Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Định hướng phát triển các khu công nghiệp huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
________________

Trương Thị Gấm

Chun ngành : Địa lí học
Mã số

: 60 31 95

LUẬN VĂN THẠC SĨ ÐỊA LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN ĐỨC TUẤN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009


LỜI CẢM ƠN
Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới TS.
Nguyễn Đức Tuấn - người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt q trình
nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Tác giả xin cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ và sau Đại
học các Thầy Cô khoa Địa lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh,
Ban Giám Hiệu trường THPT Nhơn Trạch huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Tác giả trân trọng cảm ơn các cơ quan của tỉnh Đồng Nai: Sở Kế hoạch và
Đầu tư, Sở Công Thương, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài nguyên và Môi
Trường, Cục Tống kê Đồng Nai, Ban Quản lý khu công nghiệp Đồng Nai…đã giúp


đỡ tác giả trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu và thơng tin có liên quan đến nội
dung nghiên cứu.
Cuối cùng, tác giả xin gởi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và
đồng nghiệp…đã giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt thời gian học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Đồng Nai năm 2009
Tác giả

Trương Thị Gấm


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đồng Nai từ lâu được biết đến như là vùng đất của công nghiệp, đặc biệt hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngồi nước. Đồng Nai khơng chỉ có vị trí địa lý
thuận lợi mà còn nổi tiếng với Khu kỹ nghệ Biên Hòa, được thành lập đầu tiên trong
cả nước từ năm 1963 và nay là khu công nghiệp Biên Hịa 1. Tiếng lành đồn xa, từ
khu cơng nghiệp đầu tiên đó, Đồng Nai đã trở thành thương hiệu hấp dẫn nhiều nhà
đầu tư trong và ngoài nước và con số dự án đầu tư vào các khu công nghiệp Đồng
Nai cứ thế gia tăng. Từ lợi thế này, Đồng Nai luôn là địa phương đi đầu trong lĩnh
vực xây dựng và phát triển khu, cụm công nghiệp. Các khu công nghiệp của Đồng
Nai phát triển mạnh cả về số lượng, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài lẫn
diện tích đất cho th. Một số khu cơng nghiệp như: Biên Hoà 1, Biên Hoà 2, Nhơn
Trạch 2... đã cho th hết diện tích, trong đó Biên Hồ 2 là khu công nghiệp thành
công nhất cả nước trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng Nai cũng là một
trong số ít địa phương thu hút được nhiều dự án có quy mơ vốn trên 100 triệu USD.
Vốn đầu tư nước ngoài đã thật sự trở thành nguồn lực quan trọng để đầu tư phát
triển sản xuất, tạo nguồn thu ngân sách lớn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa
phương, nhất là đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Thành cơng của các khu cơng nghiệp tại Đồng Nai được các bộ, ngành

trung ương đánh giá cao và huyện Nhơn Trạch được coi là điển hình của Đồng Nai
về cơng nghiệp hóa nơng thơn thơng qua hình thức phát triển khu công nghiệp. Với
9 khu công nghiệp đang hoạt động, Nhơn Trạch chuyển mình từ một huyện thuần
nông trở thành một thành phố công nghiệp với các khu đô thị, khu thương mại lớn,
kết cấu hạ tầng phát triển nhanh và ổn định.. Đô thị mới Nhơn Trạch với 9 KCN ra
đời trên diện tích 3.500 ha trở thành vùng đất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong
và ngoài nước. Những năm gần đây, Nhơn Trạch luôn là địa phương dẫn đầu trong
các huyện thị của tỉnh Đồng Nai về thu hút đầu tư nước ngồi trong phát triển cơng
nghiệp. Q trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp đã tác động mạnh
mẽ đến sự phát triển kinh tế-xã hội, môi trường của địa phương và thành phố Nhơn


Trạch tương lai. Làm thế nào để thu hút nhiều vốn đầu tư vào các khu công nghiệp
nhưng vẫn đảm bảo phát triển bền vững về kinh tế- xã hội, mơi trường là một thách
thức lớn đối với chính quyền địa phương và là vấn đề cần được quan tâm, nghiên
cứu. Giải quyết được vấn đề này sẽ góp phần vào thực hiện tốt mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của huyện Nhơn Trạch.trong hiện tại và tương lai.Vì thế tác giả đã
chọn đề tài “ Định hướng phát triển các khu công nghiệp huyện Nhơn Trạch tỉnh
Đồng Nai trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
- Đánh giá tiềm năng phát triển công nghiệp trên địa bàn huyện Nhơn Trạch
tỉnh Đồng Nai.
- Đánh giá tác động của các khu cơng nghiệp đến tình hình phát triển kinh tế xã hội, mơi trường của huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai, đề xuất những định
hướng và giải pháp trên cơ sở phát huy lợi thế của thành phố công nghiệp tương lai
nhằm phát triển các khu công nghiệp của địa phương theo hướng phát triển bền
vững.
2. 2. Nhiệm vụ
- Tổng quan cơ sở lý luận về khu công nghiệp, các nhân tố ảnh hưởng, nguyên
tắc phát triển, tiêu chí đánh giá hiệu quả và thực trạng phát triển khu cơng nghiệp ở

nước ta.
- Phân tích tiềm năng phát triển công nghiệp đồng thời cho thấy vai trị của các
khu cơng nghiệp đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, môi trường của địa phương.
- Căn cứ vào hiện trạng phát triển các khu công nghiệp từ đó định hướng và đề
xuất các giải pháp phát triển bền vững.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
3.1. Nội dung
Đề tài tập trung vào :
- Tiềm năng phát triển công nghiệp của Nhơn Trạch.
- Hiện trạng phát triển của các khu công nghiệp Nhơn Trạch.


