Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
TRƯỜNG dh KINH TẾ - KỸ THUẬT
KHOA DƯỢC
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU CÁC LOÀI THỰC VẬT DÙNG LÀM
THUỐC THUỘC NGÀNH ĐỊA Y, RÊU, DƯƠNG XỈ,
THÔNG ĐẤT THÁP BÚT
GVHD: THS. NGUYỄN VINH HIỂN
Lớp : DS02A4
Họ và tên : NGÔ THỊ NGỌC NỮ
Năm 2010
1
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trong thế giới thực vật đa dạng, phong phú, có rất nhiều loại cây dùng
làm thuốc. Nhưng ta cứ ngỡ rằng chỉ những cây thực vật bậc cao, có thân, lá,
cành lớn thì mới có giá trị dược liệu cao.Thực tế cho ta thấy, cả những thực
vật dù nhỏ bé, dù xuất hiện sớm, nguyên thủy đến mấy cũng là một kho thuốc
vô cùng quý giá .Như Địa y, xuất hiện cách đây hơn 400 triệu năm, chỉ là
những sợi nấm bao lấy những cục tảo lục và vi khuẩn Cyano lơ/ dương, vậy
mà cho ta rất nhiều vị thuốc quý. Hay như Dương xỉ, xuất hiện từ thời trung
cổ, cũng được dùng làm thuốc ở khắp các nước từ Malaixia, đến Indonexia,
Philipin, Ấn Độ, … Ngoài ra rêu, thông đất, tháp bút cũng cho ta nhiều vị
thuốc cổ truyền quý giá.
Trong tập tiểu luận này, em xin trình bày một số cây thuốc thuộc các
ngành Địa y, Dương xỉ, Rêu, Thông đất, Tháp bút.
PHẦN II : NỘI DUNG CHÍNH
CÁC CÂY DÙNG LÀM THUỐC THUỘC NGÀNH ĐỊA Y
Trên trái đất, có lẽ không một loại sinh vật nào
lại độc đáo bằng địa y. Chúng độc đáo không chỉ bởi
gồm nhiều loại sinh vật bặc thấp gộp lại mà còn bởi
có màu sắc rực rỡ, nổi bậc với màu đỏ, cam, nâu,
vàng và màu xanh củng những hình thù vô cùng đa
dạng. Địa y đã xuất hiện cách đây 400 triệu năm. Địa
y là một dạng sinh vật đặc biệt được hình thành do sự
chung sống giữa một loại tảo và nấm. Các sợi nấm hút nước và muối khoáng
cung cấp cho tảo. tảo nhờ có chất diệp lục, sử dụng chúng để chế tạo chất hữu
cơ nuôi sống cả hai bên. Trong cuộc sống chung này, tảo và nấm đều có vai
trò nhất định, không bên nào lệ thuộc hoàn toàn vào bên nào. Hình thức sống
đó gọi là cộng sinh.
Hiện nay có khoàng 13.500 đến 18.000 loại nấm địa y thuộc họ nấm
nang ( cái chén) Ascomycetes, 20
loại nấm địa y thuộc họ nấm đảm
( viên đạn) Basidiomycetes
cùng 40 loài tảo và vi khuẩn địa y.
Các thành viên trong địa y
luôn tương hổ bảo vệ nhau cùng
tồn tại. Tảo và vi khuần Cyano cho
địa y chất diệp lục để có thể sánh
2
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
ngang với cây cối quang hợp tổng hợp thức ăn từ nước và CO2 cũng như cung
cấp vitamin cho nấm. Ngược lại, nấm cũng bảo vệ tảo và vi khuẩn Cyano khỏi
bị khô, bị nắng gắt bằng cách bao bọc xung quanh. Nhờ thế địa y địa y lan tỏa
rất nhanh và ở nhiều môi trường khác nhau. Chúng có thể sống trên sa mạc
nóng bỏng, hấp thụ hơi nước từ sương (một đám địa y khô có thể hấp thụ
được một lượng nước nặng gấp 3 đến 35 lần nó), sống được trên băng tuyết và
hai vùng cực nam, bắc lạnh gía của trái đất trên bề mặt mọi chất liệu. Thậm
chí vẫn sinh sôi tốt khi ở ngoài không gian.
Địa y tựu chung có bốn dạng : dạng Foliose giống với lá dẹt và mỏng ;
dạng Crustose vẩy sừng ẩn giữa vỏ cây và sỏi đá chiếm 75 % các loại địa y ;
dạng Fruticose cây bụi mọc ngược hoặc rũ xuống , là loại địa y bặc cao nhất
với những nhánh gần giống với cây thật , và nổi bặc là loại địa y rêu tuần lộc
ở Bắc cực , dạng Squamulose lá bắc với nhừng thùy nhỏ tròn.
