Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

địa vị pháp lý của cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.84 KB, 106 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội, từ kết quả đổi mới chính sách kinh tế của Đảng, Nhà
nước. Để tiếp tục đổi mới kinh tế, phát huy nội lực và thu hút đầu tư nước
ngoài, Đảng và Nhà nước ta tiến hành cải cách hành chính và cải cách tổ
chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp. Việc nâng cao năng lực và hiệu quả
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật là cần thiết và cấp bách. Vì vậy,
việc đổi mới tính chất và hoạt động của các cơ quan tư pháp được Đảng, Nhà
nước rất quan tâm và đã được đưa vào Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 26/11/2003 Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi đã được Quốc hội
khóa 11 kỳ họp thứ 2 thông qua có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 và Pháp lệnh Tổ
chức điều tra hình sự sửa đổi đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua
ngày 20/8/2004 có hiệu lực từ ngày 1/10/2004 là một bước tiếp tục luật hóa
đường lối chính sách của Đảng.
Cơ quan hải quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan,
một lĩnh vực luôn gắn chặt với hoạt động đối ngoại, kinh tế đối ngoại, an ninh
quốc gia và an ninh cộng đồng trên lãnh thổ Hải quan. Do tính chất đặc thù
của lĩnh vực hải quan trên địa bàn là các cửa khẩu biên giới, những khu
thương mại, khu kinh tế cửa khẩu, hoạt động kinh tế sôi động, mặt khác tình
hình tội phạm buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới diễn ra ở
đâu cũng phức tạp. Để đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm xảy ra trong lĩnh vực hải quan, ngay từ khi thành lập, Hải quan Việt
Nam đã trở thành lực lượng quan trọng trong công tác đấu tranh phát hiện,
ngăn chặn và điều tra xử lý đối với các tội phạm buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
1
Hiện nay, địa vị pháp lý của cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự
được thể hiện ở 2 điều luật là Điều 104 và Điều 111 của Bộ luật tố tụng hình
sự. Theo đó, cơ quan hải quan có thẩm quyền khởi tố, điều tra tội phạm trong


lĩnh vực quản lý của mình. Theo thống kê thì Bộ luật hình sự có tới 14 tội danh
liên quan đến lĩnh vực quản lý của hải quan. Trong khi đó Pháp lệnh Tổ chức
điều tra hình sự lại giới hạn cơ quan hải quan chỉ được tiến hành khởi tố, điều
tra hai tội danh là tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định trong trường hợp phạm tội quả
tang, chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm trọng thì cơ quan hải quan tiến hành điều
tra, hoàn thành hồ sơ chuyển cho Viện kiểm sát. Nhưng thực tế cơ quan hải
quan khi kiểm tra sau thông quan còn phát hiện trường hợp không phải phạm
tội quả tang nhưng chứng cứ rõ ràng và ít nghiêm trọng thì cũng không cần
thiết phải chuyển cho cơ quan điều tra để tiếp tục điều tra mà cần được nghiên
cứu, xem xét giao cho cơ quan hải quan điều tra, hoàn thành hồ sơ chuyển cho
Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố. Có thể nói rằng, với quy định hiện hành
cơ quan hải quan chưa có cơ hội thực hiện hết khả năng của mình và những
bất cập trong quy định về thẩm quyền điều tra, phạm vi điều tra, thẩm quyền
tiến hành các biện pháp điều tra, áp dụng các biện pháp ngăn chặn…Vì vậy,
hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm của cơ quan hải quan không cao.
Hải quan Việt Nam nói riêng và Hải quan các nước trên thế giới nói chung là
lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia.
Để làm được điều đó, chúng ta cần nghiêm túc xem xét về địa vị pháp lý của
cơ quan này trong tố tụng hình sự, tạo điều kiện cho Hải quan phối hợp với
Hải quan các quốc gia khác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm quốc tế.
Xét thấy đây là thời điểm thích hợp cho việc nghiên cứu một cách khoa
học để tìm hiểu những nguyên nhân tồn tại trong việc thực thi nhiệm vụ điều
tra tội phạm của cơ quan hải quan. Mặt khác, Hải quan thực hiện các cam kết
quốc tế và phối hợp với các quốc gia trong đấu tranh phòng, chống tội phạm
2
quốc tế, góp phần đưa nước ta hội nhập với cộng đồng quốc tế. Đây cũng là lý
do mà học viên chọn đề tài "Địa vị pháp lý của cơ quan hải quan trong tố
tụng hình sự" để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Địa vị pháp lý của cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự là vấn đề
không chỉ những người làm công tác nghiên cứu mà những người làm công
tác thực tiễn quan tâm, nhất là lực lượng điều tra chống buôn lậu của Hải
quan. Trong thời gian qua đã có một số bài viết, một số công trình nghiên cứu
đề cập đến vấn đề này nhưng mới đề cập ở mặt nào đó của nó mà chưa có một
công trình nào nghiên cứu sâu và toàn diện, có hệ thống về địa vị pháp lý của
cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự. Có thể kể đến bài viết tham gia hội
thảo về luật tố tụng hình sự của tác giả Nguyễn Đình Dũng về "Thẩm quyền
điều tra của cơ quan hải quan"; luận văn thạc sĩ luật học: "Quyền hạn điều
tra của Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm trong tố tụng hình sự", của
Nguyễn Đình Long, 2000; luận văn thạc sĩ luật học: "Thẩm quyền điều tra
của hải quan", của Nguyễn Văn Lịch, 2001
Những công trình nói trên ở một khía cạnh nào đó đã đưa ra thẩm
quyền của cơ quan hải quan đối với các vụ án hình sự theo quy định của pháp
luật hiện hành. Trên cơ sở pháp luật đó phân tích những thành tựu cũng như
khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải đi sâu nghiên cứu các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của cơ quan hải quan
trong tố tụng hình sự và thực tiến áp dụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luật văn là nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của hải quan,
3
nêu ra những tồn tại trong những quy định của pháp luật cũng như những
vướng mặc trong quá trình áp dụng. Từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện
pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của cơ quan hải quan.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm

vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Về mặt lý luận: Nghiên cứu về những cơ sở quy định địa vị pháp lý
của cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự, từ quá trình hình thành đến chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan hải quan qua các thời kỳ.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy định của
pháp luật trong quá trình thực hiện thẩm quyền, đồng thời phân tích những
tồn tại xung quanh việc quy định địa vị pháp lý của cơ quan hải quan trong tố
tụng hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm đưa ra đề xuất và luận
chứng sự cần thiết phải hoàn thiện và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực hải quan.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn về địa vị pháp của cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự cụ thể là: Quyền
hạn của cơ quan hải quan trong đấu tranh phòng chống tội phạm; căn cứ về
địa bàn hoạt động, lĩnh vực hoạt động và yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội
phạm, mối quan hệ giữa cơ quan hải quan với các cơ quan điều tra khác; kết
hợp với thực tiễn áp dụng và tham khảo quy định của một số nước trên thế
giới để qua đó chỉ ra những hạn chế, tồn tại và đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực hải quan.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về địa vị pháp
lý của cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự dưới góc độ luật tố tụng hình
4
sự, đồng thời luận văn cũng có đề cập đến một số quy định của luật tố tụng
hình sự nhằm hỗ trợ việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
Về thời gian, luận văn địa vị pháp lý của cơ quan hải quan trong tố
tụng hình sự trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà

nước và pháp quyền Việt Nam; quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nội dung của luận văn được làm sáng tỏ trên cơ sở nghiên cứu các
văn bản pháp luật, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, các bài viết, các
tài liệu tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện địa vị pháp lý của cơ quan hải
quan trong tố tụng hình sự.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như
phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể, so sánh, phương
pháp xã hội học…
5. Những điểm mới mới về mặt khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học luật tố tụng
hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống và đồng bộ những vấn đề
lý luận và thực tiễn địa vị pháp lý của cơ quan Hải quan trong tố tụng hình sự
ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. Trong luận văn này, tác giả đã giải
quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:
1) Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự hiện hành về địa vị pháp lý của cơ quan hải quan, mối
quan hệ của cơ quan hải quan với các cơ quan điều tra.
5
2) Phân tích, tổng hợp thực trạng áp dụng, từ đó chỉ ra những khía
cạnh hợp lý và chưa hợp lý trong các quy định của pháp luật để có giải pháp
hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của cơ quan hải quan.
3) Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật tạo nên sự
đồng bộ, thống nhất áp dụng cần được ghi nhận.
4) Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng,
luận văn còn đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
trong đấu tranh phòng chống tội phạm của cơ quan hải quan cũng như việc
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu góp phần tăng trưởng kinh tế

đất nước.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ
đầu tiên đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vẫn đề lý luận và
thực tiễn về địa vị pháp lý của cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đã đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của
cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự và chỉ ra những nguyên nhân tồn tại,
yếu kém của cơ quan hải quan trong tổ chức thực hiện pháp luật tố tụng hình
sự, cũng như những vướng mắc và bất cập của những quy định của pháp luật
trong quá trình áp dụng. Nghiên cứu các giải pháp để triển khai thực thi địa vị
pháp lý của cơ quan hải quan.
Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở để: Xây dựng các văn bản hướng dẫn,
quy trình nghiệp vụ để triển khai thực hiện có hiệu quả thẩm quyền điều tra
tội phạm của cơ quan hải quan theo đúng quy định của pháp luật; Sẽ là tài liệu
khoa học bổ sung cho công tác nghiên cứu giảng dạy pháp luật phục vụ cho
công tác đào tạo và đào tạo lại theo chương trình đào tạo thực hiện kế hoạch
hiện đại hóa ngành Hải quan; Giúp cho các luật gia, Ban Cải cách tư pháp
6
trung ương có những cơ sở khoa học đánh giá đúng vai trò của cơ quan hải
quan trong đấu tranh phòng chống tội phạm, từ đó có những quy định phù
hợp về địa vị pháp lý của cơ quan hải quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vẫn đề lý luận chung về địa vị pháp lý của cơ quan
Hải quan trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của cơ quan Hải
quan trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng.

Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị
pháp lý của cơ quan Hải quan trong tố tụng hình sự.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA CƠ QUAN HẢI QUAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. VỊ TRÍ CỦA CƠ QUAN HẢI QUAN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm Hải quan và cơ quan Hải quan
Ở Việt Nam, cho đến nay, một số người còn hiểu và giải thích thuật
ngữ "hải quan" bằng cách ghép nghĩa của chữ "hải" (biển) với nghĩa của chữ
"quan" (cửa). Từ đó dẫn đến sự ngộ nhận, giới hạn phạm vi hoạt động của hải
quan chỉ là vùng biển hoặc vùng cửa sông, cửa biển quốc tế. Do vậy, trước
hết cần giải thích thuật ngữ "hải quan" một cách chính xác hơn [38].
Thực chất, hải quan là một từ Việt gốc Hán, được du nhập vào Việt
Nam từ năm 1955, khi Hải quan Trung Quốc giúp Việt Nam cải tổ lực lượng
thuế quan do thực dân Pháp để lại. Trong từ hải quan thì "hải có nghĩa là hải
ngoại, "quan" là có nghĩa là cửa. Hải quan được hiểu như là cửa khẩu biên
giới, nơi diễn ra hoạt động xuất nhập khẩu xuất nhập khẩu đối với hàng hóa,
xuất nhập cảnh đối với người và phương tiện vận tải. Ngày nay, hải quan
được coi là một cơ quan của Nhà nước, được thành lập với chức năng, nhiệm
vụ cụ thể nhằm kiểm soát các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
cũng như hoạt động xuất nhập cảnh qua biên giới của một quốc gia. Nói cách
khác, hải quan là cơ quan quản lý của Nhà nước đối với mọi hoạt động kinh tế
- thương mại diễn ra tại các cửa khẩu biên giới của một nước, kiểm soát các
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cũng như hoạt động xuất nhập
cảnh nhằm một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, chống lại các hoạt
động bất hợp pháp, thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại phát triển, mặt khác
còn góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Cùng với sự phát triển của
đất nước, hải quan ngày nay thường hoạt động theo một khuôn khổ pháp lý do
8