- Tác động tích cực và tiêu cực của các khu cơng nghiệp đến tình hình phát
triển kinh tế, xã hội, môi trường địa phương.
- Định hướng phát triển các khu công nghiệp đến năm 2020.
- Các giải pháp và kiến nghị phát triển khu công nghiệp theo hướng bền vững.
3.2. Không gian – thời gian
- Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các khu công nghiệp đang hoạt
động trên địa bàn huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai. Các khu công nghiệp được đề
cập bao gồm Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạch 2, Nhơn Trạch 3, Nhơn Trạch 5, Nhơn
Trạch 6, Nhơn Trạch 2- Lộc Khang, Nhơn Trạch 2- Nhơn Phú, Dệt may Nhơn
Trạch, khu cơng nghiệp Ơng Kèo. Đề tài không đề cập đến các cụm tiểu thủ cơng
nghiệp.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu q trình phát triển các khu công nghiệp trên
địa bàn huyện Nhơn Trạch từ năm 2001 đến nay. Sau năm 2001, một số khu công
nghiệp đi vào hoạt động ổn định và đạt hiệu quả cao có tác động mạnh mẽ đến tình
hình phát triển kinh tế-xã hội, mơi trường của địa phương.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp đã lôi cuốn nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu cả về lý luận lẫn đánh giá thực tiễn từ đầu những năm 90 cho đến

nay. Năm 1993 Lưu Vũ Mai đã cho xuất bản quyển kinh nghiệm của thế giới và
khả năng phát triển khu chế xuất ở Việt Nam chuyên đề thông tin. Năm 1995, Văn
Thái thực hiện một cơng trình đánh giá tổng kết toàn bộ các khu chế xuất Việt
Nam, bên cạnh việc xem xét và đúc kết kinh nghiệm từ một số khu chế xuất trên thế
giới. Cũng trong năm này, Lê Văn Nin đưa ra một cơng trình nghiên cứu về cơ sở
hình thành, phát triển các khu cơng nghiệp tập trung ở Việt Nam. Năm 2002 Bộ
kế hoạch và đầu tư – cơ quan đại diện phía Nam xuất bản cuốn khu chế xuất và
khu công nghiệp ở các tỉnh phía Nam. Tháng 3/2003 Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ
chức hội nghị tổng kết tình hình hoạt động các khu công nghiệp và vạch ra phương
hướng phát triển. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Thạc sĩ Lê Thị Hường (và các cộng
tác viên) trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh tháng 5/2004 : Các khu công


nghiệp – khu chế xuất Việt Nam, hiệu quả hoạt động và xu hướng phát triển. Kỷ
yếu Hội nghị - Hội thảo quốc gia “15 năm (1991-2006) xây dựng và phát triển các
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tháng
7/2006.
Về phía tỉnh Đồng Nai có: Đề tài “ Tổng kết quá trình xây dựng phát triển
các khu cơng nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai” của Tỉnh uỷUBND tỉnh Đồng Nai năm 2005, Kỹ Sư Võ Thanh Lập quyền Trưởng Ban Quản lý
các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai năm 2007 với “ Xây dựng hệ thống tiêu chí
xếp hạng các khu cơng nghiệp Đồng Nai”, đề tài “Phân tích hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp trên địa bàncác khu công nghiệp Nhơn Trạch giai đoạn
2001-2005 và những dự báo cho giai đoạn 2006-2010” của Kiều Thị Mỹ Linh
trường Đại Học Lạc Hồng và “ Phân tích tình hình thu hút vốn đầu tư vào các
khu công nghiệp Nhơn Trạch giai đoạn 2001-2006 và dự áo đến năm 2010” của
Huỳnh Thị Kim Hương trường Đại học Lạc Hồng. Ngồi ra cịn có một số bài báo
trong và ngoài tỉnh Đồng Nai viết về huyện Nhơn Trạch với nhiều khu cơng nghiệp
phát triển có hiệu quả và một thành phố công nghiệp Nhơn Trạch tương lai.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu đầy đủ và chi
tiết về thực trạng phát triển các khu công nghiệp trên đia bàn huyện Nhơn Trạch

tỉnh Đồng Nai. Các cơng trình trên sẽ là những tài liệu tham khảo quý giá để tác giả
nghiên cứu đề tài “ Định hướng phát triển các khu công nghiệp huyện Nhơn
Ttrạch tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn đề tài nghiên cứu
5. 1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần hồn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng các khu công
nghiệp tại một huyện của tỉnh Đồng Nai thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
nói riêng, ở Việt Nam nói chung.
5. 2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách, Ban quản lý KCN, khu
chế xuất những ý kiến đóng góp cho việc hồn thiện hệ thống pháp lý cũng như


những giải pháp thiết thực để thu hút vốn đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài, hạn
chế tối đa những vấn đề mà hầu hết các khu công nghiệp nước ta hiện nay đang mắc
phải. Đồng thời, thông qua đề tài cung cấp cho các nhà đầu tư trong nước và ngồi
nước cơ sở nhận định tình hình đầu tư tại địa phương từ đó có chiến lược đầu tư
thích hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho mình và góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế của huyên nói riêng và của cả nước nói chung.
6. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Quan điểm
6.1.1. Quan điểm hệ thống
Các khu công nghiệp huyện Nhơn Trạch được coi là hệ thống lãnh thổ được
đặt trong một hệ thống lớn hơn, đó là hệ thống các khu cơng nghiệp của tỉnh Đồng
Nai, có quan hệ với các khu cơng nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu,
Bình Dương…và cả nước. Khi đánh gía các điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển
khu công nghiệp Nhơn Trạch phải đặt trong sự ảnh hưởng chung của các điều kiện
ảnh hưởng đến các trung tâm công nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và
cả nước.
6.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ

Đối tượng nghiên cứu là các khu công nghiệp. Chúng được phân bố trên một
không gian nhất định và có đặc trưng lãnh thổ riêng. Áp dụng quan điểm tổng hợp lãnh thổ cho phép xem xét các yếu tố trong mối quan hệ tác động lẫn nhau, phát
hiện ra quy luật phát triển, các nhân tố trội tác động đến sự phát triển các khu cơng
nghiệp. Vì vậy việc hình thành và phát triển các khu cơng nghiệp ở Nhơn Trạch nếu
có sự kết hợp tổng lực các yếu tố tự nhiên, kinh tế-xã hội, đường lối chính sách phát
triển của địa phương…sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển các khu công nghiệp một
các nhanh chóng và hiệu quả.
6.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Những tác động của sự biến đổi kinh tế xã hội tới sự hình thành và phát triển
các khu cơng nghiệp là quá trình lâu dài, vận động theo thời gian. Hiện trạng phát
triển các khu công nghiệp và xu hướng phát triển là cơ sở đề xuất giải pháp quản lý