Ngoài vẻ đẹp, địa y còn là một kho thuốc quý giá với 600 sinh tố ăn
được, chữa bệnh và làm thuốc nhuộm .
tất cả các loại địa y đều ăn được ngoại trừ
rêu Sói vì có độc chất cao nên người
Nga đã dùng chúng để đầu độc chó
sói. Nhiều nơi đã dùng địa y để làm
thức cho người và gia súc, họ ăn sống,
nấu chin, hoặc nghiền lấy nước, phơi
khô để lộc lấy tinh bột và pha chế vào
bánh mì và canh.Về dinh dưỡng,
địa y không chứa chất béo và cơ bản chứa Carbonhydrate một chất ga giúp
tiêu hóa tốt .
Thời trung cổ, nhiều nước đã dùng địa y chữa bệnh như Cetraria
islandica cỏ phổi( kết cấu giống như lá phổi) để chữa bệnh ho lao, viên phổi ;
santhoria barietina địa y vàng (có màu sắc từ vàng nhạt đến vàng đậm) chữa
bệnh vàng da ; Pettigera địa y chó ( thể quả giống như răng chó) chữa bệnh
dại ; Usnea Florida chữa bệnh rụng tóc ; địa y đầu lâu ( mọc trên đầu lâu )
chữa chứng động kinh ; rêu Sói chữa bệnh da …Người ta cũng dùng những
loại địa y có mùi thơm làm nước hoa và chất chống bay hơi,và dùng nước ép
từ một số loại địa y làm giấy quỳ khi gặp axit nhẹ như ammonia sẽ biến thành
màu xanh lơ và axit nặng như giấm sẽ biến thành màu đỏ.
Tuy nhiên vì nạn phá rừng, việc xây dựng nhà cửa và sưu tập ồ ạt,
nhiều loại địa y đã bị biến mất. Giờ đây rất khó tìm được loại địa y Usnea
lonissima vốn chỉ sống ở những rừng già Tây Âu hay địa y Gymnoderma
lineare vốn rất nhiều vào những năm 80 ở công viên quốc gia Great Smoky
Mountains, Tennessee Mỹ . Do đó, gần đây hôi nghiêng cứu địa y và rêu của
Anh và Mỹ đã cấm việc sưu tập địa y ở một số địa điểm cũng như có chính
3
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
sách nhân rộng chúng trong các trung tâm sinh học Anh , Mỹ , Canada , Hà
Lan , Nhật Bản….đều có nhiều trường và khoa nghiên cứu địa y .
CÁC CÂY DÙNG LÀM THUỐC THUỐC THUỘC NGÀNH
DƯƠNG XỈ
Dương xỉ là một ngành lớn, da dạng với khoản 300 chi, 10.700 loài,
một số đã hóa thạch, gồm 3 lớp :Lớp lưỡi rắn, Lớp tòa sen và Lớp Dương xỉ.
Với nhiều cây được dùng làm thuốc trong y học.
Quản trọng
Quản trọng, Sâm bòng bong, Sâm chân rết - Helminthostachys
zeylanica (L.) Hook., thuộc họ Lưỡi rắn - Ophioglossaceae.
Mô tả: Cây thảo có thân gỗ mọc đứng cao 30-50cm, với những rễ to và
nạc nom như chân rết. Cuống lá dài 20-30cm, dày, màu lục hay màu cánh
gián. Phiến không sinh sản hình bàn tay xoè ra của các đoạn thon, thót hẹp
dần về phía gốc và về phía ngọn, nguyên hay hơi có răng cưa không đều; phần
sinh sản là bông dài 10-15cm, rộng 0,5-1cm, ngoằn ngoèo như con giun, nằm
ở đầu một cái cuống đi từ gốc của phần không sinh sản.
Bộ phận dùng: Thân rễ - Rhizoma Helminthostachyos.
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Nam Trung Quốc và các nước Á
châu nhiệt đới. Ở nước ta, cây mọc ở
nhiều nơi, cuối mùa hạ đầu mùa thu, trên
các bãi cỏ đá vôi và cả ở núi đất. Thu
hái thân rễ quanh năm, rửa sạch, thái
phiến, phơi khô dùng.
Tính vị, tác dụng: Quản trọng có
vị ngọt, tính mát; có tác dụng làm mát
phổi, hóa đờm. Ở Malaixia người ta
xem như là bổ và hạ nhiệt. Ở Ấn Ðộ
xem như là nhuận tràng, chống độc và
giảm đau.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Ở Inđônêxia, cũng như ở Malaixia,
Philippin, người ta dùng những chồi non
để ăn sống hay nấu chín làm rau ăn, như kiểu ăn măng tây; thường các chồi
non có nhiều phosphor, sắt. Thân rễ được dùng trị ho có nhiều đờm, hen
4
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
suyễn và ho lao. Liều dùng 12-20g rễ khô sắc uống. Dùng ngoài, giã thân rễ
tươi đắp vết thương và rắn độc cắn, đồng thời sắc nước uống.
Ở Malaixia, người ta dùng ăn với trầu không để chặn ho; ở Java dùng
để trị lỵ, xuất tiết và giai đoạn đầu của bệnh lao phổi.
Ở Ấn Ðộ, người ta dùng trị bệnh đau dây thần kinh tọa.