Nhà nước ban hành hoặc được các quốc gia thỏa thuận quy định thành Luật
Hải quan quốc tế.
Về mặt lịch sử, thuật ngữ "hải quan" có nguồn gốc từ khái niệm Douane
(thu quốc gia) của người Ai Cập. Sau đó La Mã đã la tinh hóa, rồi Pháp cũng
sử dụng thuật ngữ này để chỉ cơ quan hải quan, Hy Lạp và Đức gọi là "Zull",
còn Anh và các nước nói tiếng Anh gọi là "Custom" [29].
Theo Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) thì hải quan được hiểu là cơ
quan của Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Luật Hải quan, thu thuế hải
quan và các thuế khác, đồng thời cũng chịu trách nhiệm thi hành các luật lệ
khác có liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu, vận chuyển hay lưu kho hàng hóa.
Trải qua các thời kỳ phát triển lịch sử khác nhau, mỗi quốc gia có chủ
quyền đều có một tổ chức hải quan riêng của mình. Mặc dù quy mô, vị trí địa
lý, tình hình kinh tế, mức độ phát triển và các mục tiêu chính sách khác nhau,
nhưng các tổ chức hải quan đó đều có những đặc điểm rất giống nhau và có
chung tên gọi là hải quan - cơ quan gác cửa của đất nước về kinh tế gắn liền
với hoạt động đối ngoại và an ninh quốc gia. Hải quan ngày nay không chỉ
hoạt động trong phạm vi một nhà nước mà còn hoạt động trong phạm vi khu
vực và toàn cầu.
Ở Việt Nam, Hải quan ra đời ngay từ sau Cách mạng tháng 8 năm
1945 (ngày 10 tháng 9 năm 1945) và được gọi là "Sở thuế quan và thuế gián
thu" đặt trong Bộ Tài chính. Sau đó đổi tên là "Ngành thuế xuất nhập khẩu"
rồi chuyển thành "Sở Hải quan", năm 1962 đổi tên thành "Cục Hải quan trung
ương" thuộc Bộ Ngoại thương. Lần đầu tiên thuật ngữ "Hải quan" được sử
dụng tại Việt Nam là tại Nghị định số 136/KB/NĐ ngày 14 tháng 2 năm 1954
của Bộ Công thương về thành lập Sở Hải quan thuộc Bộ Công thương [29].
Ngày 20 tháng 10 năm 1984 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định
số 139/HĐBT về việc thành lập Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Năm 2001 ban hành Luật Hải quan Việt Nam
9
quy định Hải quan là cơ quan trực thuộc Chính phủ, là cơ quan hành pháp

trong Bộ máy nhà nước" quản lý lĩnh vực trong đời sống xã hội - lĩnh vực Hải
quan (Điều 13 Luật Hải quan năm 2001).
Ngày 4 tháng 9 năm 2002 Thủ tướng Phan Văn Khải ký Quyết định số
113/2002/QĐ-TTg về việc chuyển Tổng cục Hải quan vào Bộ Tài chính. Sau
đó vào năm 2005 Quốc Hội thông qua "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Hải quan" gồm 24 điều. Luật này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2006.
1.1.2. Nhiệm vụ của Hải quan trong tố tụng hình sự
qua các thời kỳ
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa được thành lập nhiệm vụ của nhân dân ta lúc này là xây dựng
bộ máy nhà nước, củng cố khối đoàn kết toàn dân, chống thù trong giặc
ngoài, bảo vệ thành quả cách mạng, phát triển đất nước.
Ngay sau ngày độc lập, nhân dân ta phải đối đầu với muôn vàn khó
khăn: nạn đói hoành hành, nền kinh tế đất nước kiệt quệ, sản xuất bị đình trệ
trong chiến tranh chưa kịp khôi phục lại, hoạt động xuất nhập khẩu không có,
ngân khố trống rỗng, thù trong giặc ngoài luôn rình rập âm mưu chống phá
chính quyền cách mạng. Khi đó nước ta gặp nhiều khó khăn về tài chính, do
đó một nhiệm vụ quan trọng của chính quyền mới là phải từng bước xây dựng
nền tài chính độc lập. Chính phủ lâm thời đã ban hành các sắc lệnh, nghị định
xóa bỏ một số loại thuế vô lý, giảm một số loại thuế quá cao, cũng như đề ra
phương hướng để từng bước xây dựng chế độ thuế khóa mới. Trong đó, có
sắc lệnh số 27/SL thành lập "Sở Thuế quan và thuế gián thu". Nhiệm vụ của
ngành Thuế quan và thuế gián thu là: thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thu
thuế gián thu và đấu tranh chống buôn lậu thuốc phiện và có quyền định đoạt,
hòa giải đối với các vụ phạm pháp về thuế quan và thuế gián thu.
Cuối năm 1946 kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ. Hải quan
Việt Nam cùng với nhân dân và các lực lượng cả nước bước vào cuộc kháng
10
chiến đầy thử thách. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, ngành Thuế
quan và thuế gián thu được giao nhiệm vụ mới cùng các lực lượng Công an,

