Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề xác định quyền sở hữu tài sản vợ chồng trong nền kinh tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.33 KB, 63 trang )

Lun vn thc s Lut hc Nguyn Th Ho
phần mở đầu
1.Tớnh cp thit ca ti
Gia ỡnh l t bo ca xó hi, l cỏi nụi nuụi dng con ngi, l mụi
trng quan trng hỡnh thnh v giỏo dc nhõn cỏch, gúp phn vo s nghip
xõy dng v bo v t quc. Gia ỡnh tt thỡ xó hi tt, xó hi tt thỡ gia ỡnh
cng tt (Li núi u - Lut Hụn nhõn v gia ỡnh 2000). Gia ỡnh c xõy
dng trờn c s cỏc quan h hụn nhõn, huyt thng v nuụi dng, trong ú
quan h hụn nhõn l nn tng. Mi gia ỡnh núi chung, mi cp v chng núi
riờng ngoi ngha v yờu thng, quý trng chm súc giỳp ln nhau, mỗi
bên cũn cú ngha v duy trỡ cuc sng và phỏt triển kinh tế chung ca gia
ỡnh. Thc hin tt chc nng kinh t ca gia ỡnh m ni dung l s tham gia
ca cỏc thnh viờn vo quỏ trỡnh sn xut, quỏ trỡnh tiờu dựng, gúp phn to
dng v phỏt trin c s vt cht, tinh thn nht nh cho gia ỡnh v xó hi.
Chớnh vỡ vy, iu chnh vn ti sn ca v chng luụn c nh lm lut
quan tõm. Tài sản của vợ chồng l mt trong nhng ch nh quan trng ca
phỏp lut hụn nhõn v gia ỡnh. c bit, trong bi cnh hi nhp kinh t quc
t hin nay v s tỏc ng ca nn kinh t th trng, v chng tham gia ngy
cng rng rói vo cỏc giao dch dõn s, thng mi lm cho cỏc quan h ti
sn trong gia đình ngy cng phc tp, c bit l nhng tranh chp v ti sn
của vợ chồng.
Hin phỏp 1992, cựng cỏc vn bn phỏp lut khỏc nh: Bộ lut dõn s
năm 2005, Lut doanh nghip năm 2005, Lut u t năm 2005 l c s
phỏp lý v chng tham gia vo cỏc quan h dõn s, kinh t vi t cỏch l
nhng ch th c lp. H cú th cựng nhau u t sn xut kinh doanh hoc
tin hnh sn xut kinh doanh riờng, cú th s dng ti sn chung hoc ti sn
riờng vỡ li ớch cỏ nhõn hay vỡ li ớch chung ca c gia ỡnh. Vỡ vy, vic xỏc
1
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
định lợi nhuận cũng như nghĩa vụ tài sản phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh
doanh thuộc quyền sở hữu của vợ hoặc chồng hay của chung vợ chồng là vấn


đề hết sức khó khăn. Trong khi đó, các văn bản pháp luật chuyên ngành chỉ
nói đến các cá nhân với tư cách là chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự,
thương mại chứ không đề cập đến việc họ tham gia với tư cách của người vợ
hoặc người chồng trong gia đình. Luật H«n nh©n vµ gia ®×nh hiện nay cũng
chưa có bất cứ một quy định cô thÓ nào điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ
chồng khi một bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, xác định quyền sở hữu tài sản của vợ
chồng trong nền kinh tế hiện nay ngày càng khó khăn phức tạp. Giải quyết tốt
vấn đề này không chỉ đảm bảo quyền lợi của vợ chồng mà còn góp phần ổn
định, phát triển gia đình, đảm bảo quyền lợi của các tổ chức cá nhân có liên
quan và ổn định các quan hệ xã hội khác.
Từ thực tế trên, tác giả luận văn mong muốn tiến hành tìm hiểu và
nghiên cứu Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề xác định quyền sở
hữu tài sản vợ chồng trong nền kinh tế hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra
những kiến nghị nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện các quy định của
pháp luật về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều bài viết và các công trình khoa học
đề cập tới những khía cạnh khác nhau của vấn đề tài sản vợ chồng như: Chế
độ tài sản cña vợ chồng, xác định tài sản cña vợ chồng, chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân… ở mức độ nhất định đã làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận cơ bản về tài sản cña vợ chồng. Trong đó, một số tác giả đã
nghiên cứu nh÷ng vÊn ®Ò liªn quan ®Õn tài sản cña vợ chồng trong c¸c ho¹t
®éng ®a d¹ng cña nÒn kinh tế níc ta hiện nay. Có thể kể ra như: “Trách nhiệm
2
Lun vn thc s Lut hc Nguyn Th Ho
liờn i ca v chng i vi hp ng dõn s do mt bờn thc hin
(Nguyn Hi An, Tp chớ to ỏn nhõn dõn s 12/2004), Ch ti sn ca v
chng theo Lut Hụn nhõn v gia ỡnh Vit Nam (Nguyn Vn C - Lun ỏn
Tin s Lut hc, 2005), Mt s vn v ti sn v chng trong hot ng