và phát triển các khu công nghiệp trong tương lai.
6.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Trong quá trình phát triển các khu công nghiệp sẽ xuất hiện nhiều vấn đề về
sinh thái và phát triển bền vững, các vấn đề như xử lý nước thải, rác thải, khói
thải…Vì vậy dựa trên quan điểm này mới có thể định hướng phát triển sao cho một
mặt phát huy sức mạnh tổng hợp để phát triển các khu cơng nghiệp có hiệu quả
đồng thời đảm bảo môi trường sinh thái.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp phân tích thơng tin
Thơng tin thu được từ nguồn niên giám thống kê, từ báo chí và các phương
tiện thông tin đại chúng khác được sắp xếp, kiểm tra mức độ chính xác của các
nguồn thơng tin và phân loại, phân tích các thơng tin đã được thu thập.
6.2.2. Phương pháp thống kê
Các tài liệu thống kê được thu thập và triệt để khai thác bởi vì đây là các tài
liệu có “giá trị pháp lý”. Các tài liệu được thu thập nhiều nguồn khác nhau như Sở
Công nghiệp Đồng Nai, Sở Khoa học và Công nghệ Đồng Nai, Ban quản lý các khu
công nghiệp Đồng Nai, UBND tỉnh Đồng Nai, UBND huyện Nhơn Trạch, Phòng

kinh tế huyện Nhơn Trạch và các website có liên quan…để so sánh, tìm ra ngun
nhân phát triển các khu cơng nghiệp Nhơn Trạch.Từ đó đưa ra kết luận và khả năng
phát triển trong tương lai.
6.2.3. Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Trong nghiên cứu các vấn đề địa lý nói chung và các vấn đề về địa lý kinh tế
xã hội nói riêng thì phương pháp bản đồ, biểu đồ rất quan trọng và là đặc thù của
khoa học địa lý. Các bản đồ, biểu đồ trong đề tài cho phép ta thể hiện kết quả
nghiên cứu một cách sinh động hơn. Các bản đồ trong đề tài được thành lập trên cơ
sở phần mềm Mapinfo
6.2.4. Phương pháp thực địa
Đây là phương pháp cần thiết. Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đã đến
tham quan thực tế các khu công nghiệp của huyện, các cơ quan ban ngành và địa
điểm có liên quan.


6.2.5. Phương pháp phỏng vấn chuyên gia, nhà quản lý
Thu thập ý kiến của các chuyên gia, nhà quản lý và những người có kinh
nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu về quá trình phát hình thành và phát triển các khu
cơng nghiệp, đồng thời phân tích sự liên quan của nó đến những vấn đề phát triển
kinh tế-xã hội. Qua những ý kiến của chuyên gia cho phép tác giả có những nhận
định khách quan, chủ quan về sự phát triển các khu công nghiệp và những dự kiến
các biện pháp khách quan, thiết thực và hiệu quả hơn.
7. Cấu trúc luận văn
Tên đề tài: “ Định hướng phát triển các khu công nghiệp huyện Nhơn Trạch
tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa”. Đề tài gồm có 3
phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung gồm có 3 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận về khu công nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển các khu công nghiệp huyện Nhơn Trạch
tỉnh Đồng Nai
Chương 3 Định hướng và giải pháp phát triển các khu công nghiệp huyện

Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai đến năm 2020
Ngoài ra, đề tài cịn có phần phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP
1.1.Khu công nghiệp
1.1.1.Khái niệm
Khu công nghiệp (KCN) với tư cách là một hình thức của tổ chức lãnh thổ
cơng nghiệp cùng với các hình thức khác (điểm cơng nghiệp, cụm cơng nghiệp, trung
tâm cơng nghiệp, vùng cơng nghiệp…) được hình thành và phát triển ở một số nước
tư bản vào những năm giữa thế kỷ XX. Nó được hiểu là một khu vực đất đai có ranh
giới nhất định do nhà tư bản sở hữu, trước hết là xây dựng cơ sở hạ tầng và sau đó
là xây dựng xí nghiệp để bán. Ở các nước châu Á, và ASEAN, KCN ra đời vào giữa
sau của thế kỷ XX (Singapor năm 1951, Đài Loan 1966, Hàn Quốc 1970, Thái Lan
1972…) Ở nước ta, hình thức tổ chức lãnh thổ cơng nghiệp này được hình thành
vào đầu thập niên 90 của thế kỉ XX. Dù tên gọi ở mỗi nước khác nhau, nhưng về
bản chất đó là KCN.
Có nhiều quan niệm khác nhau về KCN. Theo quan niệm thông thường, KCN
là khu vực có tính chất độc lập trong đó có các doanh nghiệp (DN) chuyên sản xuất
hàng hoá và thực hiện các hoạt động dịch vụ và có chế độ quản lý riêng. Khu chế
xuất (KCX) là khu chuyên sản xuất hàng giành cho xuất khẩu, ở đó áp dụng nhiều
biện pháp ưu đãi như miễn thuế (xuất-nhập khẩu, thuế tài sản…) và tự do mua bán.
Theo định nghĩa đơn giản của Peddle (1993), “khu công nghiệp là một khoảng đất
tương đối rộng, chia nhiều lô và được xây dựng hạ tầng và hưởng lợi thế vị trí liền
kề nhau”.
KCN theo quan niệm của địa lý Liên Xô trước đây là hình thức tổ chức lãnh
thổ cơng nghiệp nhưng chưa thực sự thống nhất về nội dung và những đặc trưng
chủ yếu. Các nhà khoa học của trường Đại học Tổng hợp Matxcơva đưa ra định
nghĩa sau : “Khu công nghiệp là sự tập hợp theo lãnh thổ của những điểm công
nghiệp, tạo thành sự thống nhất kinh tế và nền tảng là các ngành cơng nghiệp lớn

có ý nghĩa tồn quốc và các ngành phục vụ có liên quan”.
Ở nước ta, trong Nghị định 192/CP ngày 25/12/1994 của chính phủ đã chỉ rõ:
KCN do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản


xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất cơng nghiệp, khơng có
dân cư sinh sống.
Cịn theo Hội Đồng Nghiên Cứu Phát Triển Quốc Tế về KCN (WEPZA) là tất
cả các khu vực được chính phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như cảng
tự do, khu mậu dịch tự do, KCN tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu
vực khác được tổ chức này công nhận. Như vậy, quan niệm của WEPZA là một
quan niệm rất rộng và nó địi hỏi các chính sách quản lý có độ linh hoạt cao và mức
độ "tự do hoá" khá lớn.
Tuy nhiên, cũng có quan niệm cho rằng KCN là một khu vực phụ (subregion)
khơng nhất thiết phải có sự ngăn cách biệt lập và trên thực tế có nhiều tập đồn và
tổ hợp cơng nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau
trên một khu vực rộng lớn và việc bố trí mặt bằng các khu sản xuất trên quy mơ lớn
như vậy hình thành một loại hình tổ chức mới của KCN mà khơng nhất thiết phải có
một quy chế đặc thù.
Như vậy, có thể xác định KCN là một khu vực có ranh giới rõ rệt với những
thế mạnh về vị trí địa lí, về tự nhiên, kinh tế để thu hút đầu tư, hoạt động với cơ cấu
hợp lí giữa các DN cơng nghiệp và dịch vụ có liên quan thuộc nhiều thành phần
kinh tế nhằm đạt hiệu quả cao của từng DN nói riêng và tổng thể cả KCN nói
chung.
Có nhiều thuật ngữ đồng nghĩa với KCN như sau:
Các thuật ngữ đồng nghĩa với khu công nghiệp
1. Industrial Zones ( Khu công nghiệp)
2. Industrial Parks (Công viên công nghiệp)
3. Industrial Cluster (Cụm công nghiệp)
4. Industrial Processing Zones (Khu chế biến công nghiệp)

5. Export Processing Zones (Khu chế xuất)
6. Business Parks (Công viên thương mại)
7. Science and Research Parks (Công viên khoa học và nghiên cứu)
8. High – Tech Centers (Trung tâm công nghệ cao)


9. Bio- Technology Parks (Công viên công nghệ sinh học)
10. Eco- Industrial Parks (Công viên công nghiệp sinh thái)
Nguồn: Quản lý môi trường các khu công nghiệp, INFOTERRA, 2000
1.1.2. Mục tiêu của KCN
Theo các tài liệu của Liên Hiệp quốc và WEPZA, các KCN trên thế giới ra đời
nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) để tăng xuất khẩu, thu hút ngoại tệ,
tranh thủ kỹ thuật mới, đi đôi với chuyển giao công nghệ giải quyết nạn thất nghiệp,
tăng lượng người có cơng ăn việc làm trong và ngoài khu, học tập và áp dụng cách
quản lý kinh tế tiên tiến, tăng các khoản thu ngoại tệ cho thuê đất và cung ứng các
loại dịch vụ. Mục đích quan trọng của KCN là sử dụng hiệu quả quỹ đất thúc đẩy
sự phát triển các vùng, mở ra khả năng phát triển sản xuất công nghiệp ở trong
nước, tăng xuất khẩu, thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ hàng công
nghiệp. KCN là một bộ phận gắn liền của chính sách mở cửa ra thế giới bên ngoài
tăng cường các quan hệ trao đổi kinh tế, kỹ thuật đa phương.
Ngoài ra, phát triển các KCN cũng thúc đẩy việc hình thành và phát triển các
đơ thị mới, phát triển các ngành công nghiệp thượng nguồn và dịch vụ, tạo điều
kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích
quốc gia, trong đó việc tăng thu nhập và tạo việc làm cho người lao động, góp phần
xóa đói giảm nghèo và đào tạo phát triển nguồn nhân lực; xây dựng phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật và hạ tầng xã hội cho sự phát triển của đất nước.
1.1.3.Tính tất yếu khách quan của việc hình thành KCN
Việc hình thành các KCN mang tính tất yếu trong từng giai đoạn lịch sử ở các
quốc gia khác nhau.
Các nước tư bản muốn thông qua việc xây dựng các KCN để tăng cường xuất

khẩu cũng như khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, đồng thời khai thác triệt
để các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động của các nước.
Đối với các nước đang phát triển, trong quá trình CNH với chiến lược hướng
về xuất khẩu, các KCN, KCX được hình thành nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư,
công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển., giải quyết việc làm,


tăng nguồn hàng xuất khẩu.... Hiện nay các nước đang phát triển đang ở giai đoạn
đầu của quá trình CNH-HĐH, các nguồn lực cần thiết cho đầu tư phát triển là rất
hạn chế. Chính vì vậy việc mở rộng hợp tác với nước ngoài tạo cơ hội thu hút vốn
đầu tư. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là cần có môi trường đầu tư hấp dẫn để tạo động lực
thu hút các nhà đầu tư. Trong điều kiện đất nước cịn nhiều khó khăn thì khơng thể
cùng một lúc tạo ra mơi trường thuận lợi trên tồn quốc, nên việc tạo ra những khu
vực có diện tích nhỏ để tập trung những điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư, tạo khả
năng thu hút nguồn vốn nước ngoài là điều cần thiết và khả thi. Bên cạnh đó việc
hình thành các KCN cũng là cơ hội để phát huy sức mạnh nội lực của đất nước
trong quá trình CNH-HĐH. Thực tế cho thấy vai trò quan trọng trong việc phát huy
nội lực và tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp phát
triển đất nước. Vì vậy sự ra đời của các KCN là một bước đi đúng đắn cho các nước
đang phát triển trên con đường phát triển và hội nhập.
1.1.4. Đặc điểm chung của KCN
Khu cơng nghiệp có một số đặc điểm chính sau đây:
- Có ranh giới rõ ràng với quy mơ đất đai đủ lớn với vị trí địa lí thuận lợi (gần
sân bay, bến cảng, đường sắt, đường ô tô…).
- Tập trung tương đối nhiều xí nghiệp cơng nghiệp cùng sử dụng chung cơ sở
hạ tầng sản xuất xã hội, được hưởng quy chế ưu đãi riêng khác với các xí nghiệp
phân bố ngồi KCN (như giá th đất, thuế quan, chuyển đổi ngoại tệ…), khơng có
dân cư sinh sống.
- Có Ban quản lí thống nhất để thực hiện quy chế quản lí, đồng thời có sự phân
cấp rõ ràng về quản lí và tổ chức sản xuất. Về phía các xí nghiệp, khả năng hợp tác

sản xuất phụ thuộc vào việc tự liên kết với nhau của từng DN. Cịn việc quản lí Nhà
nước được thể hiện ở chỗ Nhà nước chỉ quy định những ngành (hay loại xí nghiệp)
được khuyến khích phát triển và những ngành (hoặc loại xí nghiệp) khơng được
phép đặt trong KCN vì các lí do nhất định (như môi trường sinh thái, hay an ninh
quốc phòng).


