉ có khoảng 1/3 các khu công nghiệp/khu chế xuất là
có nhà máy xử lý nước thải. Tuy nhiên, việc xử lý nước thải ở các khu công nghiệp
lại chưa được coi trọng, vận hành chưa tốt, tỷ lệ đấu nối nước thải vào hệ thống xử
lý nước thải tập trung còn thấp. Số còn lại hầu như đều xả trộm xuống sông Đồng
Nai và các sông phụ lưu. Chính vì thế nguy cơ gây ô nhiễm môi trường ở các khu
công nghiệp là rất lớn.
Điều tra của Trung tâm công nghệ môi trường (ENTEC) tại 350 cơ sở
xả thải trực tiếp ra sông Đồng Nai vào tháng 12-2009 cho thấy: Trong 34 doanh
nghiệp quy mô vừa và lớn nằm ngoài các khu công nghiệp/cụm công nghiệp có 9
doanh nghiệp chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải chiếm 12% dẫn đến lưu
lượng nước thải ra môi trường là rất lớn. Trong 11 doanh nghiệp quy mô nhỏ, cơ sở
sản xuất tiểu thủ công nghiệp chỉ có 4 cơ sở có trang bị hệ thống xử lý nước thải;
nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải cao… và đây cũng chính là nguyên nhân gây
nên sự ô nhiễm nguồn nước cho khu vực xung quanh.
Ô nhiễm nước sông Thị Vải, nhà máy VeDan đóng góp 90%.
3.3. Hoạt động khai thác khoáng sản
Hiện nay, hoạt động khai thác khoáng sản phát triển tương đối mạnh
trong lưu vực. Nhóm khoáng sản kim loại tập trung chủ yếu ở khu vực thượng lưu
(Lâm Đồng, Đồng Nai), nhóm khoáng sản phi kim (cát, đá, đất sét ) tập trung ở
vùng hạ lưu (Bình Dương, TP.HCM, Đồng Nai, Long An). Các hoạt động khai thác
đang là một nguyên nhân gây ảnh hưởng đến chất lượng nước mặt (kể cả ô nhiễm
kim loại nặng). Hoạt động khai thác quặng Bôxit và vàng ở phía bắc tỉnh Đồng Nai,
Lâm Đồng và một phần phía nam tỉnh Đăk Nông chủ yếu khai thác lộ thiên,
phương tiện khai thác rất thủ công. Việc đào bới, rửa xói từ hàng chục đến hàng
trăm nghìn tấn đất đã làm ô nhiễm nguồn nước sông Đồng Nai.
Khai thác cát của các cơ sở kinh doanh vật liệu xây dựng cũng đang
gây ảnh hưởng trực tiếp đến lưu vực sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Khi khai thác
cát tràn lan sẽ làm đảo nguồn, tạo dòng chảy, gây xói lở cho bờ sông, ảnh hưởng
trực tiếp đến việc sản xuất kinh doanh cũng như vận tải thủy.