sn xut kinh doanh ti Vit Nam (Trn c Hoi, Lun vn thc s lut hc,
2006), Ti sn ca v chng trong hot ng sn xut kinh doanh (B mụn
Lut hụn nhõn v gia ỡnh - ti khoa hc cp trng, 2008), .
Tuy nhiờn vn cha cú mt bi vit, mt cụng trỡnh khoa hc no tp
trung nghiờn cu vn xỏc nh quyn s hu ti sn ca v chng trong
nn kinh t hin nay. õy thc s l mt ti mi m m cng rt phc tp,
nht l trong bi cnh nn kinh t nhiều thành phần hin nay.
3. Mc ớch, phm vi nghiờn cu ca ti
Trờn c s phõn tớch cỏc quy nh ca phỏp lut hin hnh v quyn s
hu ti sn ca v chng, lun vn đi sâu nghiên cứu nhằm xỏc nh ti sn
chung ca v chng và ti sn riờng ca v hoặc chng trong bi cnh của
nền kinh t th trng khi vợ chồng tham gia vào những hình thức sản xuất
kinh doanh khác nhau.
Lun vn tp trung nghiờn cu vn xỏc nh quyn s hu ti sn
ca v chng khi vợ, chồng tham gia mt s lnh vc ch yu trong nn kinh
t hin nay nh thị trờng chng khoỏn, kinh doanh bt ng sn, thành lập các
loi hỡnh doanh nghip T ú tỡm ra nhng im khiếm khuyết, bất cập của
pháp luật hiện hành v xut nhng phng ỏn b sung hon thin phỏp lut
nhằm iu chnh vn ny.
4. Phng phỏp nghiờn cu ca ti
3
Lun vn thc s Lut hc Nguyn Th Ho
Các phơng pháp chủ yếu đợc sử dụng để thực hiện đề tài là phng
phỏp phõn tớch, tng hp v so sỏnh luật. Ngoài ra, phơng pháp thống kê và
khảo sát thực tế cũng đợc sử dụng hon thnh ti.
5. Nhng úng gúp mi ca Lun vn
- Xỏc nh rừ c s lý lun v thc tin ca vic xỏc nh quyn s hu
ti sn ca v chng trong nn kinh t Vit Nam hin nay;
- Nờu ý ngha phỏp lý v thc tin ca vic xỏc nh quyn s hu ti
sn ca v chng trong nn kinh t Vit Nam hin nay;

- Xỏc nh rừ quyn s hu ti sn ca v chng trong mt s trng
hp nh: Trng hp v chng u t vo th trng chng khoỏn, trng
hp v chng tham gia kinh doanh bt ng sn v trng hp v chng
thnh lp mt s loi hỡnh doanh nghip;
- a ra mt s phng hng c th hon thin phỏp lut iu chnh
vic xỏc nh quyn s hu ti sn ca v chng trong nn kinh t Vit
Nam hin nay.
6. C cu ca lun vn:
Ngoi Phn m u, Kt lun v Danh mc ti liu tham kho, Lun
vn gồm 3 chơng sau:
Chng 1: C s v ý ngha ca vic xỏc nh quyn s hu ti sn ca
v chng trong nn kinh t th trng Vit Nam hin nay
Chng 2: Xỏc nh quyn s hu ti sn ca v chng trong mt s
trng hp c th theo phỏp lut hin hnh
Chng 3: Phng hng hon thin phỏp lut iu chnh vic xỏc
nh quyn s hu ti sn ca v chng
4
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
Chương 1
CƠ SỞ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH QUYỀN SỞ HỮU
TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH
QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt là nền tảng của một xã hội
phát triển. Gia đình thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ là cơ sở để thực hiện tốt
các chức năng xã hội cơ bản khác của gia đình, góp phần thúc đẩy sự phát
triển và tiến bộ xã hội. Do vậy, các chế định liên quan đến tài sản, quyền sở
hữu tài sản của vợ chồng luôn được nhà làm luật quan tâm. Đặc biệt, trong

bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì vấn đề tài sản, quyền sở hữu tài
sản của vợ chồng ngày càng trở thành vấn đề cần nhận được sự quan tâm của
nhà làm luật hơn nữa. Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và
Nhà nước ta luôn đề ra những chủ trương, định hướng kịp thời và phù hợp.
Bản chất của chế độ xã hội, cùng với các yêu cầu khách quan của nền kinh tế
thị trường là cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định quyền sở hữu tài sản của
vợ chồng trong nền kinh tế hiện nay ở Việt Nam.
1.1.1. Cơ sở lý luận:
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và
vì dân nên mục tiêu của chế độ kinh tế cũng là vì lợi ích của nhân dân. Qua
các Nghị quyết của Đại hội Đảng về Đường lối phát triển kinh tế, có thể thấy
5
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
quan điểm cách mạng và nhân dân của Đảng Cộng Sản Việt Nam là “Tất cả
do con người, tất cả vì hạnh phúc con người”. Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm yêu cầu: Tăng trưởng kinh tế
phải gắn chặt với những tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu "mọi
lợi ích đều vì dân", giải phóng con người, con người phát triển toàn diện. Con
người là nhân tố quyết định, là động lực to lớn, là chủ thể sáng tạo mọi nguồn
của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Vì hạnh phúc con người là mục tiêu
phấn đấu cao nhất của chúng ta.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ
chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội.
Có thể nói nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc
thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là
cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở nước ta với các nước

khác.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thể
hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế thị trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị trường [3]. Trong
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”,
Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
6
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới"
(1)
[4,Tr 8-9]
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên,
thì mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là
giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên
mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của
nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng
bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ
đó sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân

công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người
lao động. Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng
năng suất lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa,
dịch vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa
các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động viên mọi
nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Phát huy tinh
thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra
sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước
nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
7
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
Bởi vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
có ba điểm rất cơ bản là: Lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu
làm nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân;
kết hợp nhiều hình thức phân phối, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức
năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Ngay từ Hiến pháp năm 1959, Nhà nước ta đã xác định mục đích chính
sách kinh tế của Việt Nam là: Không ngừng phát triển mức sản xuất nhằm
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân (Điều 9). Tiếp đó, Hiến
pháp năm 1980 khẳng định: Thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và
văn hoá ngày càng tăng của xã hội (Điều 15). Trên cơ sở kế thừa và phát huy
những điểm tiến bộ của các bản Hiến pháp cũ, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục
khẳng định mục tiêu phát triển kinh tế của nhà nước ta là làm cho dân giàu,
nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
dân (Điều 16).
Để đạt được mục tiêu kinh tế đã đề ra, Nhà nước ta chủ trương xây

dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà
nước ta thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 15 Hiến pháp năm 1992).
Hiến pháp năm 1992 có ý nghĩa quan trọng ghi nhận chính sách phát
triển nền kinh tế thị trướng định hướng xã hội chủ nghĩa mà nền tảng là cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần “nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần với các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân” (Điều 19), “các cơ cấu sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 22). Đồng thời, Điều 57
8
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo
quy định của pháp luật”. Để cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp năm
1992, một loạt các văn bản pháp luật được xây dựng và ban hành như: Luật
doanh nghiệp (2005), Luật thương mại (2005), Bộ luật dân sự (2005)… Đây
là cơ sở pháp lý vững chắc để mỗi cá nhân nói chung, mỗi cặp vợ chồng nói
riêng tiến hành đầu tư kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận để xây dựng kinh tế gia
đình, duy trì và cải thiện đời sống, thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần
của các thành viên gia đình. Các văn bản pháp luật ban hành đã đáp ứng nhu
cầu kinh tế xã hội trong thời kỳ hội nhập và hệ quả là nhiều mô hình kinh tế
ra đời thu hút lượng vốn đầu tư lớn trong dân. Sự tăng nhanh về số lượng các
mô hình kinh tế đã tận dụng và phát huy được sức mạnh của toàn dân vào sự
nghiệp phát triển kinh tế. Trong đó, sự tham gia của mỗi gia đình mà hạt nhân
là vợ chồng vào quá trình này là hết sức năng động.
Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành đã quy định một cách tương
đối đầy đủ về vấn đề sở hữu và quyền sở hữu tài sản nói chung cũng như
quyền sở hữu tài sản của vợ chồng nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã ghi
nhận: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh

nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác” (Điều 58 Hiến pháp năm 1992).
Đặc biệt, thành tựu lập pháp cao nhất trong lĩnh vực sở hữu đó là các quy định
về tài sản và quyền sở hữu tại Phần thứ hai Bộ luật dân sự. Các quy định
tương đối đầy đủ và hoàn thiện về sở hữu là những chuẩn mực pháp lý ổn
định, tạo hành lang pháp lý vững chắc để giải quyết những tranh chấp về tài
sản và quyền sở hữu tài sản.
Trên cơ sở Hiến pháp và Bộ luật dân sự về quyền sở hữu tài sản, quyền
tự do tham gia lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của cá nhân, Luật
Hôn nhân và gia đình quy định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng. Luật Hôn
9
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
nhân và gia đình đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã quy định vợ chồng có quyền ngang
nhau đối với tài sản mỗi bên có trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân.
Do tính chất lịch sử của giai đoạn này mà nhà làm luật lúc bấy giờ chưa công
nhận quyền sở hữu riêng của vợ, chồng. Đạo luật hôn nhân và gia đình tiếp
theo là Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, bên cạnh công nhận sở hữu
chung giữa vợ và chồng, nhà làm luật còn công nhận vợ, chồng có quyền có
tài sản riêng. Kế thừa hai đạo luật trước đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định: Vợ chồng có quyền sở hữu chung đối với thu nhập hợp pháp
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp
khác của mỗi bên vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản mà vợ chồng
được tặng cho chung hoặc được thừa kế chung (Điều 27). Bên cạnh đó, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng khẳng định quyền sở hữu của vợ hoặc
chồng đối với thu nhập hợp pháp của mỗi bên trước khi kết hôn hoặc tài sản
mà mỗi bên được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân
(Điều 32). Các quy định trên là cơ sở pháp lý cho việc xác định quyền sở hữu
tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân, bao gồm cả khi vợ chồng
tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định quyền sở hữu tài

sản của vợ chồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Có thể khẳng định trong những năm vừa qua nền kinh tế xã hội của đất
nước đã dành được những thành tựu đáng kể.
Một là, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế
tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời sống của
các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.
10
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
Hai là, thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần. Kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã, đã được đổi mới từng bước
theo Luật Hợp tác xã và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Các hợp tác
xã đã chứng tỏ được rõ hơn vai trò, vị trí đối với kinh tế hộ trong sản xuất
hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Kinh tế tư nhân phát
huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài cũng có bước phát triển quan trọng.
Ba là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được
hình thành. Nền kinh tế nhiều thành phần theo chủ trương của Đảng và được
quy định trong Hiến pháp 1992 đã được cụ thể hoá bằng các Luật, Pháp lệnh.
Với Luật Doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp năm 1992
quy định đã thực sự đi vào cuộc sống. Bộ luật dân sự, Luật Thương mại, Luật
Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước… đã tạo khung
pháp lý ban đầu cho các yếu tố thị trường hình thành và vận hành từng bước.
Đồng thời, Nhà nước đã thể chế hoá thành cơ chế, chính sách về đất đai, tín
dụng, ưu đãi thuế Nhờ đó, đã góp phần tích cực cho quá trình phát triển
kinh tế thị trường trong suốt những năm qua. Nhà nước đã từng bước tách
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng
chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh
của doanh nghiệp chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang
quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền

kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ
chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Bốn là, đạt được những kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới. Vượt ra khỏi chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và các lực
lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế
quốc tế trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế then chốt (như thương
11
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
mại dịch vụ, lao động, đầu tư, khoa học và công nghệ ). Đặc biệt là, nước ta
đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ngày 28-7-1995,
đã không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng, vùng,
liên vùng và tiến tới tham gia liên kết kinh tế toàn cầu. Ngày 7- 11- 2006 Việt
Nam chính thức gia nhập WTO đem lại những thuận lợi và cả những thách
thức mới cho nền kinh tế, tạo hành lang pháp lý để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước
ngoài.
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước phát triển năng động, sự tham gia
của vợ chồng vào các giao dịch dân sự, thương mại ngày càng rộng rãi đã nảy
sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhất là các vấn đề liên quan đến tài sản
vợ chồng ngày càng phức tạp. Các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng, giữa
vợ chồng và người thứ ba ngày càng nhiều và đây cũng là những tranh chấp
chủ yếu.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, khuyến khích mọi tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt đông sản xuất kinh
doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm đã tận dụng và phát
huy được sức mạnh tổng thể của nguồn lực trong nước vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua, cùng
với các quy định của pháp luật đã tạo cơ sở khuyến khích vợ chồng tham gia

ngày càng sâu rộng vào các quan hệ dân sự và thương mại. Theo quy định của
pháp luật hiện hành, các hình thức kinh doanh mà vợ chồng có thể lựa chọn
đầu tư rất phong phú và đa dạng như: Kinh tế hộ gia đình, thành lập doanh
nghiệp, tham gia thị trường chứng khoán, kinh doanh bất động sản, tham gia
các hợp đồng cho thuê tài sản…. để tìm kiếm lợi nhuận. Vợ chồng có thể
12
Lun vn thc s Lut hc Nguyn Th Ho
cựng nhau u t kinh doanh hoc cú th u t kinh doanh riờng, mc ớch
ca h cú th vỡ li ớch cỏ nhõn hoc vỡ li ớch chung ca c gia ỡnh. Vỡ vy,
vic xỏc nh quyn s hu ti sn v chng trong nhng trng hp ny l
ht sc phc tp.
Hn na, trong nhng nm gn õy, quan h hụn nhõn cú yu t nc
ngoi ngy cng gia tng nh kt hụn vi ngi nc ngoi, mt bờn v
chng l ngi Vit Nam sinh sng, hc tp, lao ng ti nc ngoi Trong
nhng trng hp ny thỡ vic xỏc nh quyn s hu ti sn ca v chng l
ht sc khú khn. Trỏch nhim ca mi bờn v chng i vi gia ỡnh, i
vi nhau, i vi con chung, i vi ngi th ba cú quyn s c xỏc nh
nh th no? õy l vn rt phc tp c bit trong vic iu tra xỏc minh
thu thp tin tc, chng c hoc thi hnh ỏn cn phi cú u thỏc t phỏp.
Mt trỏi ca nn kinh t th trng lm cho quan h hụn nhõn ngy
cng phc tp, cỏc v ly hụn ngy cng tng, trong cỏc ỏn kin ly hụn tp
trung ch yu cỏc tranh chp v ti sn. Vỡ vy, gii quyt tt vn xỏc
nh quyn s hu ti sn ca v chng khụng ch bo v quyn v li ớch ca
v chng, ca ngi th ba tham gia cỏc giao dch vi v chng m cũn n
nh i sng gia ỡnh, gúp phn n nh cỏc quan h xó hi khỏc, thỳc y
kinh t xó hi ngy cng phỏt trin.
L mt phm trự thuc quyn s hu cụng dõn c quy nh trong
Hin phỏp, quyn s hu ti sn v chng (cũn gi l ch ti sn v
chng) c Lut Hụn nhõn v gia ỡnh nm 2000 quy nh mt cỏch c th,
tng i y t iu 27 n iu 33 v iu 95. õy là nội dung quan

trọng trong quy định về quan hệ pháp luật giữa vợ chồng. Theo Luật Hôn nhân
và gia đình hiện hành, giữa vợ chồng có hai hình thức sở hữu về tài sản, đó là
sở hữu chung hợp nhất và sở hữu riêng. Thc tin ỏp dng ch ti sn ca
v chng nhng nm qua gúp phn vo s n nh cỏc quan h hụn nhõn v
13
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
gia đình, tạo cơ sở pháp lý thực hiện các quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ
chồng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được của pháp luật điều
chỉnh vấn đề tài sản của vợ chồng, quá trình thực hiện và áp dụng Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng cho thấy
còn khá nhiều bất cập và vướng mắc. Mặc dù đã có khá nhiều văn bản của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định, hướng dẫn áp dụng về quyền sở
hữu tài sản của vợ chồng, nhưng do tính chất phức tạp và rất "nhạy cảm" từ
các quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung, những tranh chấp về tài sản giữa
vợ và chồng nói riêng nên khi áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành
vào thực tiễn vẫn nảy sinh những vấn đề mới mà pháp luật hiện hành chưa
đáp ứng được. Thực tiễn áp dụng đã có nhiều quan điểm, nhận thức, đánh giá
khác nhau, chưa có sự thống nhất từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và cá nhân thực thi pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản của vợ
chồng. Trong báo cáo tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử của ngành Tòa
án hàng năm, hầu như đều có các vấn đề về xác định tài sản chung, tài sản
riêng của vợ chồng và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng. Điều đó
cho thấy các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng luôn là loại việc phức tạp,
thường gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng, hạn chế và có nhiều bất
cập trong công tác thi hành án liên quan đến quyền sở hữu tài sản của vợ
chồng. Nguyên nhân có nhiều, trong đó phải kể đến một số qui định của Luật
Hôn nhân và gia đình về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng mới chỉ dừng lại
ở tính chất định khung, nguyên tắc chung. Các văn bản qui định chi tiết thi
hành và hướng dẫn áp dụng quyền sở hữu tài sản của vợ chồng còn thiếu,
chưa cụ thể, chưa theo kịp với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội.

Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay, vợ chồng tham gia ngày càng rộng rãi vào các giao lưu dân
sự, kinh tế, thương mại với tư cách là những chủ thể độc lập thì những tranh
14
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
chấp về quyền sở hữu tài sản vợ chồng ngày càng nhiều và phức tạp. Trong
khi đó các văn bản pháp luật hiện hành như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương
Mại, Luật Hợp tác xã… không có các quy định cụ thể điều chỉnh các đối
tượng tham gia là một bên vợ hoặc chồng. Bởi lẽ, mặc dù vợ hoặc chồng tham
gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay với tư cách là một chủ thể
độc lập nhưng do tính chất cộng đồng đặc thù của quan hệ hôn nhân, nên
ngoài những quy định của luật chuyên ngành áp dụng khi vợ hoặc chồng
tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh cụ thể thì còn chịu sự chi phối
của các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Vì vậy, việc xác định đâu
là tài sản chung, đâu là tài sản riêng trong các trường hợp này là một vấn đề
khó khăn cả về lý luận và thực tiễn.
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY:
Quyền sở hữu tài sản vợ chồng là một phạm trù thuộc quyền sở hữu
công dân được quy định trong Hiến pháp (Điều 58 Hiến Pháp năm 1992) và là
một nội dung quan trọng trong quan hệ pháp luật giữa vợ chồng. Xác định
quyền sở hữu tài sản vợ chồng có ý nghĩa lớn trong việc giải quyết các tranh
chấp về tài sản giữa vợ và chồng, giữa vợ chồng với người thứ ba, góp phần
ổn định các quan hệ gia đình và các quan hệ xã hội khác.
1.2.1. Ý nghĩa của chế định quyền sở hữu đối với sự phát triển của
gia đình:
- Xác định quyền sở hữu tài sản vợ chồng có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, là cơ sở để vợ chồng thực hiện quyền dân chủ và bình đẳng trong các
quan hệ tài sản, tạo điều kiện khuyến khích vợ chồng có trách nhiệm với gia

đình, cùng chung sức và ý chí xây dựng cơ sở vật chất cho cuộc sống gia
15
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
đình. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định chế độ tài sản của vợ
chồng là chế độ cộng đồng tạo sản, trong đó đồng thời tồn tại sở hữu chung
hợp nhất của vợ chồng và sở hữu riêng của mỗi bên. Vợ chồng có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình,
thực hiện các nghĩa vụ chung của gia đình (Khoản 1,2 Điều 28 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000). Quy định trên là hoàn toàn hợp lý vì tính cộng đồng
của quan hệ hôn nhân dẫn đến vợ chồng cùng chung sức trong việc tạo lập
khối tài sản chung, cùng chung trách nhiệm trong việc gánh vác các công việc
gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Vì vậy, vợ chồng có quyền
và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý tài sản chung của vợ chồng. Mặc
dù trên thực tế sự đóng góp công sức của vợ, chồng vào khối tài sản chung là
khác nhau, có thể một bên không có thu nhập riêng, phải làm công việc nhà
nhưng quyền đối với tài sản chung không vì thế mà kém hơn bên kia. Đây là
cơ sở, là nền tảng để có một gia đình dân chủ, hạnh phúc và bền vững. Chỉ
khi vợ chồng bình đẳng trong việc quản lý tài sản chung mới có thể dẫn đến
bình đẳng trong các mối quan hệ khác trong gia đình.
- Quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống
kinh tế - xã hội cũng như trong pháp luật dân sự. Nó là một trong những tiền
đề vật chất cho sự phát triển kinh tế. Xác định quyền sở hữu tài sản của vợ
chồng không chỉ giúp cho các cặp vợ chồng thực hiện tốt vai trò của người
vợ, người chồng trong gia đình mà còn thực hiện vai trò công dân, thành viên
của xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể chế độ sở
hữu tài sản chung, chế độ sở hữu tài sản riêng của vợ chồng. Quy định này
vừa bảo đảm lợi ích chung của gia đình vừa đảm bảo sự bình đẳng và tính độc
lập tương đối trong việc quản lý tài sản, tạo cơ sở pháp lý để vợ chồng chủ
động tham gia vào các giao dịch dân sự, thương mại vì lợi ích gia đình cũng