- Các KCN rất khác nhau về tính chất và về loại hình. Vì thế để tiện lợi cho
việc phân loại, có thể căn cứ vào một số tiêu chí cụ thể như vị trí địa lí, tính chất
chun mơn hố, cơ cấu và đặc điểm sản xuất, quy mơ, sự độc lập hay phụ thuộc,
trình độ cơng nghệ…Nói cách khác, dựa vào mỗi chỉ tiêu sẽ có từng cách phân loại
các KCN.
1.1.5.Phân loại KCN
- Về vị trí địa lí, các KCN được hình thành ở những khu vực khác nhau. Do
vậy, có thể phân ra các KCN nằm ở trung du hay vùng núi, các KCN ven biển, các
KCN dọc theo quốc lộ, các KCN nằm trong các thành phố lớn.
- Về tính chất chun mơn hố, cơ cấu và đặc điểm, có thể chia ra: các KCN
chun mơn hố (trên cơ sở xí nghiệp chun mơn hố sử dụng một loại nguyên
liệu cơ bản), các KCN tổng hợp (cơ cấu đa dạng với nhiều ngành sản xuất), hoặc
các KCN sản xuất chủ yếu để xuất khẩu hay còn gọi là KCX.
- Về quy mô, tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, vị trí địa lí và sự hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư (trong và ngoài nước), có thể chia thành các KCN có quy mơ lớn,
các KCN có quy mơ vừa và các KCN có quy mơ nhỏ.
Ở nước ta, quy mơ về diện tích của KCNTT có thể quy định như sau:
+ Quy mơ lớn: trên 300 ha;
+ Quy mô vừa: từ 150 đến 300 ha;
+ Quy mơ nhỏ: dưới 150 ha.
- Về trình độ cơng nghệ, có thể chia ra một số loại KCN tuỳ thuộc vào trình độ
khoa học và cơng nghệ của các xí nghiệp phân bố trong KCN. KCN gồm các xí
nghiệp có trình độ cơng nghệ tiên tiến thì gọi là khu công nghệ cao và ngược lại.

1.1.6. Các loại hình KCN phổ biến
Hiện nay, 5 loại hình KCN thường thấy nhất ở các nước bao gồm: KCN hỗn
hợp, KCX, khu công nghệ cao, khu kinh tế tổng hợp, và xu thế hiện nay đặc biệt ở
các nước phát triển là hướng tới xây dựng KCN sinh thái. Dù theo cách gọi thế nào,
chúng đều có hai đặc điểm chung là: (1) cùng địa điểm và (2) cấu trúc quản lý.


- Khu công nghiệp hỗn hợp : KCN hỗn hợp là nơi tập trung nhiều cơ sở sản
xuất với nhiều loại hình cơng nghiệp khác nhau và có đặc điểm của một KCN như
đã định nghĩa ở trên.
- Khu chế xuất : là KCN tập trung các DN chế xuất chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất
khẩu, có ranh giới địa lý xác định, khơng có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Khu công nghệ cao (KCNC) : là khu kinh tế kỹ thuật đa chức năng, có ranh
giới xác định, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, nhằm nghiên cứu –
phát triển và ứng dụng công nghệ cao và sản xuất, kinh doanh sản phẩm cơng nghệ
cao. Trong KCNC có thể có KCX, kho ngoại quan, khu bảo thuế và khu nhà ở. 1
- Khu kinh tế tổng hợp (KKTTH) : KKTTH là những KCN được phát triển
theo kế hoạch đã được phê chuẩn có tích hợp chức năng cơng nghiệp, kết hợp với
khu vực dân cư, khu vực thương mại và tiện nghi hỗ trợ. Trong KKTTH lấy thương
mại dịch vụ và sản xuất làm trọng tâm, cân đối nhau và thúc đẩy nhau phát triển.
Vùng Phát triển Kinh tế và Công nghệ Dalian (Trung Quốc) là một ví dụ điển hình
về KKTTH.
- Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) khái niệm sinh thái công nghiệp vẫn
cịn “non trẻ” và chưa có một định nghĩa thống nhất. Tuy nhiên khái niêm phổ biến
trên thế giới hiện nay về KCNST là KCN kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất công
nghiệp và bảo vệ môi trường. Trong đó, nhiều nhà máy hoạt động độc lập nhưng
liên kết với nhau một cách tự nguyện hình thành hệ cơng sinh giữa các nhà máy với
nhau và với môi trường. Đây là mơ hình mang lại nhiều lợi ích trong việc bảo tồn

tài ngun, mơi trường, đồng thời có lợi cho nhà sản xuất do giảm chi phí về
nguyên vật liệu, năng lượng, chi phí sản xuất, bảo hiểm, giảm trách nhiệm pháp lý
về bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện chất lương sản phẩm.

1

Quy chế khu công nghệ cao – ban hành kèm theo Nghị định 99/2003/NĐ-CP ngày 28/08/2003 của Chính Phủ.


1.1.7. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển KCN
Có hai nhóm yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển KCN là nhóm
yếu tố bên trong (vị trí địa lí và tài nguyên thiên nhiên, các trung tâm kinh tế và đô
thị, kết cấu hạ tầng, khả năng đầu tư và thị trường trong nước…) và nhóm yếu tố
bên ngồi (vốn đầu tư và thị trường nước ngồi, quan hệ chính trị và chính sách
tồn cầu…). Tất nhiên hai nhóm này có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó
nhóm thứ nhất có vai trị quyết định, cịn nhóm thứ hai có ý nghĩa rất quan trọng đối
với từng giai đoạn và từng địa phương.
1.1.7.1 Nhóm yếu tố bên trong
a. Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên
Trong 10 yếu tố quyết định sự thành công của KCN, nhất là KCX mà WEPZA
tổng kết, thì có hai yếu tố liên quan đến vị trí địa lí (gần tuyến giao thơng, bến cảng)
và tài nguyên thiên nhiên (đảm bảo đủ nguồn nước cơng nghiệp).
Vị trí địa lý có ảnh hưởng quan trọng đối với việc xây dựng các KCN, trước
hết tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn cho việc trao đổi, tiếp cận giữa các địa
phương, các vùng trên cả nước. Vị trí địa lý là lợi thế so sánh trong việc thu hút đầu
tư và từ đó tạo điều kiện cho sự ra đời các loại hình KCN, KCX. Trong trường hợp
này vị trí địa lý mang ý nghĩa chiến lược đối với tổ chức lãnh thổ cơng nghiệp nói
riêng, sự phát triển kinh tế nói chung.
Ngồi hai yếu tố trên, tất nhiên, các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có trong
nước cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển các KCN. Trong