CỐT TOÁI BỔ
(Cây Tổ Rồng, Tổ Phượng)
Tên thuốc: Rhizoma Drynariae
Tên khoa học: Polypodium fortunei
O.Kuntze
Họ Dương Xỉ (Polypodiaceae)
Bộ phận dùng: thân rễ (vẫn gọi là củ).
Cây tổ rồng mọc bám chắc vào các cây cổ thụ
hoặc ở hốc đá. Thứ củ già, khô, da màu nâu,
thịt hồng hồng, không mốc mọt, không lẫn tạp
chất hay rễ khác là tốt.
Tính vị: vị đắng, chát, tính ấm.
Quy kinh: Vào kinh Can và Thận.
Tác dụng: hành huyết, chỉ huyết, trừ phong, bổ Thận.
Chủ trị: chữa bong gân, gẫy xương, chân tay mỏi, tê liệt. Trị các chứng
Thận thấp, đau háng, đau xương.
Liều dùng: Ngày dùng 8 - 20g
Cách bào chế
Theo Trung Y: Dùng dao đồng cạo sạch lông vàng, thái nhỏ, tẩm mật
ướt đều, đồ một ngày, phơi khô dùng. Nếu dùng gấp thì chỉ sấy khô, không đồ
cũng được (Lôi Công)
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch, cạo sạch lông, thái mỏng phơi
khô dùng.
5
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
Có khi tẩm mật hoặc tẩm rượu, sao qua dùng.
Dùng tươi: hái về bỏ hết lông tơ và các lá khô, rửa sạch giã nhỏ. Dấp
một ít nước vào rồi nướng cho mềm, đắp lên các vết đau. Trong một ngày
thay thuốc bó nhiều lần. Nếu không đủ cốt toái bổ thì có thể lấy bã dấp lại
nước rồi băng lại.
Bảo quản: để nơi khô ráo, tránh ẩm mốc
- Thận suy biểu hiện như đau lưng dưới, yếu chân, ù tai, điếc hoặc đau
răng: Dùng Cốt toái bổ với Bổ cốt chi, Ngưu tất và Hồ đào nhân để trị đau
lưng dưới và yếu chân.
Cũng có thể dùng Cốt toái bổ với Sinh địa hoàng và Sơn thù du để trị ù
tai, điếc và đau răng.
- Sưng và đau do chấn thương ngoài: Dùng phối Cốt toái bổ với Hổ cốt,
Qui bản và Một dược.
Kiêng ky: âm hư, huyết hư không nên dùng.
Cốt toái bổ - vị thuốc dự phòng và điều trị loãng xương
Cốt toái bổ là một trong những cây thuốc có tác dụng dự phòng và điều
trị loãng xương, điều trị gãy xương và các bệnh về xương khớp khác.
Để nghiên cứu tác dụng chống loãng xương, người ta đã thử nghiệm tác
dụng của cốt toái bổ trên hoạt tính của protease là men có vai trò gây khởi đầu
sự mất xương ở chuột cống và chuột nhắt trắng. Trong nghiên cứu này, cả cao
chiết cồn và cao chiết nước đều có tác dụng ức chế mạnh các cathepsin K và
L, là các yếu tố làm biến tính chất tạo keo trong xương, trong đó cao chiết cồn
có tác dụng mạnh hơn. Cũng đã chứng minh trong thử nghiệm nuôi cấy tế bào
và trên cơ thể động vật sống hiệu quả tốt của thân rễ cốt toái bổ trên sự tăng
sinh các tế bào xương của người và hoạt tính điều hòa miễn dịch.
Các tế bào tiền - xương được nuôi cấy với các nồng độ khác nhau của
cốt toái bổ và đã nhận xét thấy các nồng độ thấp có tác dụng kích thích sự
tăng sinh tế bào xương và các nồng độ cao lại có tác dụng ức chế. Ngoài tác
dụng chống loãng xương, cốt toái bổ còn có các hoạt tính dược lý khác như
tác dụng tăng cường chức năng nội tiết sinh dục nữ (và như vậy cũng là tác
dụng gián tiếp chống loãng xương), chống viêm và viêm khớp.
Các bài thuốc có cốt toái bổ
6
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
Bài thuốc bổ khí huyết, bổ gân xương, phòng và điều trị loãng xương,
dùng cho người cao tuổi, người suy nhược cơ thể, gãy xương: Cốt toái bổ 12g;
đảng sâm, hoài sơn, ba kích, mỗi vị 16g; hoàng kỳ, bạch truật, đương quy, cẩu
tích, tục đoạn, mẫu lệ, mỗi vị 12g; thiên niên kiện 10g. Sắc uống ngày một
thang hoặc nấu cao lỏng uống.