16
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
như lợi ích cá nhân. “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình” (Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000). Vì vậy, vợ và chồng đều có quyền tiến hành các giao dịch liên
quan đến tài sản chung và tài sản riêng của mình. Quyền độc lập về tài sản tạo
cơ sở để vợ, chồng chủ động tham gia vào các giao dịch dân sự với tư cách là
các chủ thể độc lập. Tuy nhiên, tính độc lập trong giao lưu dân sự của vợ,
chồng chỉ là độc lập tương đối vì luôn chịu sự ràng buộc từ lợi ích gia đình.
Lợi ích gia đình luôn được đặt lên hàng đầu, kể cả trong các giao dịch liên
quan đến tài sản riêng của mình. Điều này được thể hiện rất rõ trong Khoản 5
Điều 33 Luật Hôn nân và gia đình năm 2000.
- Xuất phát từ tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân cũng như sự
chi phối bởi tình cảm giữa vợ và chồng mà khi cuộc sống của vợ chồng hạnh
phúc thì ranh giới giữa tài sản chung, tài sản riêng không mấy quan trọng,
thậm chí nhiều cặp vợ chồng còn xóa nhòa ranh giới này. Vợ chồng cùng
nhau quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản trong gia đình bao gồm cả tài sản
chung và tài sản riêng của một bên. Nhưng khi quan hệ vợ chồng phát sinh
những mâu thuẫn gay gắt thì vấn đề được nhắc đến nhiều nhất là vấn đề tài
sản. Vì vậy, xác định quyền sở hữu tài sản vợ chồng là điều kiện cần thiết để
bảo vệ quyền lợi của các thành viên trong gia đình, tránh những mâu thuẫn
xảy ra làm tổn thương đến tình cảm và sự đoàn kết trong gia đình.
- Với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay, vợ chồng ngày càng tham
gia rộng rãi vào các giao dịch dân sự, thương mại, làm cho vấn đề tài sản vợ
chồng ngày càng phức tạp. Các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng, giữa vợ,
chồng với người thứ ba ngày càng nhiều. Xác định quyền sở hữu tài sản của
vợ chồng giúp cho vợ, chồng xác định đựơc quyền và nghĩa vụ về tài sản đối
với gia đình, đối với nhau và đối với con cái, là căn cứ để giải quyết các tranh
chấp về tài sản giữa vợ, chồng. Đồng thời còn xác định rõ trách nhiệm của các
17

Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
bên vợ chồng trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản. Qua đó giúp
minh bạch hoá các giao dịch dân sự mà một bên chủ thể là vợ, chồng, giúp
người có quyền xác định được nghĩa vụ mà vợ chồng phải thực hiện được bảo
đảm thực hiện bằng tài sản chung hay tài sản riêng. Vì vậy, quyền và lợi ích
của người thứ ba, của cộng đồng và xã hội vì thế cũng được đảm bảo. Như
vậy, xác định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng không chỉ bảo vệ quyền và
lợi ích của vợ chồng, của người thứ ba mà còn là căn cứ pháp lý cho cơ quan
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp có liên quan đến tài sản của vợ
chồng. Đồng thời, xác định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng còn tạo điều
kiện để vợ chồng chủ động tham gia vào các quan hệ xã hội nhằm phát triển
kinh tế gia đình, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững và thực hiện tốt các mục tiêu xã hội.
1.2.1. Ý nghĩa của việc xác định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
trong nền kinh tế hiện nay:
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đặc biệt là sự kiện Việt Nam
gia nhập WTO, giao lưu quốc tế ngày càng rộng rãi dẫn đến các quan hệ hôn
nhân ngày càng phức tạp. Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ngày càng
gia tăng như: Kết hôn với người nước ngoài, một bên vợ, chồng sinh sống,
học tập tại nước ngoài, vợ chồng có tài sản tại nước ngoài… Xác định quyền
sở hữu tài sản của vợ chồng trong trường hợp này là hết sức khó khăn. Nhất là
trong trường hợp một bên cố tình giấu giếm tài sản, giấu giếm thu nhập hợp
pháp trong thời kỳ hôn nhân, trốn tránh trách nhiệm với gia đình… Vì không
thể kiểm soát được thu nhập thực tế của vợ, chồng nên không thể xác định
được khối tài sản chung của vợ chồng để thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ
chồng như đáp ứng nhu cầu chung của gia đình hay các nghĩa vụ chung khác.
Trách nhiệm của họ đối với gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện
của họ. Đặc biệt, khi ly hôn hoặc xảy ra tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng
18
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà

thì việc giải quyết là hết sức khó khăn vì việc điều tra, xác minh thu thập
thông tin cần phải có sự ủy thác tư pháp quốc tế.
Hiến pháp năm 1992 chính thức ghi nhận chính sách phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nền tảng là cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần với các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, dẫn đến nguồn lực
trong nước có điều kiện để phát huy sức mạnh của mình vào quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Cùng với các văn bản pháp luật khác như Luật
Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2005,
Luật Chứng khoán năm 2006… là cơ sở pháp lý để vợ chồng tham gia tích
cực vào các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại. Trong điều kiện kinh tế hiện
nay, xác định quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là hết sức khó khăn. Sự tăng
nhanh về số lượng các mô hình kinh tế cùng với chính sách khuyến khích,
huy động vốn trong và ngoài nước, tạo điều kiện để vợ chồng tham gia năng
động vào các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Hiện nay, vợ chồng có
thể lựa chọn nhiều hình thức để tiến hành đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận. Theo
quy định của pháp luật hiện hành, các hình thức đầu tư mà vợ, chồng có thể
tham gia là rất đa dạng, bao gồm:
+ Đầu tư thành lập các tổ chức kinh tế (Điều 22 Luật Đầu tư năm
2005), thành lập doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, hợp tác xã…………
+ Đầu tư phát triển kinh doanh.
+ Góp vốn mua cổ phần.
+ Tham gia vào thị trường chứng khoán.
+ Tham gia kinh doanh bất động sản.
Trong các hoạt động kinh tế này, việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
tài sản không chỉ do Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh mà còn chịu sự chi
phối của các luật chuyên ngành khác như: Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp,
Luật Thương mại… Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc
19
Lun vn thc s Lut hc Nguyn Th Ho
chim hu, s dng, nh ot ti sn chung, cú quyn s hu i vi ti sn