điều kiện của nền kinh tế thị trường, sản phẩm ra đời đòi hỏi phải có khả năng cạnh
tranh cao, nghĩa là đảm bảo chất lượng cao, giá thành hạ.. Để có giá thành rẻ nguồn
ngun liệu tại chỗ có vai trị đặc biệt quan trọng. Điều này thường trông cậy vào
nguồn tài nguyên trong nước, khoáng sản…nhưng tất nhiên phải thỏa mãn được yêu
cầu về “đầu vào” của sản phẩm (số lượng, chất lượng, mẫu mã nguyên liệu…).
b. Trung tâm kinh tế và đô thị
Các đô thị cũng thường là các trung tâm kinh tế với ý nghĩa khác nhau (quốc
gia, vùng, địa phương). Các đô thị, nhất là các thành phố lớn, chứa đựng nhiều yếu


tố thuận lợi cho việc ra đời và phát triển các KCN, đồng thời có sức thu hút mạnh
mẽ đối với các nhà đầu tư. Nhìn chung, các đơ thị có những thuận lợi chủ yếu sau
đây:
- Có nguồn lao động dồi dào, nhất là lao động có chất lượng cao.
- Sẵn có cơ sở cơng nghiệp hỗ trợ, phục vụ cho KCN.
- Tập trung kết cầu hạ tầng và cơ sở vật chất phục vụ công nghiệp.
- Các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, dạy nghề, ngân hàng, tài chính…
- Đầu mối giao thơng thuận lợi…
c. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
Hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật có vai trị nhất định đối với
việc tổ chức lãnh thổ cơng nghiệp. Nó có thể là tiền đề thuận lợi hay cản trở sự phát
triển cơng nghiệp nói chung và tổ chức lãnh thổ cơng nghiệp nói riêng. Hệ thống cơ
sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp
bao gồm hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, mạng lưới cung cấp điện,
nước, các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở cơng nghiệp … góp phần đảm bảo các mối liên
hệ sản xuất, kinh tế, kỹ thuật giữa vùng nguyên liệu với nơi sản xuất, giữa các nơi
sản xuất với nhau và giữa nơi sản xuất với địa bàn tiêu thụ sản phẩm.
d. Vốn đầu tư trong nước
Một trong những mục tiêu của việc xây dựng các KCN tập trung, đặc biệt là
KCX là thu hút vốn ĐTNN. Trong điều kiện hầu hết các nước đang phát triển, đã

nảy sinh mâu thuẫn đáng kể; Muốn lôi kéo được vốn ĐTNN vào các KCN, trước
hết phải bỏ vốn đầu tư trong nước (ĐTTN) xây dựng hạ tầng, việc đầu tư này khá
tốn kém trong khi nguồn vốn còn hạn chế.
e.Nguồn lao động
Nguồn lao động vừa là lực lượng sản xuất vừa là thị trường tiêu thụ. Nguồn
lao động là lực lượng sản xuất chủ yếu, là một trong những điều kiện quan trọng
phát triển và phân bố công nghiệp. Những KCN cần nhiều lao động như dệt, may,
chế tạo máy… thường phân bố ở nơi đông dân cư. Chất lượng của người lao động
như trình độ học vân, trình độ tay nghề và chun mơn kĩ thuật cũng có ảnh hưởng


rất lớn đến việc xây dựng và đáp ứng những thành tựu của khoa học và kỹ thuật đối
với những xí nghiệp cơng nghiệp.
g. Chính sách phát triển KCN
Chính sách có ảnh hưởng trực tiếp, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của các KCN. Chính vì vậy cần thiết phải có một chính sách phát triển đúng
đắn, tạo điều kiện cho KCN phát triển.
1.1.7.2. Nhóm yếu tố bên ngoài
a. Vốn đầu tư nước ngoài
Trong khi các nước đang phát triển thiếu vốn thì các cơng ty xun quốc gia
lại có nguồn vốn lớn, đang tìm mơi trường đầu tư để đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Phần lớn các KCN, KCX ra đời nhờ các khoảng vay ngân hàng để xây dựng kết cấu
hạ tầng.
Gần đây nổi lên xu hướng phát triển mạnh nguồn vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài (FDI) vào các nước đang phát triển để xây dựng các KCN. Tuy nhiên,
điều kiện đầu tư phức tạp hơn. Nếu như trước đây, các KCN chỉ cần xây dựng kết
cấu hạ tầng sản xuất (giao thông và phương tiện vận chuyển, cấp điện, nước…) là
đủ cơ sở để thu hút nguồn vốn FDI, thì ngày nay lại đòi hỏi cả yêu cầu phát triển ở
mức độ nhất định về con người và công nghệ.
b.Thị trường quốc tế

Thị trường quốc tế là một trong những nhân tố hàng đầu tác động đến việc ra
đời của các KCN, nhất là KCX. Điều đó được thể hiện ở một vài phương diện sau
đây:
Trước hết là về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các nhà đầu tư vào KCX với
mục tiêu cơ bản là sản xuất hàng xuất khẩu. Do đó thị trường tiêu thụ, trong chừng
mực nhất định, chi phối quy mô, cường độ và hướng sản xuất của các KCX.
Sau đó là về thị trường nguyên liệu. Phần nhiều các KCN, đặc biệt là KCX
trên thế giới có quan hệ chủ yếu với thị trường quốc tế về ngun liệu,Việt Nam
cũng khơng nằm ngồi xu hướng ấy.


Cuối cùng là sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế giữa các KCN, KCX. Về
mặt đó, KCN, KCX được coi như một sản phẩm quốc tế và đang có sự cạnh tranh
gay gắt về địa điểm đầu tư. Thị trường KCN, KCX được hình thành do sự tác động
qua lại của quan hệ cung – cầu.
c.Quan hệ chính trị và chính sách tồn cầu
Quan hệ chính trị và chính sách tồn cầu của các nước phát triển có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến khả năng hình thành các KCN, KCX tại các nước đang phát triển. Sự
tác động của các yếu tố này được thể hiện qua các mặt chủ yếu sau:
- Điều kiện ưu đãi vốn, nhất là vốn ODA và các khoản vay ngân hàng để xây
dựng kết cấu hạ tầng tại các KCN.
- Điều kiện về đầu vào (nguyên liệu, trang thiết bị, máy móc) và đầu ra ( thị
trường tiêu thụ sản phẩm)
- Khả năng chuyển giao cơng nghệ.
Như vậy sự hình thành và phát triển các KCN chịu sự tác động mạnh mẽ bởi
các yếu tố bên trong bao gồm: Vị trí địa lí, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các
nhân tố kinh tế - xã hội (KT-XH); các nhân tố này giữ vai trò là tiền đề và động lực
của hoạt động, phát triển KCN. Các yếu tố bên ngồi có vai trị thúc đẩy mạnh mẽ
q trình đó diễn ra nhanh chóng hơn, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong một số
trường hợp cụ thể, yếu tố bên ngoài chi phối mạnh mẽ và thậm chí có thể có ý nghĩa