dân quân du kích…ở các vùng giáp ranh tiến hành bao vây kinh tế địch để chỉ
đạo. Đến khi cuộc kháng chiến đã bước vào giai đoạn gấp rút, diễn biến cuộc
chiến đang có lợi cho ta. Chính phủ chủ trương chuyển hướng cho mở rộng
giao lưu hàng hóa với vùng tạm chiếm có lợi cho ta, quy định chặt chẽ việc
nộp thuế đối với hàng xuất nhập (chỉ cho xuất nhập những hàng hóa đã nộp
thuế, có tem và dấu kiểm soát của Ngành thuế quan). Đến tháng 2 năm 1951
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đã nhận định: …cần xét lại vấn đề bao vây
kinh tế địch …bao vây lợi hay hại? càng bao vây, buôn lậu càng phát triển,
giá ngoại hóa càng cao, kéo giá nội hóa cao theo, ảnh hưởng đến đời sống
nhân dân và đến việc cung cấp cho nhu cầu kháng chiến. Vì vậy, phải sửa đổi
lại chính sách bao vây kinh tế địch. Cần tùy nơi, tùy lúc mà bao vây cho đúng,
cốt sao có lợi cho tác chiến và bảo vệ được nội hóa. Hội nghị Trung ương lần
thứ nhất (khóa II) tháng 3 năm 1951 đã xác định: "Mục đích đấu tranh kinh tế
tài chính với địch cốt làm sao cho địch thiếu thốn, mình no đủ, hại cho địch,
lợi cho mình". Trên tinh thần đó, công tác quản lý xuất nhập khẩu được đẩy
mạnh theo phương châm: tranh thủ trao đổi có lợi, tranh thủ xuất siêu. Các
chính sách của Đảng được thể chế hóa liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của
Hải quan Việt Nam trong thời kỳ này như Điều lệ về "quản lý về xuất nhập
khẩu, hàng xuất nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu" và thành lập "Ngành thuế
xuất nhập khẩu để thay thế Ngành thuế quan" thực hiện nhiệm vụ kiểm soát
chống buôn lậu và lậu thuế, làm thủ tục cho hàng hóa xuất nhập khẩu, thu
thuế xuất nhập khẩu.
Sau khi Hiệp định Geneve về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Đông Dương được ký kết, cùng với việc chuẩn bị tiếp quản các thành phố do
Pháp tạm chiếm, toàn Đảng, toàn dân ta gấp rút bước vào công cuộc khôi
phục nền kinh tế bị tàn phá bởi chiến tranh, đồng thời mở rộng quan hệ buôn
bán với các nước, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc Nhà
11
nước độc quyền ngoại thương. Theo chủ trương đó, tại phiên họp thường kỳ
tháng 10 năm 1954, Hội đồng Chính phủ đã quyết định chuyển ngành Thuế

xuất nhập khẩu sang Bộ Công thương để thành lập ngành Hải quan.
Cùng với việc thành lập các Sở Hải quan, Bộ Công thương cũng gấp
rút soạn thảo các văn bản pháp lý cho việc hình thành và xây dựng bộ máy
ngành Hải quan. Trong đó, Nghị định số 73-BCT/NĐ/KB "Quy định nhiệm
vụ, quyền hạn, bộ máy tổ chức của ngành Hải quan". Đây là văn bản pháp
quy đầu tiên, xác định rõ cơ cấu tổ chức, phạm vi hoạt động và các mối quan
hệ công tác của Sở Hải quan và các cơ quan hữu quan. Đây là văn bản quan
trọng quy định nhiệm vụ, quyền hạn, bộ máy tổ chức của ngành Hải quan khi đó.
Theo Nghị định số 73, Ngành Hải quan có 4 nhiệm vụ sau:
- Chấp hành những thể lệ, biện pháp về xuất nhập khẩu.
- Thi hành thuế biểu
- Kiểm nghiệm hàng hóa xuất nhập khẩu
- Kiểm soát chống buôn lậu.
Trong thời kỳ khôi phục kinh tế (1955-1957), Nhà nước thực hiện
chính sách "quản lý ngoại thương", lập ra các Tổng công ty thuộc Bộ và các
Công ty xuất nhập khẩu của các tỉnh, thành phố để trực tiếp xuất nhập khẩu
hàng hóa, góp phần hạn chế và đi tới chấm dứt hoàn toàn hoạt động xuất nhập
khẩu của tư nhân. Ngoại thương có bước phát triển, quy mô hơn, chủ yếu là
với các nước xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1958, hoạt động ngoại thương của nước ta không ngừng phát
triển, chính thức chuyển từ chính sách quản lý ngoại thương sang chế độ Nhà
nước độc quyền ngoại thương. Vì vậy, phương hướng phấn đấu của Hải quan
thời kỳ xây dựng kinh tế 1958 -1960 là: Tích cực xây dựng ngành Hải quan
xã hội chủ nghĩa, để bảo vệ kinh tế quốc gia, bảo vệ chính trị, bảo vệ việc
thực hiện kế hoạch ngoại thương và tăng thêm tích lũy vốn cho ngân sách
12
Nhà nước, góp phần kiến thiết xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ này, tại một số
cửa khẩu đã thành lập các trạm Hải quan làm nhiệm vụ giám quản hàng hóa
trao đổi của cư dân biên giới, chống buôn lậu và kiểm soát việc trồng và tiêu
thụ thuốc phiện.

Mặc dù đã đạt được một số thành tựu trong hoạt động thực tiễn và xây
dựng các văn bản pháp luật chuyên ngành, nhưng về cơ bản các chính sách
kinh tế vẫn mang đậm nội dung mệnh lệnh của thời chiến, không còn phù hợp
với điều kiện xây dựng kinh tế thời bình. Vì vậy, về lâu dài đòi hỏi phải có
những văn bản pháp lý về quản lý kinh tế hoàn chỉnh ở mức cao hơn, đáp ứng
yêu cầu trước mắt và lâu dài.
Xuất phát từ yêu cầu chung và yêu cầu cụ thể của Ngành, từ cuối năm
1956, một tiểu ban do đồng chí Lý Ban, Giám đốc Sở Hải quan Trung ương
chủ trì đã tiến hành dự thảo Điều lệ Hải quan. Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung
đầu năm 1960 Dự thảo Điều lệ Hải quan đã hoàn thành. Điều lệ Hải quan là
văn bản pháp lý tương đối hoàn chỉnh đầu tiên về Hải quan của Nhà nước ta,
nó đánh dấu bước phát triển mới của Hải quan Việt Nam. Bản Điều lệ gồm
5 chương, 43 Điều trong đó chương 2 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của
Hải quan và trách nhiệm của cơ quan liên quan:
Để đảm bảo thực hiện chính sách quản lý ngoại thương,
quản lý ngoại hối của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cơ quan
Hải quan có nhiệm vụ:
1. Giám sát, quản lý hàng hóa, hành lý, tiền tệ, kim khí quý, đá
quý, ngọc trai, bưu phẩm, bưu kiện, công cụ vận tải khi xuất hay nhập.
2. Thi hành chính sách thuế xuất nhập khẩu và thu các loại
thuế khácđối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
3. Ngăn ngừa và chống những hành vi vi phạm luật lệ Hải quan
13
4 - Phát hiện, ngăn ngừa các thiếu sót trong việc bốc dỡ, vận
chuyển, sắp xếp, bảo quản hàng hóa xuất nhập khẩu [3].
Có thể nói rằng, trong giai đoạn này, ngoài chức năng quản lý xuất
nhập khẩu hàng hóa thì chức năng chống buôn lậu và các loại vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực hải quan cũng được xác định là chức năng quan trọng của
ngành Hải quan nước ta.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đề ra đường lối đổi mới