- Bài thuốc bổ gân xương, phòng và điều trị loãng xương: Bột cốt toái
bổ, bột sừng hươu nai, bột mẫu lệ, mỗi vị 2g. Làm thành viên uống, hay uống
dạng bột trong một ngày. Uống liên tục trong thời gian dài. Chữa đau lưng,
mỏi gối do thận hư, yếu: Cốt toái bổ 16g; cẩu tích, củ mài, mỗi vị 20g; tỳ giải,
đỗ trọng, mỗi vị 16g; rễ gối hạc, rễ cỏ xước, dây đau xương, thỏ ty tử, mỗi vị
12g. Sắc uống ngày một thang.
- Chữa đau lưng, răng đau, ù tai do thận hư: Cốt toái bổ tán nhỏ 4-6g,
cho vào bầu dục lợn, nướng chín ăn.
- Chữa phong thấp đau nhức thuộc huyết:
a. Phương thuốc ngâm rượu: Cốt toái bổ 40g, rễ gắm 120g, vỏ chân
chim 100g, rễ rung rúc 80g; rễ bươm bướm (bạch hoa xà), rễ chiên chiến, mỗi
vị 60g; xích đồng nam, bạch đồng nữ, tiền hồ, ô dược, cỏ xước, rễ bưởi bung,
mỗi vị 40g. Nấu thành cao đặc rồi cho thêm rượu 40o thành 2 lít, ngâm trong
3 ngày. Lọc lấy dịch trong, mỗi lần uống 30ml, ngày 2 lần.
b. Phương thuốc viên: Cốt toái bổ 160g (nấu với mật, phơi khô), cẩu
tích 240g (tẩm rượu nấu với nước muối, phơi khô), thạch hộc 160g (rửa với
rượu, chưng kỹ, phơi khô), hy thiêm 160g (chưng với rượu và mật, phơi khô),
rễ cỏ xước 160g (dùng tươi, rửa với rượu), vỏ chân chim 160g (sao), rễ gắm
160g (sao), quán chúng 100g (phơi chỗ râm), lá ké đầu ngựa 40g (phơi trong
râm). Các vị tán bột, làm thành viên, uống mỗi lần 8-12g với nước gừng hay
rượu.
- Chữa thấp khớp mạn tính (thể nhiệt): Cốt toái bổ, thạch cao, kê huyết
đằng, đan sâm, sinh địa, rau má, uy linh tiên, hy thiêm, khương hoạt, độc hoạt,
thiên hoa phấn, thổ phục linh, mỗi vị 12g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một
thang.
- Thuốc đắp chữa bong gân, tụ máu: Cốt toái bổ tươi, bóc bỏ hết lông
tơ và lá khô, rửa sạch, giã nhỏ, rấp nước, gói vào lá chuối đã nướng cho mềm,
đắp lên các chỗ đau, bó lại. Thay thuốc bó nhiều lần trong ngày.
7
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
Cẩu tích
Cẩu tích, Cây lông cu li - Cibotium
barometz (L.) J. Sm., thuộc họ Cầu tích -
Dicksoniaceae.
Mô tả: Cây có thân thường yếu,
nhưng cũng có thể cao 2,5-3m. Lá lớn có
cuống dài 1-2m, màu nâu nâu, ở phía gốc có
vẩy hình dải rất dài màu vàng và bóng phủ
dày đặc. Phiến dài tới 3m, rộng 60-80cm.
Các lá lông chim ở phía dưới hình trái xoan-
ngọn giáo dài 30-60cm. Lá lông chim bậc hai
hình dải - ngọn giáo, nhọn lại chia thành
nhiều đoạn thuôn, hẹp; mặt trên lá màu lục
sẫm, mặt dưới màu lục lơ; trục lá không
lông; các gân của các lá chét bậc hai có lông
len. Ổ túi bào tử 1 hay 2, có khi 3 hay 4 ở về
mỗi bên của gân giữa bậc 3; các túi màu nâu nâu, có 2 môi không đều nhau;
cái ở ngoài hình cầu, cái ở trong hẹp hơn, thuôn.
Bộ phận dùng: Thân rễ - Rhizoma Cibotii, thường gọi là Cẩu tích,
Lông phủ ngoài thân rễ cũng được dùng.
Nơi sống và thu hái: Cây phân bố rất rộng rãi ở ven rừng phục hồi sau
nương rẫy và trên các tràng cây bụi hoặc nơi đất ẩm gần bờ khe suối, rừng núi
ở khắp các tỉnh từ Lào Cai. Hà Giang, qua Quảng Nam-Đà Nẵng đến Lâm
Đồng. Thu hoạch thân rễ quanh năm, tốt nhất vào mùa thu- đông, cắt bỏ rễ
con và cuống lá, cạo hết lông vàng để riêng. Rễ củ đã cạo hết lông, rửa sạch,
thái phiến hay cắt từng đoạn dài 4-10mm, phơi hay sấy khô. Cần bảo quản nơi
khô ráo. Khi dùng tẩm dược liệu với rượu để một đêm rồi sao vàng.
Thành phần hóa học: Thân rễ cẩu tích chứa tinh bột (30%) và
aspidinol, lông vàng ỏ thân rễ có tanin và sắc tố.