quyết định.
1.2.Vai trò của KCN trong sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc CNHHĐH, nhằm thực hiện mục tiêu trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Do vị trí và tầm quan trọng của CNH-HĐH trong sự nghiệp phát triển kinh tế
và đảm bảo mục tiêu chính trị của đất nước, nên qua qua tất cả các kỳ Đại hội, Đảng
ta luôn luôn xác định: CNH-HĐH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
một lần nữa xác định mục tiêu của CNH-HĐH là: “ Xây dựng nước ta trở thành một
nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ


sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp”
Về mặt lý luận, trên cơ sở tổng kết các quan niệm từ trước tới nay, Hội nghị
lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã đưa ra quan niệm mới về
CNH-HĐH, đây cũng chính là quan niệm được sử dụng một cách phổ biến ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay: “CNH-HĐH được hiểu là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý xã hội và tâm lý từ sử
dụng lao động thủ công là chủ yếu sang sử dụng một cách phổ biến lao động với tay
nghề có cơng nghệ và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của
công nghiệp, tiến bộ khoa học và công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Quan niệm này khẳng định tính tất yếu khách quan của quá trình CNH-HĐH trong
thời kỳ quá độ, Đồng thời cho chúng ta thấy được vai trị vơ cùng quan trọng của
việc phát triển công nghiệp và khoa học công nghệ nhằm thực hiện thành công sự
nghiệp CNH-HĐH.
Thực tiễn việc thực hiện CNH-HĐH ở nước ta cho thấy, để thực hiện thành
công sự nghiệp này, Đảng và Nhà nước ta đã chọn con đường rút ngắn, đi tắt, đón
đầu bằng nhiều phương thức khác nhau. Phát triển các KCN, KCX là một phương

thức quan trọng để góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp này.
Có thể nói các KCN ở nước ta ra đời và phát triển cùng với chính sách đổi mới
do Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI khởi xướng và gắn liền với công
cuộc CNH-HĐH đất nước. Phát triển KCN có ý nghĩa to lớn đối với quá trình
CNH-HĐH, thể hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Đó là chủ trương
“ Quy hoạch vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh
tế, khu công nghiệp tập trung”. Từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1994 và được tiếp tục khẳng định
tại văn kiện Đại hội IX của Đảng về chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010: “ Quy
hoạch phân bố công nghiệp hợp lý trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu


công nghiệp, khu chế xuất; xây dựng một số khu cơng nghệ cao, hình thành các cụm
cơng nghiệp lớn và khu kinh tế mở ”
1.2.1. Sự cần thiết phát triển KCN trong tiến trìnhCNH-HĐH ở nước ta
Từ thực tiễn và lý luận về CNH-HĐH, một số tiền đề cần thiết để đẩy nhanh
q trình CNH-HĐH ở Việt Nam đó là: vốn tích lũy; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật, công nhân lành nghề và cán bộ quản lý kinh doanh; phát triển kết cấu
hạ tầng và cuối cùng là đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò của
Nhà nước. Phát triển các KCN, KCX là một trong những giải pháp để tạo dựng các
tiền đề nói trên cho sự nghiệp CNH-HĐH. Tuy nhiên điều đó khơng có nghĩa là
KCN là giải pháp duy nhất, chỉ có thể thực hiện giải pháp này mới có thể thực hiện
CNH-HĐH thành cơng, hay nói cách khác sẽ là vội vàng nếu kết luận KCN, KCX
là giải pháp tất yếu của quá trình CNH-HĐH. Về nguyên tắc, bằng con đường này
hay con đường khác, chúng ta có thể có được các tiền đề nói trên. Nhưng phát triển
KCN là một giải pháp tổng hợp, mang tính toàn diện để giải quyết đồng thời về
vốn, khoa học cơng nghệ, trình độ quản lý, là con đường tối ưu để tiến đến mục tiêu
trang bị cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Do đó, bằng việc phát triển các KCN
chúng ta có thể rút ngắn và đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH.
Mặt khác chúng ta thực hiện CNH-HĐH trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội

nhập kinh tế quốc tế, nên sự vận động của tất cả các thành phần kinh tế trên các lĩnh
vực của nền kinh tế không thể tách rời xu thế này. Do đó để nền kinh tế phát triển
vững chắc, bên cạnh việc hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, chúng ta cần
bảo đảm tính độc lập trong kinh tế; có một đường lối phát triển riêng được xây dựng
trên cơ sở điều kiện thực tế của đất nước. Phát triển KCN có thể thực hiện đồng thời
cả 2 mục tiêu trên:
- Thứ nhất, KCN được hiểu là một vùng lãnh thổ đặc biệt có những điều kiện
thuận lợi về cơ sở hạ tầng sẵn có cùng với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp
dụng. Đây sẽ là một nơi lý tưởng cho các nhà đầu tư, trong đó có các nhà
ĐTNN.Cùng với dịng vốn nước ngồi đầu tư vào KCN, các công nghệ tiên tiến,
hiện đại trên thế giới, trình độ quản lý của đơi ngũ cán bộ quản lý DN, trình độ tay


nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế sẽ được du nhập vào Việt Nam.
Đây cũng chính là những nhân tố góp phần để nước ta thực hiện việc chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Thực chất của q trình tồn cầu hóa chính là q trình phân
công lao động trên phạm vi quốc tế theo hướng chun mơn hóa và tập trung hóa.
Phát triển KCN chính là một cách để chúng ta tham gia vào quá trình phân cơng lao
động quốc tế.
- Thứ hai, KCN là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi và nhiều ưu đãi, đồng thời
cũng được quản lý chặt chẽ bởi hệ thống pháp luật. Tại KCN, các nhà đầu tư vừa
được tự do kinh doanh vừa phải tuân thủ chặt chẽ pháp luật Việt Nam. Qua hoạt
động của các DN- KCN trong và ngoài nước, KCN thiết lập được mối liên kết kinh
tế theo vùng , theo ngành ngành trên phạm vi trong nước và quốc tế, từ đó giúp
chúng ta khai thác được các nguồn lực sẵn có, phát huy được những lợi thế so sánh,
đồng thời huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế. Như vậy,
với mơ hình KCN chúng ta vừa phát huy được các yếu tố nội lực, vừa tận dụng
được các yếu tố bên ngoài để phát triển. KCN bảo đảm cho việc chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực mà vẫn giữ được thế chủ động và độc lập của nền kinh tế
đất nước.