3.4. Nước thải sinh hoạt
Theo số liệu năm 2006, trên toàn lưu vực có 77 khu đô thị với trên 8,4
triệu dân ( chiếm 60 % dân số toàn khu vực). Cùng với sự phân bố không đồng
đều, tốc độ dô thị hóa nhanh chóng, cơ sở hạ tầng khoogn đáp ứng được làm gia
tăng cả về lượng và tính chất của nước thải sinh hoạt.
Áp lực về dân số, nhu cầu sử dụng thì cùng với nước thải bẩn từ việc
sản xuất, hàng ngày các vùng đô thị, khu dân cư nằm trên lưu vực còn đổ ra khoảng
gần 3 triệu mét khối nước thải sinh hoạt, và hầu hết số nước thải này chưa qua xử
lý. Đây là nguồn thải lớn, gây ô nhiễm môi trường lưu vực, đặc biệt là ô nhiễm hữu
cơ và vi sinh vật.
Trong lưu vực sông, TP.HCM đóng góp lượng nước thải sinh hoạt lớn
nhất (77,5%) gây ô nhiễm nghiêm trọng vùng hạ lưu sông Sài Gòn. Đồng Nai là địa
phương đóng góp lượng nước thải sinh hoạt lớn thứ 2 trong lưu vực. Hạ lưu sông
Đồng Nai là nơi tiếp nhận chủ yếu lượng thải này, đặc biệt đoạn sông qua thành
phố Biên Hòa (tiếp nhận 87% tổng lượng nước thải sinh hoạt của tỉnh) môi trường
nước đã bị ô nhiễm hữu cơ nặng.
Bảng: Tải lượng các chất ô nhiễm do nước thải đô thị của một số tỉnh/thành
phố trong lưu vực hệ thống sông Đồng Nai năm 2004.
3.5. Nước thải làng nghề
Theo số liệu năm 2002, khu vực phía Nam Trung Bộ và nam Bộ có
tổng số 491 làng nghề với 291 xí nghiệp, hợp tác xã sản xuất. Phần lớn các cơ sở
tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề có thiết bị, công nghệ đơn giản, mặt bằng
sản xuất nhỏ, khả năng đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải rất hạn chế, do đó đã
gây ô nhiễm môi trường khá trầm trọng, với những đặc trưng khác nhau cho mỗi
loại hình.
Bảng: Tải lượng các chất ô nhiễm trong nước thải một số làng nghề trên LV
Bảng: Một số làng nghề điển hình trên lưu vực
3.6. Nước thải y tế
Theo đánh
giá của cơ quan chức

năng, ngoài nguồn nước
thải công nghiệp,
điều mà các nhà chuyên
môn, nhà khoa học lo
ngại là nguồn nước rác
thải y tế. Hầu hết các bệnh viện và trung tâm y tế trong lưu vực sông đều chưa có
hệ thống xử lý nước thải hoặc đã có nhưng xử lý chưa triệt để. Báo cáo hiện trạng
môi trường tỉnh Đồng Nai năm 2010 cho thấy có tới 35% lượng nước thải y tế tại
các bệnh viện tỉnh, huyện chưa được xử lý đổ thẳng vào môi trường. Số còn lại tuy
đã xử lý nhưng chất lượng nước cũng chưa đảm bảo, vì các bệnh viện đã xử lý
nước thải sai quy trình. Đó là chưa kể các trạm y tế và phòng khám đa khoa không
có hệ thống xử lý nước thải.
3.7. Hoạt động nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản
Trồng trọt
Lưu vực hệ thống sông Đồng Nai hiện có khoảng 1,8 triệu ha đất
nông nghiệp (chiếm 48,7% diện tích toàn lưu vực). Hoạt động canh tác trên lưu vực
sông đã gây ảnh hưởng xấu đến môi nước do việc sử dụng phân bón và thuốc bảo
vệ thực vật không đúng quy cách.
Việc khai thác và cải tạo đất phèn trên một số vùng như Long An, Củ
Chi, Bình Chánh (TP.HCM) cộng với việc sử dụng phân bón có đặc tính chua làm
gia tăng mức độ axit hóa nước sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông.
Chăn nuôi
Lâm Đồng, Bình Thuận và Đồng Nai là những khu vực có hoạt động
chăn nuôi phát triển rất mạnh trong lưu vực. Tổng lượng nước thải từ hoạt động
chăn nuôi trên toàn lưu vực sông là khoảng 147.300 m3/ngày. Hầu hết lượng nước
thải này đều được đổ xuống các nguồn nước mặt gây ô nhiễm môi trường.
Nuôi trồng thủy sản
Hiện nay, nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh trên toàn lưu vực.
nước thải và chất thải từ hoạt động nuôi trồng thủy sản thường không được kiểm
soát, không qua xử lý mà thải trực tiếp vào môi trường nước gây tác động đáng kể