toàn diện. Để thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu
kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật… với nước ngoài, tăng cường hợp tác
quốc tế, Pháp lệnh Hải quan được ban hành theo Lệnh công bố số
32/LCT/HDDNN8 ngày 24/2/1990 của Hội đồng Nhà nước nhằm khẳng định
vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới.
Điều 3 của Pháp lệnh quy định: "Hải quan Việt Nam thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về hải quan đổi với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu,
xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, mượn đường Việt Nam; đấu tranh chống
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, ngoại tệ, tiền Việt Nam qua
biên giới" [41].
Do Pháp lệnh Hải quan được xây dựng trong những năm đầu của thời
kỳ đổi mới, trước khi ban hành Hiến pháp năm 1992, nên chưa phản ánh được
tinh thần mới theo Hiến pháp và quá trình phát triển kinh tế của đất nước cũng
như yêu cầu cấp bách về cải cách hành chính. Vì vậy, tại phiên họp thứ 10,
Quốc hội khóa X, Luật Hải quan đã được thông qua ngày 29/6/2001 và sau đó
là Luật sửa đổ, bổ sung một số điều của Luật Hải quan năm 2001 ngày 14
tháng 6 năm 2005. Luật Hải quan khẳng định quyền quản lý nhà nước về Hải
quan của cơ quan hải quan trước yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập. Luật
này xác định rõ những nhiệm vụ chủ yếu của Hải quan Việt Nam đó là:
14
1. Tiến hành thủ tục hải quan, thực hiện kiềm tra, giám sát, kiểm soát
hải quan để đảm bảo thực hiện quy định của nhà nước từ xuất khẩu, nhập
khẩu, quá cảnh hàng hóa; xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải
trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định;
2. Phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới và các vi phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động hải quan;
3. Tổ chức thu thuế và kiểm tra thực hiện chính sách thuế đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật;

4. Thực hiện thống kê nhà nước về hải quan;
5. Hợp tác quốc tế về hải quan.
Qua nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hải quan ở trên
cho thấy, tên gọi của ngành này cũng thay đổi qua từng giai đoạn cho phù hợp
với lịch sử nhưng về lĩnh vực hoạt động chủ yếu của cơ quan thì không thay đổi.
Như vậy, pháp luật quy định phòng chống, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới và các vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động hải
quan là một trong những nhiệm vụ lớn của ngành Hải quan. Theo đó, pháp luật
cũng quy định về địa vị pháp lý của cơ quan Hải quan trong tố tụng hình sự.
Về khởi tố vụ án hình sự, theo Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều điều tra
phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thủ trưởng đơn vị Bộ đội
biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển
và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết
định khởi tố vụ án trong những trường hợp quy định tại Điều 111
của Bộ luật này [24].
Về thẩm quyền điều tra, theo quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng
hình sự quy định về quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm
15
lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Việc quy định địa vị pháp lý của cơ quan Hải quan là xuất phát từ đặc
thù và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về hải quan.
1.2. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ QUY ĐỊNH ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN
HẢI QUAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.2.1. Tính chất đặc thù của lĩnh vực hoạt động hải quan
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, thủ tục hải quan là một trong những vấn đề mà các nhà nước đều

quan tâm tiến hành để cải cách theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và
coi đây như là một biện pháp tích cực để thúc đẩy hoạt động kinh tế đối
ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài… Vì vậy, Luật Hải quan quy định cụ thể về
thời gian và đơn giản hóa về thủ tục thông quan hàng hóa. Chính vì thủ tục
hải quan đơn giản, nhanh chóng nên việc kiểm soát hành vi phạm tội trong
lĩnh vực càng gặp khó khăn. Cụ thể như hàng hóa đã qua biên giới không thể
bắt giữ hay đo đếm, kiểm tra. Để đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời trong
việc phát hiện, ngăn chặn hành vi phạm tội, tất cả các nước trên thế giới đều
quy định về địa vị pháp lý của cơ quan Hải quan trong tố tụng hình sự.
Thông thường các vụ án xảy ra trong lĩnh vực hải quan là những vụ án
kinh tế rất phức tạp, việc phát hiện hành vi phạm tội là hết sức khó khăn. Điều
đó yêu cầu người cán bộ Hải quan làm công tác điều tra phải có một kiến thức
nhất định về lĩnh vực kinh tế, nắm bắt kịp thời về chính sách quản lý nhà
nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu về nghiệp vụ ngoại thương và hiểu
biết về lĩnh vực thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Chính sách quản
lý của nhà nước trong xuất nhập khẩu là chính sách điều hành của nhà nước
16
đối với hoạt động xuất nhập khẩu, áp dụng thông qua việc quản lý mặt hàng
và quản lý loại hình xuất nhập khẩu.
- Chính sách quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu là việc Nhà nước xác
định rõ những mặt hàng và chế độ quản lý đối với từng mặt hàng đó trên cơ
sở năng lực sản xuất trong nước, nhu cầu tiêu dùng của xã hội, cũng như vấn
đề an toàn cồng đồng và an ninh quốc gia. Chính sách quản lý này của nhà
nước trong từng giai đoạn là khác nhau, do nhiều cơ quan ban hành, hướng
dẫn thực hiện và thường xuyên thay đổi để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền
kinh tế bền vững.
Chế độ đối với từng mặt hàng mà nhà nước áp dụng trong việc quản lý
điều hành xuất nhập khẩu bao gồm:
+ Các mặt hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu: Là những mặt hàng
nhà nước cấm lưu thông hoặc những mặt hàng có chế độ quản lý đặc biệt như:

vũ khí, ma túy…mà mục đích của nó là nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích
cộng đồng. (Xem phụ lục 1).
+ Các mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện: Điều kiện trong xuất
nhập khẩu là xuất khẩu hoặc nhập khẩu phải có hạn ngạch hoặc có giấy phép
của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) hoặc cơ quan quản lý chuyên
ngành đối với loại hàng hóa đó. (Xem phụ lục 2).
Ví dụ: Nhập khẩu hàng tân dược phải có giấy phép của Bộ Y tế
+ Các mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, nhập khẩu: những mặt hàng
nước ta chưa sản xuất được, những sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao, máy móc
thiết bị công nghệ hiện đại… thì Nhà nước khuyến khích nhập khẩu, những
mặt hàng trong nước có thế mạnh thì khuyến khích xuất khẩu, từ đó Nhà nước
có những chính sách, thủ tục đơn giản tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu.
17
Từ năm 2006 đến nay có 03 văn bản điều chỉnh về vấn đề chính sách
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Đầu tiên là Quyết định số
39/2006/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 28 tháng 7 năm 2006 quy định về
Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi và sau đó được được thay thế
bằng Quyết định 106/2007/QĐ-BTC ngày 20 tháng 12 năm 2007 của Bộ Tài
chính về Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi.
Đến ngày 12 tháng 11 năm 2009, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số
216/2009/TT-BTC về Quy định về mức thuế suất của Biểu thuế xuất khẩu,
Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế.
- Về loại hình xuất khẩu, nhập khẩu: Căn cứ vào tính chất của hoạt
động xuất nhập khẩu mà chúng ta phân thành các loại hình xuất nhập khẩu
như: xuất nhập khẩu kinh doanh, xuất nhập khẩu đối với hàng hóa di chuyển,
quà biếu, xuất nhập khẩu nguyên liệu để gia công hoặc sản xuất hàng xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hóa có vốn đầu tư nước ngoài, xuất nhập khẩu hàng
hóa tham gia hội chợ triển lãm…
- Về chính sách quản lý về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu:

Nhà nước dùng chính sách thuế để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và
bảo hộ sản xuất trong nước, thiết lập hàng rào thuế quan, dùng thuế quan để
điều hành hoạt động xuất nhập khẩu, vì vậy chính sách thuế là vấn đề rất nhạy
cảm đối với hoạt động kinh tế đối ngoại của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Cơ quan hải quan được giao nhiệm vụ thu các loại thuế gián thu như
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt.
Đồng thời cơ quan hải quan cũng là cơ quan tiến hành kiểm tra các hoạt động
chấp hành pháp luật về thuế của các đối tượng phải nộp thuế.
Để thực hiện thu thuế và kiểm tra chấp hành pháp luật về thuế. Cơ
quan hải quan phải có kiến thức và hiểu biết về mã hàng hóa, về giá tính thuế,
18
thuế suất về kiểm tra sau thông quan và về chính sách thuế đối với từng loại
hàng hóa, từng loại thuế.
Qua trình bày sơ bộ những chính sách về quản lý xuất khẩu, nhập
khẩu và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, chúng ta thấy
lĩnh vực hải quan là lĩnh vực đa dạng và phức tạp, mang tính chuyên ngành.
Thực tế cho thấy, chính sách trong lĩnh vực hải quan của Nhà nước có
những nhược điểm sau đây:
+ Do nhiều cơ quan ban hành cũng như hướng dẫn thực hiện như:
Quốc hội, Chính phủ, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, các Bộ, ngành quản lý
theo chuyên ngành, Tổng cục Hải quan, vì vậy thiếu tính thống nhất trong chỉ
đạo áp dụng.
+ Những chính sách quản lý trong lĩnh vực hoạt động hải quan không
ổn định, thường xuyên thay đổi.
Ví dụ việc ban hành Bảng giá tính thuế tối thiểu áp dụng khi tính thuế
thường xuyên thay đổi cho phù hợp với thị trường.
+ Số lượng và văn bản quá nhiều và còn nhiều sơ hở, chồng chéo.
Từ những lý do trình bày ở trên có thể thấy rằng cơ quan Hải quan là
cơ quan có khả năng và điều kiện thường xuyên cập nhật các chính sách quản
lý về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, về thuế xuất nhập khẩu cho nên mới có

thể phát hiện kịp thời hành vi phạm tội hoàn thành tốt các hoạt động tố tụng
đối với những tội phạm xảy ra trong lĩnh vực hải quan.
Ngoài việc nắm vững chế độ chính sách quản lý đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu và chính sách đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, người
cán bộ Hải quan làm công tác điều tra trong lĩnh vực hải quan cần phải có
nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán trong thương mại quốc tế.
19
Trong thực tiễn hoạt động chống buôn lậu, các vụ án mà cơ quan hải
quan chuyển cho cơ quan điều tra để tiếp tục điều tra thì cơ quan điều tra gặp
rất nhiều khó khăn nếu không có sự hỗ trợ, phối hợp của cơ quan hải quan.
Bởi cơ quan điều tra tuy có kiến thức và nghiệp vụ điều tra nhưng lại không
có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực hải quan và nghiệp vụ ngoại thương cũng
như nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
Vì vậy, tính chất đặc thù trong lĩnh vực hải quan đó là sự đa dạng,
phức tạp trong hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hoạt động hải
quan. Chính vì thế đòi hỏi người cán bộ Hải quan làm công tác điều tra vụ án
trong lĩnh vực hải quan không chỉ có nghiệp vụ điều tra mà còn phải có
nghiệp vụ hải quan, nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán trong thương mại
quốc tế thì mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong hoạt động điều tra thuộc
lĩnh vực hoạt động của cơ quan hải quan.
Trong giai đoạn hiện nay, lực lượng điều tra của cơ quan hải quan đã
đáp ứng được những yêu cầu mà nhiệm vụ đề ra về khả năng chuyên môn để
tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định. Ví dụ: Số lượng cán bộ, nhân
viên Cục điều tra Chống buôn lậu - Tổng cục Hải quan, tính đến tháng 6/2010
là trên 500 người. Trừ số lượng cán bộ làm việc tại các Hải đội yêu cầu về
mặt chuyên môn cần thiết về hàng hải và các cán bộ văn phòng có chuyên
môn theo yêu cầu công việc, còn lại hầu hết cán bộ làm công tác nghiệp vụ tại
các phòng, đội nghiệp vụ tốt nghiệp các trường đại học an ninh nhân dân, Đại
học cảnh sát nhân dân, Cao đẳng an ninh nhân dân, Khoa luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội…