Tính vị, tác dụng: Cẩu tích có vị đắng ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ
can thận, mạnh gân xương, trừ phong thấp. Người ta đã nghiên cứu tác dụng
chống viêm, ức chế chủ yếu giai đoạn viêm cấp tính, cả tác dụng gây động
dục kiểu oestrogen. Lông cẩu tích có tác dụng cầm máu có tính cơ học bằng
cách hút huyết thanh của máu và giúp cho sự tạo máu cục, làm cho máu chóng
đông.
8
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Cẩu tích dung chữa phong hàn,
thấp tê đau lưng, nhức mỏi chân tay, khó cử động, đau dây thần kinh toạ,
chứng đi tiểu són không cầm, di tinh, bạch đới. Ngày dùng 10-20g dạng thuốc
sắc.
Lông vàng quanh thân rễ dùng đắp ngoài chữa các vết thương chảy
máu. Người ta thường để nguyên thân rễ với 4 gốc cuống lá tạo hình con vật 4
chân có lông vàng (Kim mao Cẩu tích) rồi phun rượu vào tạo ẩm cho lông
mọc nhiều để lấy lông dùng cầm máu. Hoặc lấy đoạn thân rễ có lông đem treo
lên, thỉnh thoảng lại phun rượu để lông mọc tiếp.
Đơn thuốc:
1. Chữa phong thấp, chân tay tê bại không muốn cử động Cẩu tích 20g,
Ngưu tất 8g, Mộc qua 12g, Tang chi 8g, Tùng tiết 4g, Tục đoan 8g, Đỗ trọng
8g, Tần giao 12g, Quế chi 4g, nước 600ml, sắc còn 250ml, chia 2 lần uống
trong ngày.
2. Chữa thận hư, sống lưng đau mỏi, đái luôn, vãi đái, bạch đới, di tinh:
Dùng Cẩu tích 15g, Thục địa 12g, Đỗ Trọng dây 10g, Dây tơ hồng (sao) 8g,
Kim anh 8g, sắc uống.
3. Chữa phong thấp đau nhức khớp xương, tay chân yếu mỏi hoặc bại
liệt co quắp: Dùng Cẩu tích 15g, Tục đoạn 12g, Cốt toái bổ 12g, Đương quy
10g, Xuyên khung 4g, Bạch chỉ 4g, sắc uống.
Ghi chú: Người thận hư mà có nhiệt, bí tiểu tiện hoặc nước tiểu vàng
đỏ, không nên dùng
Cỏ bợ
Rau bợ, Rau bợ nước, Cỏ chữ điền - Marsilea quadrifolia L., thuộc họ
Rau bợ - Marsileaceae.
Mô tả: Cây thảo, có thân bò dưới đất, mảnh, chia thành nhiều mấu, mỗi
mấu mang rễ và 2 lá có cuống dài. Lá có 4 thuỳ chéo chữ thập. Bào tử quả là
cơ quan mang bào tử, mọc 2-3 cái một ở gốc các cuống lá; các bào tử quả này
có lông dày.
9
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
Mùa sinh sản tháng 5-6.
Bộ phận dùng: Toàn cây -
Herba Marsileae.
Nơi sống và thu hái: Cây của
vùng quanh cực ôn đới, mọc
hoang, phổ biến ở ruộng nước và nơi
ẩm ướt dọc bờ ao, bờ ruộng, chỗ
nước cạn không chảy. Thu hái cây
quanh năm, dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Thành phần hoá học: Người ta đã biết trong Cỏ bợ có nước 84,2%,
protid 4,6%, glucid 1,6%, caroten 0,72%, vitamin C 76mg%. Cỏ bợ còn chứa
cyclolaudenol.
Tính vị, tác dụng: Cỏ bợ có vị ngọt, hơi đắng, tính mát; có tác dụng
thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu sưng, giải độc, nhuận gan, sáng mắt, trấn tĩnh.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Người ta thường hái Cỏ bợ về làm
rau ăn sống, xào, luộc hoặc nấu canh với tôm tép. Ðể làm thuốc, thường dùng
trị: 1. Suy nhược thần kinh, sốt cao không ngủ, điên cuồng; 2. Viêm thận phù
2 chân, viêm gan, viêm kết mạc; 3. Sưng đau lợi răng; 4. Ðinh nhọt, sưng độc,
sưng vú, tắc tia sữa, rắn độc cắn; 5. Sốt rét, động kinh; 6. Khí hư, bạch đới; 7.
Thổ huyết, đái ra máu, sỏi thận, sỏi bàng quang, đái đường. Ngày dùng 20-
30g cây tươi phơi khô, sao vàng, sắc uống.
Ðơn thuốc:
1. Tiêu khát, đái đường, dùng Cỏ bợ khô và Thiên hoa phấn lượng bằng
nhau, tán nhỏ, hoà với sữa uống.