đến chất lượng nước mặt trong lưu vực sông. Thêm vào đó, các sự cố do tôm, cá
nuôi chết hàng loạt không được xử lý kịp thời cũng là nguồn gây ô nhiễm môi
trường nước mặt nghiêm trọng.
Bảng: Số lượng gia súc (trâu, bò, lợn) của một số tnihr thuộc LVSĐN qua
các năm
Nuôi cá bè ở thượng nguồn sông Đồng Nai gây ô
nhiễm.
3.8. Hoạt động giao thông vận tải thủy
Lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có nhiều sông lớn, rộng, sâu…đặc
biệt là khu vực hạ lưu sông Đồng Nai, Sài Gòn, Thị Vải…Những khu vực này có
các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giao thông thủy và hệ thống cảng nước sâu
trong khu vực. Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống cảng kéo theo lượng tàu thuyền
gia tăng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước mặt do
việc xả thải dầu cặn và các chất thải có nguồn gốc dầu mỡ khoáng. Bên cạnh đó, sự
cố tràn dầu cũng đang ngày càng gia tăng do các vụ va chạm, chìm tàu chở dầu ,
sự cố vỡ đường ống dẫn dầu vào các bồn chứa xăng dầu tại các kho cảng nằm vên
sông Đồng Nai – Sài Gòn gây ô nhiễm môi trường nước vùng hạ lưu của lưu vực
sông.
Các vụ tràn dầu trên sông Đồng Nai cũng khiến
cho tình trạng ô nhiễm của con sông này lên mức báo
động.
3.9. Chất thải rắn
Vấn đề gia tăng dân số đã kéo theo khối lượng chất thải rắn cũng gia
tăng và gây quá tải về sức chứa đối với các bãi rác. Đây cũng là nguồn gây ô nhiễm
đáng kể đối với môi trường nước. Chất thải công nghiệp và các chất thải y tế nguy
hại tuy phát sinh với khối lượng ít nhưng có xu hướng tăng lên trong những năm
gần đây.
Trên lưu vực tồn tại nhiều bãi rác tuy nhiên đây đều là những bãi rác không
đúng quy cách. Do vậy, nước rò rỉ từ bãi rác ra ngoài hệ thống bờ bao gây ô nhiễm
tầng nước ngầm gây thiệt hại nặng nề đến đời sống và sinh hoạt của người dân

xung quanh.
Lượng rác thải đô thị phát sinh và
thu gom của các tỉnh/TP.LVS ĐN 2003
Lượng rác thải công nghiệp nguy hại
phát sinh tại lưu vực HTS Đồng Nai
Nguồn: cục BVMT, 2004
3.10. Suy giảm diện tích rừng đầu nguồn
Trong giai đoạn 1990-2002, diện tích rừng đầu nguồn ở lưu vực hệ
thống sông Đồng Nai đã giảm 107.300 ha, tương ứng với mức giảm bình quân
hàng năm là 8.942 ha/năm. Rừng bị suy giảm dẫn tới gia tăng nguy cơ xói mòn,
giảm khả năng giữ nước. Nước mưa chảy tràn mang theo nhiều tạp chất ô nhiễm
khác nhau đã góp phần gây ô nhiễm môi trường nước của lưu vực sông.
3.11. Sự xâm nhập của thủy triều gây nhiễm mặn nguồn
nước, ảnh hưởng đến tài nguyên đất.
Trong vài năm gần đây, nước sông Đồng Nai đã có biểu hiện gia tăng độ
mặn vào mùa khô. Đến mùa khô, độ mặn nước sông Đồng Nai đã tăng lên gấp
nhiều lần và xâm nhập sâu lên thượng nguồn. Lượng nước mặt trên các sông, hồ tại
Đồng Nai xuống thấp nên khi thủy triều dâng đã đẩy nước mặn vào sâu trong đất
liền, khiến cho hơn 100 ha diện tích cây trồng nằm ven các sông Đồng Nai, sông
Thị Vải bị thiệt hại nặng về năng suất.
Kết quả quan trắc chất lượng nước sông Đồng Nai của Trung tâm quan trắc
và kỹ thuật môi trường Đồng Nai tháng 2-2011 cho thấy độ mặn nước sông Đồng
Nai đoạn từ cầu Đồng Nai đến cầu Hóa An (nơi gần các họng lấy nước thô của các
nhà máy nước) có nhiều khu vực tăng trên 10 lần so với tháng trước, với chỉ số độ
mặn từ 242 mg/lít đến 1.200 mg/lít. (theo quy chuẩn Việt Nam, nước dùng cho sinh
hoạt cột A1 độ mặn cho phép là 200 mg/lít, nước cột A2 dùng cho sinh hoạt nhưng
phải qua xử lý, độ mặn cho phép 400 mg/lít).
3.12. Những tác động khác có liên quan
Đó là việc xây dựng các hệ thống hồ, đập thủy điện đã làm thay đổi
dòng chảy, lưu lượng nước từ đó ảnh hưởng đến khả năng tự làm sạch của dòng