Tất cả những cán bộ trong ngành Hải quan đều phải qua khóa học đào
tạo nghiệp vụ hải quan từ ba tháng đến sáu tháng và thường xuyên được tập
huấn nghiệp vụ. Như vậy, mặc dù lĩnh vực Hải quan là lĩnh vực hoạt động có
tính chất công việc tổng hợp nhiều chuyên ngành nhưng lực lượng điều tra
20
của cơ quan hải quan đã đáp ứng tốt những yêu cầu đặt ra trong việc thực hiện
các hoạt động tố tụng hình sự.
1.2.2. Địa bàn hoạt động và khu vực kiểm soát hải quan
Điều 6 Luật Hải quan quy định:
Địa bàn hoạt động của hải quan bao gồm: Các cửa khẩu
biên giới, đất liền, nhà ga, đường sắt, các cảng hàng không quốc tế,
cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế, bưu điện quốc tế, bưu cục
kiểm quan, các khu ngoại quan, kho bảo thuế, cảng ICD, các địa
điểm làm thủ tục hải quan, kiểm tra hải quan trong lãnh thổ, những
nơi có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trên các vùng biển thuộc chủ
quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam, các tuyến đường vận
chuyển hàng hóa quá cảnh, trụ sở doanh nghiệp và những khu vực
khác do Chính phủ quy định [20].
Như vậy, địa bàn hoạt động hải quan là những nơi có đặc điểm như sau:
+ Là những vùng sâu, vùng xa, những nơi này thường không có tổ
chức của lực lượng chuyên trách để đấu tranh chống tội phạm xảy ra trong
lĩnh vực hải quan, đảm bảo cho cơ quan hải quan quản lý được hoạt động xuất
nhập khẩu và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
+ Là những nơi thường xuyên tiếp xúc với khách nước ngoài, những
nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt động đối ngoại và
kinh tế đối ngoại; khi khách nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài vào Việt
Nam để du lịch, tìm cơ hội làm ăn và thực hiện kinh doanh tại Việt Nam,
bước đầu tiếp xúc để lại ấn tượng tốt hay xấu là lực lượng Hải quan, thái độ
văn minh lịch sự hay gây phiền hà sách nhiễu của lực lượng hải quan sẽ có
ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình thực hiện chính sách kinh tế của Nhà nước.

Tuy nhiên, để tạo ra thiện cảm đối với khách quốc tế vào Việt Nam thì
chúng ta cũng phải đảm bảo kịp thời đấu tranh với loại tội phạm trong lĩnh
21
vực hải quan là tính nhanh chóng và kịp thời vì tội phạm thường xảy ra tại các
khu vực biên giới, cửa khẩu, do vậy nếu chậm trễ thì chỉ cần thời gian ngắn
bọn tội phạm sẽ ra khỏi Việt Nam và thoát khỏi tầm kiểm soát của cơ quan
bảo vệ pháp luật.
Mặt khác, trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý đối với hàng
hóa xuất nhập khẩu, để phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật hải quan, chỉ
có cơ quan hải quan mới có thẩm quyền để tiến hành kiểm tra xác minh đối với
các hành vi vi phạm thông qua các hoạt động kiểm tra hàng hóa tại cửa khẩu và
mới được sử dụng các trang thiết bị của ngành Hải quan vào công tác nghiệp
vụ như sử dụng máy soi, máy ngửi ma túy… để phát hiện tội phạm. Mặt khác
cơ quan hải quan có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức trong nước cũng như cơ
quan tổ chức quốc tế đặc biệt là sự yêu cầu xác minh giúp đỡ của hải quan
nước có liên quan, Tổ chức tình báo khu vực châu Á (RILO) và Tổ chức Hải
quan thế giới (WCO) mà Hải quan Việt Nam là thành viên. Cho nên việc quy
định địa vị pháp lý trong tố tụng hình sự cho cơ quan Hải quan trong các vụ
án sẽ giúp cho cơ quan này giải quyết vụ án nhanh chóng và đúng pháp luật.
Địa bàn hoạt động của hải quan còn là những nơi gắn liền với hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp như hàng không, cảng biển, kho bãi, bưu
điện Các cơ quan này luôn gắn liền với hoạt động của của cơ quan hải quan,
tạo điều kiện hỗ trợ cho cơ quan hải quan thực hiện các biện pháp điều tra đối
với các hành vi phạm tội xảy ra trong khu vực hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, trong điều kiện như đã trình bày ở trên, nếu đưa lực lượng
điều tra chuyên trách vào hoạt động điều tra thay cho lực lượng hải quan tại
các cửa khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn vì:
+ Lực lượng điều tra chuyên trách không được bố trí theo hệ thống tổ
chức của cơ quan hải quan mà bố trí theo đơn vị hành chính.
22