riờng. Vỡ vy, khi tham gia vo hot ng sn xut, kinh doanh v, chng cú
th s dng ti sn chung hoc ti sn riờng, vỡ nhu cu chung ca gia ỡnh
hay vỡ li ớch cỏ nhõn. Khi v, chng tham gia vo cỏc hot ng kinh t vic
xỏc nh quyn, trỏch nhim ca h nh th no l vụ cựng quan trng. iu
ny khụng ch nh hng ti quyn v li ớch hp phỏp ca mt bờn v hoc
chng, quyn v li ớch hp phỏp ca cỏc thnh viờn khỏc trong gia ỡnh m
cũn nh hng n quyn v li ớch hp phỏp ca cỏc t chc, cỏ nhõn khỏc
cú quyn li v ngha v liờn quan. Xỏc nh quyn s hu ti sn ca v
chng trong nn kinh t hin nay nhằm điều chỉnh có hiệu quả quan hệ giữa
vợ và chồng với nhau và vợ hoặc chồng với ngi th ba (l cỏ nhõn hoc
phỏp nhõn) nhằm đảm bảo lợi ích của vợ chồng và của ngời thứ ba.
Trong iu kin nn kinh t Vit Nam hin nay, ngun thu nhp ca
cỏc cỏ nhõn rt a dng, phong phỳ: Thu nhp do lao ng (tin cụng, tin
lng), thu nhp do hot ng sn xut kinh doanh, ti sn do c tha k,
c tng cho v cỏc thu nhp hp phỏp khỏc (nh hoa li, li tc phỏt sinh
t ti sn chung hoc t ti sn riờng ca v chng, tin thng, ti sn c
xỏc lp quyn s hu theo quy nh ca B lut dõn s). Theo quy nh ca
phỏp lut hin hnh, tài sản có nguồn gốc là hoa lợi, lợi tức phát sinh trong
thời kỳ hôn nhân của vợ chồng là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên,
trong thời kỳ hôn nhân, tài sản này có thể đợc hình thành từ tài sản chung
hoặc có thể từ tài sản riêng, nguồn của tài sản gốc cũng rất phong phú, do đó
việc phân định tài sản là hoa lợi, lợi tức thuộc tài sản riêng hay tài sản chung
của vợ chồng cũng gặp nhiều vớng mắc. Hiện nay, vợ, chồng tham gia ngày
càng nhiều vào các giao dịch dân sự, thơng mại với t cách là những chủ thể
độc lập, họ có thể dùng tài chung hoặc tài sản riêng, vì lợi ích chung của cả
gia đình hoặc vì nhu cầu, lợi ích của cá nhân. Vì vậy, việc xác định tài sản
20
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
chung, tµi s¶n riªng gÆp nhiÒu khã kh¨n. Hơn nữa, vấn đề tài sản của vợ
chồng không chỉ có dừng lại đối với những tài sản phát sinh mà còn bao gồm

cả phần tài sản sẽ phải chi tiêu, những khoản nợ, các khoản phải bồi thường
thiệt hại cho người khác… Vì vậy, việc xác định quyền sở hữu tài sản của vợ
chồng trong nền kinh tế hiện nay cần phải được xem xét một cách toàn diện,
thấu đáo trên nguyên tắc bảo vệ lợi ích của gia đình, bảo vệ lợi ích của vợ,
chồng và của người thứ ba.
1.3. SƠ LƯỢC VỀ QUY ĐỊNH QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ
CHỒNG QUA CÁC THỜI KỲ:
Chế định quyền sở hữu được quy định ngay từ thời phong kiến và ngày
càng hoàn thiện qua các thời kỳ.
Trong thời kỳ phong kiến, các quy định về quyền sở hữu tài sản của vợ
chồng đã được luật pháp ghi nhận trong bộ Quốc triều hình luật dưới triều Lê
(1407-1497) và bộ Hoàng Việt luật lệ dưới triều Nguyễn (1912). Trong thời
kỳ này, các giao lưu dân sự chưa được mở rộng, các quan hệ tài sản chưa
phức tạp, chỉ phát sinh trong một số lĩnh vực đơn giản như: Mua bán, cầm cố,
thế chấp điền sản, cho thuê tài sản, vay tiền… Nhìn chung, quan hệ tài sản
vẫn bó hẹp trong phạm vi gia đình. Theo Quốc triều hình luật, “trong quan hệ
tài sản thì sự phân biệt về quyền lợi giữa vợ và chồng không có sự khác biệt
lắm” [20, tr.394]. Bộ Quốc triều hình luật công nhận vợ chồng đều có quyền
sở hữu đối với tài sản riêng: “Tài sản riêng của vợ chồng là những tài sản mà
mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn, do được thừa kế từ gia đình mỗi bên”
[20, tr 417]. Cả tài sản chung và tài sản riêng đều dặt dưới quyền quản lý
chung của vợ và chồng. Vợ chồng cùng có trách nhiệm sử dụng khối tài sản
này cho các nhu cầu chung của gia đình. Pháp luật thời Lê đã thể hiện sự tiến
bộ so với các đạo luật khác thời phong kiến đó là: Công nhận quyền sở hữu
21
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
tài sản riêng của vợ, chồng; vợ, chồng đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
trong việc tạo lập, quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Vì là người có
đóng góp vào kinh tế gia đình nên người vợ cũng có quyền làm chủ đối với tài
sản. Người vợ được quyền tham gia vào quá trình quản trị tài sản chung và