chảy.
4. Ảnh hưởng do ô nhiễm nước
4.1. Ảnh hưởng đến sức khỏe con người
Những người dân ở vùng nông thôn và có thu nhập thấp thường sử
dụng trực tiếp nước sông bị ô nhiễm làm nguồn nước sinh hoạt và đây là nguyên
nhân dẫn đến các bệnh đường ruột, phụ khoa, da liễu thậm chí gây ra bệnh ung
thư Tại tỉnh Bình Dương, người dân thuộc các huyện sống gần sông Sài Gòn như
Bến Cát, Dầu Tiếng, Tân Uyên mắc bệnh lị và tiêu chảy cao hơn rất nhiều so với
các huyện không chịu ảnh hưởng của tình trạng ô nhiễm nước sông.
Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy tại một số tỉnh trong HTS Đồng Nai
4.2. Ảnh hưởng đến nguồn nước cấp
Mặc dù trong những thập niên gần đây chính phủ đã có chính sách đầu
tư cung cấp nước sạch nhưng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của người
dân nghèo. Người dân sinh sống trong khu vực nông thôn và vùng núi cao không
được tiếp cận với hệ thống nước sạch hoặc thiếu nước cho sinh hoạt. Tại khu vực
nông thôn, tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch trung bình toàn quốc năm 2005
là 66%, trong khi đó tỷ lệ này ở lưu vực hệ thống sông Đồng Nai là 67% (Trung
tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, bộ NN&PTNN, 2006).
4.3. Ảnh hưởng tới môi trường
Trên lưu vực sông Đồng Nai, các hoạt động sản xuất và sinh hoạt đã
thải vào môi trường nước một lượng lớn nước thải với nồng độ chất ô nhiễm cao,
vượt quá khả năng tự làm sạch của sông, gây hiện tượng các “đoạn sông chết”.
Việc xả thải các chất ô nhiễm vào môi trường nước mặt, đặc biệt là
vào thời gian triều cường tại các khu vực trung lưu và hạ lưu mang theo lượng thải
gây ô nhiễm quá lớn, không thể kiểm soát đã gây ô nhiễm nặng môi trường. Sông
Thị Vải là một trong những điển hình về vấn đề ô nhiễm môi trường gây tác động
trực tiếp tới các hệ sinh thái trong nước sông. Cho đến nay, tình trạng ô nhiễm nước
sông tại khu vực này vẫn chưa thể giải quyết được.
4.4. Ảnh hưởng tới phát triển kinh tế
Việc sử dụng nước trong lưu vực hệ thống sông Đồng Nai hiện nay tập

trung vào 3 lĩnh vực chính: cấp nước sinh hoạt, nông nghiệp và công nghiệp.
Lượng nước sử dụng cho nông nghiệp và sinh hoạt là chính, tuy nhiên tỷ lệ lượng
nước sử dụng cho nông nghiệp trong thời gian tới sẽ giảm để tăng lượng nước sử
dụng cho công nghiệp và sinh hoạt cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế xã
hội trên lưu vực. Việc này tất yếu sẽ dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột và tranh
chấp quyền lợi giữa các ngành, địa phương trên toàn lưu vực.
Trên quy mô toàn lưu vực, việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
một tỉnh/thành phố có ảnh hưởng đến việc sử dụng nguồn nước trên địa bàn một
hay nhiều tỉnh/thành phố khác. Đặc biệt, nếu các địa phương ở đầu nguồn tăng nhu
cầu sủ dụng nước hoặc gây ô nhiễm nguồn nước sẽ làm tăng nguy cơ thiếu hụt
nước cho khu vực hạ lưu.

×