+ Lực lượng điều tra chuyên trách không có trang bị kỹ thuật phục vụ
co quá trình phát hiện, xác minh và điều tra tại các cửa khẩu.
+ Lực lượng điều tra chuyên trách không phải là cơ quan chức năng
kiểm tra, giám sát và quản lý đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Lực lượng điều tra chuyên trách yêu cầu sự hỗ trợ của Hải quan các
nước có liên quan và Tổ chức tình báo hải quan khu vực châu Á (RILO) sẽ
gặp nhiều khó khăn hơn khi cơ quan hải quan thực hiện hoạt động này.
+ Nếu bố trí lực lượng cảnh sát điều tra hoạt động tại các cửa khẩu sẽ
tạo ra tâm lý không tốt cho khách quốc tế các doanh nghiệp khi vào làm ăn tại
Việt Nam. Điều đó sẽ ảnh hưởng tới chính sách kinh tế của nước ta nhất là
trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang tiến hành mở cửa nền kinh tế, khuyến
khích các doanh nghiệp vào Việt Nam đầu tư, kinh doanh.
Thực tế cho thấy, với đặc thù về địa bàn hoạt động của cơ quan điều
tra chuyên trách không thể có mặt kịp thời để giải quyết vụ án. Đối với những
vụ án xảy ra trong địa bàn của mình cơ quan hải quan thường được sự giúp đỡ
hỗ trợ của lực lượng bộ đội biên phòng, công an cửa khẩu
Từ những lý do trên, chúng ta thấy sự cần thiết phải có lực lượng tại
chỗ của cơ quan hải quan được nhà nước trao cho "thẩm quyền pháp lý" để
đứng ra giải quyết vụ án trên phạm vi địa bàn hoạt động của hải quan thì mới
đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng và đấu tranh
chống các hành vi vi phạm pháp luật hải quan nói chung.
1.2.3. Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm
trong lĩnh vực hải quan
Hải quan là cơ quan được giao trọng trách quản lý một lĩnh vực xã hội
phức tạp và nhạy cảm đó là xuất nhập khẩu hàng hóa, phương tiện vận tải nói
chung trên địa bàn biên giới, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế… Điều đó
23
có nghĩa là cơ quan Hải quan thường xuyên đối phó với những tội phạm và vi
phạm pháp luật phát sinh trong lĩnh vực, địa bàn mà Hải quan quản lý.
Trong những năm gần đây, cùng với tiến trình cải cách hành chính

ngành Hải quan đã nhanh chóng thay đổi để phù hợp với tình hình hội nhập
kinh tế quốc tế. Từ đó, thủ tục hải quan ngày càng thông thoáng, đơn giản hóa
tạo thuận lợi cho các hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, một số đối tượng
đã lợi dụng sự thông thoáng đó để buôn lậu, trốn thuế, vận chuyển hàng cấm
xuất khẩu, cấm nhập khẩu qua biên giới bằng nhiều thủ đoạn tinh vi phức tạp.
Trong quá trình hoạt động cơ quan Hải quan với chức năng đấu tranh
chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi
vi phạm pháp luật khác, đã áp dụng các biện pháp nhằm kịp thời phát hiện,
ngăn chặn, điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nói chung diễn ra
trong lĩnh vực quản lý thuộc địa bàn hoạt động hải quan.
Cùng với xu thế toàn cầu hóa, tình hình tội phạm phát sinh liên quan
đến lĩnh vực hoạt động hải quan ngày càng phát triển nhất là các loại tội phạm
xuyên quốc gia như buôn lậu, ma túy, vũ khí, chất phóng xạ, các tội phạm về
rửa tiền, các tội phạm về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, môi trường…Vì thế,
việc quy định địa vị pháp lý của cơ quan hải quan trong tố tụng hình sự là vấn
đề có ý nghĩa thiết thực trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung
và đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến hải quan nói riêng.
1.3. CÁC QUAN HỆ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG HOẠT
ĐỘNG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CỦA HẢI QUAN
Các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là "những quan hệ phát sinh
trong quá trình tố tụng, trong đó quyền và nghĩa vụ của những người tham gia
được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Các quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự xuất hiện khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự" [39].
24
Theo Bộ luật tố tụng hình sự quy định về địa vị pháp lý của cơ quan
Hải quan, cơ quan này có nhiệm vụ, quyền hạn là khởi tố và điều tra các vụ án
hình sự thuộc thẩm quyền của mình. Trong khi thực hiện các hoạt động đó, có
những quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh mà cơ quan hải quan là một
chủ thể của quan hệ pháp luật đó. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mang

tính chất quyền lực nhà nước, chúng phát sinh từ việc khởi tố do cơ quan nhà
nước tiến hành.
Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự do cơ quan hải quan
tiến hành có thể có những công dân và tổ chức tham gia hay liên quan đến
hoạt động tố tụng như: người tố giác và báo tin về tội phạm, người bị hại, bị
can, người đại diện hợp pháp của người bị hại, các tập thể lao động, đoàn thể
xã hội, các cơ quan có thẩm quyền khởi tố và điều tra, các chuyên gia, người
phiên dịch…Như vậy, giữa những người tham gia tố tụng với những người
tiến hành tố tụng hình sự. Các quan hệ pháp luật này không đơn thuần chỉ
phát sinh giữa các chủ thể của hoạt động tố tụng hình sự với nhau mà nó
mang tính quyền lực nhà nước.
Để tạo lập được một quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, nếu chỉ có các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự và các chủ thể của quan hệ pháp luật
đó thì chưa đủ, mà cần phải có các sự kiện pháp lý, các sự kiện này không
phải phát sinh do quy phạm pháp luật tố tụng hình sự mà là những sự kiện
phát sinh trong thực tế (ví dụ: tin báo về tội phạm).
Còn đối tượng của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự trong các giai
đoạn khởi tố và điều tra vụ án hình sự chính là những hành vi của các chủ thể
tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Mỗi cách xử sự cụ thể của
những người tham gia vào giai đoạn khởi tố và điều tra đối với những người
khác đều dựa vào pháp luật và được pháp luật điều chỉnh. Có thể xem xét đến
quan hệ pháp luật giữa Viện kiểm sát với cơ quan hải quan để thấy rõ hơn:
25

×