2. Sưng lở, nổi mẩn do nhiệt, giã Cỏ bợ tươi xoa hoặc vắt lấy nước
uống. 3. Sỏi thận, sỏi bàng quang; giã nát lá tươi, thêm nước, gặn lấy nước
trong uống sáng sớm, mỗi lần 1 bát, liên tiếp 5 ngày. Dùng riêng hoặc phối
hợp với búp non Dứa dại 20g, Ngải cứu 10g. Phèn đen 10g.
CÁC CÂY ĐƯỢC DÙNG LÀM THUỐC THUỘC NGÀNH
RÊU
10
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
Ngành rêu có khoảng 22.000 loài (Việt nam có khoảng 800 loài)phân
bố rộng rãi trên trái đất, gồm 3 lớp: Lớp rêu sừng, Lớp rêu tản, Lớp rêu.Và có
giá trị dược liệu cao, gồm một số cây như:
Rêu than
Rêu than, Hồ lô đài - Funaria hygrometrica Hedw., thuộc họ Rêu than -
Funariaceae.
Mô tả: Rêu mọc thành đám ở đất. Thân cao 1-3cm. Lá xếp xoắn ốc và
mọc sít nhau ở đỉnh thân, tạo thành một hình đầu trong đó có chứa đỉnh sinh
trưởng, ở phía dưới lá xếp thưa hơn. Lá hình trứng rộng có gân giữa và gồm
một lớp tế bào có vách mỏng, chứa nhiều diệp lục. Tử nang thể nằm nghiêng
trễ xuống trên một cuống dài màu đo đỏ.
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Funariae.
Nơi sống và thu hái: Loài phổ biến rộng khắp trên thế giới, thường
mọc thành những đám dày đặc. Ở nước ta, rêu này thường mọc ở nơi ẩm, đặc
biệt ở những nơi bị đốt cháy, như trong lò đốt than củi ở độ cao 950-1100m
trên núi Tam Ðảo (Vĩnh Phú). Thứ calvescens (Schwaegr.) Moot. phổ biến
trên tro thông trong các rừng thông ở vùng Ðà Lạt (Lâm Ðồng).
Tính vị, tác dụng: Vị cay, hơi đắng, tính bình, có tác dụng tiêu viêm
chỉ thống, trừ thấp chỉ huyết, khư phong thông lạc.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Cây được dùng trị viêm hốc mũi,
đòn ngã tổn thương, phổi nóng thổ huyết.
CÁC CÂY ĐƯỢC DÙNG LÀM THUỐC THUỘC NGÀNH
CỎ THÁP BÚT
Cỏ tháp bút
Cỏ tháp bút - Equisetum arvense L., thuộc họ Cỏ tháp bút -
Equisetaceae.
Mô tả: Cây thảo sống lâu nhờ thân rễ, thân khí sinh thuộc hai loại. Các
thân không sinh sản, có khi mọc nằm rồi đứng lên, có màu lục, khía rãnh dọc
và có chiều dài 20-60cm, chúng mang những vòng các nhánh mảnh, trải ra rồi
mọc đứng lên. Ở các mấu có 8-12 lá dạng vẩy tạo thành một bẹ màu nâu. Các
cành sinh sản cao 10-20cm, không phân nhánh và tận cùng ở đỉnh là một khối
11
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
hình trứng kéo dài tức là các bông lá bào tử gồm các
vẩy có dạng đinh mang các túi bào tử ở mặt dưới.
Có cơ quan sinh sản vào cuối đông, đầu xuân.
Bộ phận dùng: toàn cây - Herba Equiseti
Arvensis, thường gọi là Vấn kinh.
Nơi sống và thu hái: Cây rất phổ biến ở châu
Âu và các nước ôn đới, trong các đồng ruộng. Ở
nước ta, cây mọc ở các chỗ ẩm ướt, núi cao, chỉ mới
tìm thấy ở Sapa, tỉnh Lào Cai. Người ta thường thu
hái các chồi màu lục (không sinh sản) vào cuối hè, rửa
sạch, phơi khô.
Thành phần hoá học: Cây chứa một hỗn hợp alcaloid gọi là equisetin;
nicotin, palustrin; một phytosterol; một saponoside là equisetonosid hay
equisetonin; 3. heterosid flavonic; galuteosid (galuteolin), isoquercitrosid
(isoquercitrin) equisetrosid. Còn có vitamin C, flavoxanthin, xanthophylle
Tính vị, tác dụng: Vị ngọt hơi đắng, tính bình; có tác dụng lợi tiểu cầm
máu, làm se và tiếp khoáng, điều kinh, làm liền sẹo.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng chữa: 1. Phù thũng
mà thiểu niệu; 2. Ho ra máu, băng huyết, chảy máu dạ dày, kinh nguyệt quá
nhiều; 3. Lao phổi.
Dùng ngoài làm tăng sự thành sẹo của mụn nhọt chậm lành. Cũng dùng
trị đau mắt, giải cảm cho ra mồ hôi.
Thường dùng dưới dạng bột hoặc nước hãm hay chiết xuất hoặc có thể
sắc uống. Dùng ngoài lấy cây tươi giã đắp.