được tham gia vào các hành vi sử dụng tài sản. Đối với các hành vi như mua
bán, cầm cố điền sản (ruộng đất) thì trong văn tự phải có chứ ký của cả hai vợ
chồng. Trong Hoàng Việt luật lệ, người vợ phụ thuộc và hoàn toàn đặt dưới
quyền của người chồng. Tất cả tài sản trong gia đình hợp thành một khối duy
nhất thuộc quyền sử dụng của người chồng. Người vợ được coi là vô năng lực
về mặt pháp lý nên không có một chút quyền hành nào về tài sản trong gia
đình. Quy định này đã đi ngược với quan điểm pháp luật của triều Lê.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, các quy định của pháp luật hôn nhân và gia
đình nói chung và các quy định về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng nói
riêng mang những nét đặc trưng của chế độ thuộc địa và chịu ảnh hưởng sâu
sắc của pháp luật Pháp. Trong bộ Dân luật giản yếu ở Nam kỳ không có các
quy định cụ thể nhưng căn cứ vào án lệ ta thấy: Người vợ không có tài sản
riêng. Trong thời kỳ hôn nhân cũng như sau khi người vợ chết, toàn bộ tài sản
trong gia đình đều thuộc quyền quản lý của người chồng. Quyền sở hữu duy
nhất của người chồng còn bao hàm tất cả các tài sản do hai vợ chồng hay do
một mình người vợ làm ra. Trong bộ Dân luật Bắc kỳ (năm 1931) và Dân luật
Trung kỳ (năm 1936), quyền của người vợ được đảm bảo tốt hơn mặc dù vẫn
phản ảnh sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng. Tại Điều 109 bộ Dân luật Bắc
kỳ và Điều 107 bộ Dân luật Trung kỳ, người chồng có quyền sử dụng các
động sản, thực hiện các giao dịch liên quan đến bất động sản mà không cần có
sự đồng ý của người vợ, miễn là việc sử dụng đó đem lại lợi ích cho gia đình.
Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật quy định phải có sự ưng thuận của
vợ chồng thì việc ưng thuận của người chồng phải được thể hiện bằng văn
22
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
bản và có chữ ký của người chồng, còn sự ưng thuận của người vợ không cần
phải thể hiện bằng văn bản. Như vậy, trong thời kỳ Pháp thuộc, các quy định
của pháp luật về chế định tài sản của vợ chồng rất bất công đối với người vợ,
đặc biệt ở Nam Kỳ khi pháp luật không quy định quyền sở hữu tài sản của
người vợ.

Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công đưa nước ta bước sang
kỷ nguyên mới. Trong sự vận động to lớn của xã hội, các quan hệ hôn nhân
và gia đình cũng có bước chuyển mình quan trọng. Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959 được ban hành, Điều 15 quy định: Vợ và chồng đều có quyền sở
hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi
cưới. Quy định này là hoàn toàn phù với nguyên tắc nam nữ bình đẳng và bảo
vệ quyền lợi của phụ nữ trong gia đình – là một trong những nguyên tắc cơ
bản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người vợ, góp phần đáng kể vào việc xóa bỏ chế độ hôn nhân
và gia đình phong kiến, giải phóng người phụ nữ khỏi sự bất bình đẳng trong
gia đình và xã hội. Các quy định về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng đã có
những bước tiến rõ rệt thể hiện trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là
bên cạnh quy định vợ chồng có tài sản chung còn công nhận vợ, chồng có
quyền có tài sản riêng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã hoàn thiện
hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986: Tiếp tục nhấn mạnh quyền
bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc tạo lập, quản lý, sử dụng và định đoạt
tài sản chung của vợ chồng và thừa nhận quyền sở hữu tài sản riêng của vợ
chồng. Đồng thời, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định chi tiết
và toàn diện về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân khi vợ, chồng đầu tư, kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
hoặc có lý do chính đáng khác. Quy định này giúp vợ chồng có sự độc lập về
tài sản để tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Tuy nhiên,
23
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà
trước tình hình kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi ở nước ta hiện nay, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bộc lộ những thiếu sót, nhiều quy định chỉ
mang tính định hướng, chung chung gây khó khăn trong việc giải quyết các
tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng.
24
Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Hoà

Chương 2
XÁC ĐỊNH QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ THEO
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. XÁC ĐỊNH QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
TRONG TRUỜNG HỢP VỢ CHỒNG THAM GIA VÀO THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN:
2.1.1. Vài nét về thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay:
Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu hoạt động kể từ năm 2000,
khi đó thị trường chỉ được giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh, biểu thị của thị trường là chỉ số VNIndex. Khi trung
tâm giao dịch mở phiên đầu tiên chỉ có hai cổ phiếu REE và SAM được niêm
yết. Bước sang năm 2006, số lượng công ty niêm yết tăng lên nhanh chóng,
đặc biệt là cuối năm 2006 (khi Việt Nam gia nhập WTO) thị trường thực sự
bùng nổ. Cho đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát huy vai trò
quan trọng. Đối với các công ty, thị trường chứng khoán được xem là nơi huy
động vốn hiệu quả nhất. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh tế
luôn có tốc độ tăng trưởng và phát triển cao thì nhu cầu về vốn dài hạn dành
cho đầu tư và phát triển rất lớn. Trong khi nguồn lực của các tổ chức tín dụng
hiện tại hầu như không đáp ứng kịp thì sự ra đời của thị trường chứng khoán
như là một cứu cánh cho các công ty trong việc đáp ứng nhu cầu huy động
vốn dài hạn. Thị trường chứng khoán vừa huy động được nguồn vốn nhàn dỗi
trong dân, vừa tạo ra được các cơ hội đầu tư cho các cá nhân, tổ chức trong và
ngoài nước. Tuy một số ngành nghề có ý nghĩa quan trọng đối với kinh tế
quốc gia chưa được công khai niêm yết hoặc niêm yết hạn chế như hàng
không, bưu chính… nhưng với những công ty đã niêm yết trên thị trường hiện
25

×