Các bài thuốc dùng cỏ tháp bút:
Chữa viêm gan, viêm thận, viêm bàng quang, đái vàng thẫm, đái đỏ, đái ra
sỏi: Cỏ tháp bút, mộc thông, mã đề (hạt hay lá bông), sinh địa, cỏ xước (hay
ngưu tất), rễ cỏ tranh, mỗi vị 15g. Sắc uống với bột hoạt thạch 15g, chia làm 3
lần.
12
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
Chữa đau mắt, mộng mắt và các bệnh mắt khác: Cỏ tháp bút, cỏ dùi trống,
thảo quyết mình, gai chống, xác rắn, dinh địa, hoa cúc, mật mộng hoa, mỗi vị
10g, sắc uống.
Chữa cảm sốt không ra mồ hôi, nhức đầu, sưng đỏ sưng đau, chói sợ sáng,
mờ mắt, chảy nước mắt: Cỏ tháp bút, hoa cúc, lá dâu, hạt mào gà trắng, mỗi vị
12g, cỏ thanh ngâm 6g.
Chữa tiêu chảy ra máu mạn tính, rong kinh, băng huyết: Cỏ tháp bút 20-
30g sắc uống hàng ngày
Cỏ tháp bút yếu
Cỏ tháp bút yếu, Mộc tặc yếu - Equisetum ramosissimum Desf. Ssp.
debile (Vauch.) Hanke (E. debile Roxb. ex Vauch.), thuộc họ Cỏ tháp bút -
Equisetaceae.
Mô tả: Cây thảo có thân rễ dài nằm dưới đất, thân cao đến 1m rộng 5-
10mm, màu lục có 3-6 cành, phân thành từng lóng dễ gãy ở mắt, Lá thành
vòng ôm thân, có 6-30 răng thấp, màu sậm. Bông bào tử xoan tròn dài ở ngọn,
chót có mũi nhọn ngắn; vẩy mang túi bào tử hình khiên; bào tử hình cầu có 4
sợi đàn hồi.
Mùa sinh sản: tháng 10-12.
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Equiseti Ramosissimi.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở ven suối và các bãi cát ẩm dọc
sông ở vùng núi, từ Lào Cai tới Gia Lai, Ðắc Lắc, Lâm Ðồng. Thu hái toàn
cây quanh năm, tốt nhất vào tháng 4-5, rửa sạch rồi phơi khô.
Thành phần hoá học: Trong cây có hợp chất flavon.
Tính vị, tác dụng: Vị ngọt hơi đắng, tính bình; có tác dụng khu phong
thanh nhiệt, trừ thấp, lợi tiểu, tiêu sưng mắt.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Dùng chữa: 1. Viêm màng tiếp hợp
cấp, mắt đỏ sưng đau; 2. Lỵ, viêm ruột ỉa chảy; bệnh về gan; 3. Sỏi niệu đạo;
4. Rong kinh. Liều dùng 3-9g dạng thuốc sắc.
Ðơn thuốc:
13
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
1. Chữa viêm giác mạc cấp, đau mắt: Cỏ tháp bút, Mào gà (hạt), Cúc hoa,
Xác ve sầu, mỗi vị 10g sắc uống.
2. Chữa ỉa chảy ra máu không ngớt: Cỏ tháp bút 20g sao sắc uống vào lúc
đói.
3. Chữa băng huyết, rong huyết kéo dài hoặc đã mãn kinh mà còn rong
huyết không dứt: dùng Cỏ tháp bút sao 20g sắc uống.
4. Chữa viêm gan, bệnh về gan: Cỏ tháp bút 30g sắc uống như nước trà.
5. Chữa mắt đau lâu ngày, bị màng che cùng mọi chứng bệnh mắt: Cỏ
tháp bút, Cỏ dùi trống, Hạt muồng ngủ sao, Tật lê, Xác rắn, Sinh địa, Cúc hoa.
Hạt mào gà đều bằng nhau 10g, sắc uống.
Ghi chú: Loài Cỏ tháp bút bông tù (Mộc tặc trải) - Equisetum diffusum Don,
có bẹ không ôm sát thân, cành nhiều mọc đứng, bông hình thuôn dài hay hình
trụ tròn đầu, có cuống ngắn thường gặp ở vùng núi cao ẩm miền Bắc Việt
Nam (Sapa), cũng có cùng công dụng.
CÁC CÂY DÙNG LÀM THUỐC THUỘC HỌ THÔNG ĐẤT
Thạch tùng
Thạch tùng, Thông đá, Thăng
kim thảo - Lycopodium clavatum L.,
thuộc họ Thông đất -
Lycopodiaceae.
Mô tả: Cây mọc trên đất có
thân chính bò, có rễ ở phần giữa, các
thân mọc đứng nhiều và dài, thường
phân nhánh, các cành bên lưỡng
phân thường mang các bông có
cuống. Lá ở trên thân chính và trên
các cuống bông thì thưa và áp sát
vào thân, còn lá có trên các thân
đứng thì toả rộng ra, xếp sít nhau theo kiểu xoắn ốc, hình dải nhọn. Bông dài
5cm nằm ở cuối các cuống, mỗi cuống mang 2-5 bông mọc ra từ những nhánh
ngắn; lá bào tử rất khác biệt với lá thường. Túi bào tử hình thận.
Bộ phận dùng: Bào tử và toàn cây - Spora et Herba Lycopodii Clavati.
14
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
Nơi sống và thu hái: Loài của các vùng ôn đới và các vùng nhiệt đới.
Ở nước ta, cây mọc ở vùng cao Sapa, Tam Ðảo, Lang Bian. Người ta thu hái
các lá có túi bào tử trước khi chín và để cho chúng chín dần trên giấy đặt
trong nhà, các túi bào tử được cho vào rây để tách bào tử ra.
Thành phần hóa học: Bào tử
Thạch tùng chứa 3-4% chất khoáng, 3-4%
đường, khoảng 50% dầu béo màu vàng và
sáp, các sắc tố flavon. Toàn cây chứa
alcaloid. Cây ở Ấn Độ có lycopodine,
clavatine và clavatoxine. Cây ở Jamaica lại
có clavolonine, fawcettiine (fawcettimine),
lycopodine, dihydrolycopodine và L-2
(acetyl dihydrolycopodine).
Tính vị, tác dụng: Bào tử Thạch
tùng có tính làm dịu các kích thích của da,
tiêu viêm. Toàn cây có tác dụng lợi tiểu,
kháng sinh và làm dịu. Với liều cao, nó có
độc đối với hệ thần kinh trung ương.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Bào tử được dùng chữa viêm bàng
quang, làm dịu đau các vết loét lở ngoài da, xoa lên da để làm dịu da. Thường
dùng bột rắc ngoài hoặc xoa lên các chỗ da bị kích thích và chỗ hăm kẽ ngoài
da. Ðể uống trong, người ta trộn với 9 phần đường, ngày dùng 3 lần, mỗi lần 1
thìa cà phê để làm dịu viêm. Toàn cây dùng chữa viêm bàng quang và viêm bể
thận, chữa thấp khớp và các bệnh về phổi; cho một thìa dược liệu vào 1/2 lít
nước và đun sôi uống.
Ngành Dược còn dùng bột bào tử Thạch tùng để bọc các viên thuốc. Vì
bào tử chứa nhiều dầu nên người ta còn dùng để làm pháo bông hoặc làm
chớp giả.
Thạch tùng Hamilton
Thạch tùng Hamilton - Huperzia hamiltonii (Spring) Trevis.
(Lycopodium hamiltonii Spring), thuộc họ Thông đất - Lycopodiaceae.
Mô tả: Cây thảo phụ sinh, thân đứng hay thòng, dài đến 50cm, chia
nhánh lưỡng phân, to cỡ 1,5mm. Lá trải ra, dài 6-15mm, rộng 3-5mm, bóng.
Phần sinh sản ở nửa trên của thân với lá bào tử y như lá thường nhưng hơi nhỏ
hơn; túi bào tử hình thận, với 2 mảnh bằng nhau.
15
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Hyperziae Hamiltonii.
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Trung Quốc, Việt Nam. Cây mọc
trên thân cây có rêu, trên đá vùng núi cao ở Bắc bộ và Trung bộ. Người ta thu
hái toàn cây vào mùa hè thu, rồi đem phơi khô.
Tính vị, tác dụng: Vị đắng, tính hàn, không độc; có tác dụng thanh
nhiệt phá huyết, tiêu thũng chỉ thống.
16
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
PHẦN III : KẾT LUẬN
Đất nước ta vốn là một kho thuốc quý giá, biết tìm hiểu và sử dụng
đúng là một cách tự chăm sóc sức khỏe cho bản thân và những người xung
quanh.
Trong vô vàn những bài thuốc quý có những cây thuốc xuất phát từ
ngành địa y, dương xỉ, thông đất, tháp bút và rêu đã được trình bày như trên.
Tuy nhiên vì nạn phá rừng, việc xây dựng nhà cửa và sưu tập ồ ạt, nhiều loại
cây thuốc thuộc các ngành trên đã bị biến mất. Chúng ta cần bảo vệ và phát
triển các giống cây trên cũng như bảo vệ kho thuốc quý giá, và sức khỏe của
bản thân mình.
Nhận xét của giáo viên:
Bài làm có hình thức và bố cục tốt.
Nội dung đa đưa ra được một số đại diện cây thuốc ở các ngành.
Phần kết luận cần nêu:
Đã thống kê được bao nhiêu cây thuốc? thuộc những lớp, ngành nào?
Cây thuốc thuộc các ngành này chưa được nghiên cứu nhiều nên số loài
còn ít.
17
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Dược liệu học, của DS. Bùi Đức Dũng
- Giáo trình Phân Loại Thực Vật, của cô Phạm Thị Thanh
Mai
-
- />- />-
-
-
- www.violet.vn\vinhhienbio
18
Bài tiểu luận THỰC VẬT –DƯỢC LIỆU
19