KCN là mô hình kinh tế đã được áp dụng phổ biến trên thế giới. Ở các nước
phát triển châu Âu và Bắc Mỹ, có một thời kỳ các nước này đã đẩy mạnh việc phát
triển các KCN và rất chú trọng vai trị của KCN trong q trình phát triển kinh tế.
Kinh nghiệm phát triển mơ hình KCN ở các nước này cho thấy, phát triển KCN là
một giải pháp tối ưu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển cơng
nghiệp quốc gia. Có thể nói thành cơng của các KCN đã góp phần khơng nhỏ để các
nước này trở thành những nước có nền kinh tế phát triển như hiện nay. Các nước
công nghiệp mới phát triển NICs như Hàn Quốc, Trung Quốc cũng như các nước
đang phát triển ở Đông Nam Á hiện nay đã và đang triển khai việc việc xây dựng và
phát triển các KCN, khu kinh tế và đều gặt hái những thành cơng đáng kể.
Tóm lại, thành cơng của KCN đã được khẳng định trên thế giới và bước đầu
được khẳng định ở Việt Nam, như một đòn bẩy quan trọng để đẩy nhanh tiến trình


CNH-HĐH đất nước. KCN là nơi tập trung các nguồn lực để phát triển kinh tế, là
nơi diễn ra sự phân cơng lao động xã hội ở trình độ cao, thực hiện các mối liên kết
kinh tế quốc tế. Phát triển KCN là phù hợp với xu thế kinh tế thế giới, phù hợp với
chủ trương ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phát huy năng lực của mọi thành
phần kinh tế trong và ngoài nước của Đảng và Nhà nước ta.
1.2.2.Vai trò của KCN trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
Kể từ khi KCX Tân Thuận, KCN đầu tiên của nước ta thành lập và phát triển
năm 1991 tại TP. Hồ Chí Minh đến tháng 9/2008 cả nước có 194 KCN được thành
lập với tổng diện tích đất tự nhiên 46.588 ha, trong đó diện tích đất cơng nghiệp có
thể cho thuê đạt 30.239 ha, chiếm 64,95% tổng diện tích đất quy hoạch. Trong đó,
110 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất quy hoạch 26.382 ha và 84
KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng
diện tích đất quy hoạch 20206 ha. Các KCN, KCX phân bố ở 52 tỉnh, thành phố
trên cả nước; tập trung ở 3 vùng kinh tế trọng điểm với tổng diện tích đất quy hoạch
chiếm trên 60% tổng diện tích các KCN cả nước; vùng Đơng Nam Bộ có 75 KCN
(22.352 ha), Đồng bằng sơng Hồng có 42 KCN (10.046 ha); Đồng bằng sơng Cửu

Long có 28 KCN (5.027 ha). Sau gần 20 năm xây dựng và phát triển các KCN đang
từng bước thể hiện rõ vai rị khơng thể thay thế của nó trong tiến trình CNH-HĐH
đất nước. Các KCN đã góp phần đáng kể vào việc hồn thiện hệ thống cơ sỡ hạ
tầng, thúc đẩy sự phát triển của ngành cơng nghiệp nói riêng và của tồn bộ nền
kinh tế nói chung.
1.2.2.1. Huy động một lượng vốn lớn, từ nhiều nguồn để phát triển kinh tế
Thực tiễn nền kinh tế Việt Nam cho thấy nhân tố hàng đầu nếu khơng nói là
quan trọng nhất đối với CNH-HĐH cũng như đối với nền kinh tế là phải có vốn.
Muốn cho sự nghiệp CNH-HĐH được tiến hành với tốc độ nhanh cần phải có cơ
chế, chính sách và biện pháp huy động vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có
hiệu quả nhất. KCN đi liền với với nó là một hệ thống các cơ chế chính sách thu hút
đầu tư tương đối đồng bộ. Trong những năm qua đã huy động được một lượng vốn
rất lớn cho nền kinh tế.


Trước hết là huy động vốn trong nội bộ nền kinh tế: đây là nguồn vốn có tính
chất quyết định, là nhân tố nội lực. Những năm đầu xây dựng KCN, do chưa nhận
thức được tầm quan trọng của KCN trong việc huy động nguồn vốn bên trong,
chúng ta xem nhẹ việc thu hút các DN trong nước đầu tư vào KCN nên số dự án và
tổng vốn đầu tư còn rất hạn chế. Chỉ vài năm gần đây, vai trò của khu vực trong
nước mới được chú trọng, dòng vốn ĐTTN trong KCN tăng đáng kể, số dự án trong
nước gần bằng với khu vực có vốn ĐTNN. Đến tháng 9/2008, các KCN đã thu hút
được 3100 dự án trong nước với tổng số vốn đầu tư 195.000 tỉ đồng. Kết quả này
cho thấy tiềm lực của khu vực kinh tế trong nước và là kết quả của chủ trương phát
huy nội lực để xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai là huy động vốn của khu vực có vốn ĐTNN: Trong điều kiện nền kinh
tế tích lũy nội bộ cịn thấp thì thu hút được nhiều vốn ĐTNN là rất quan trọng. KCN
là một giải pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn của DN có vốn FDI. Thực tế từ khi
xây dựng KCN cho đến nay, số dự án và tổng vốn ĐTNN vào KCN không ngừng
gia tăng và chiếm tỉ trọng tương đối lớn trong tổng vốn FDI đầu tư trên cả nước.

Đến tháng 9/2008 các KCN cả nước nước đã thu hút được trên 3.200 dự án có vốn
ĐTNN với tổng vốn đầu tư gần 31,5 tỷ USD. Có thể nói KCN là nơi chính sách ưu
đãi đối với khu vực có vốn ĐTNN đươc thể hiện rõ nét nhất, các nhà ĐTNN nhìn
chung cảm thấy yên tâm hơn khi đầu tư vào KCN, bởi lẽ trong KCN có một hệ
thống kết cấu hạ tầng hiện đại, một môi trường pháp lý thuận lợi và thơng thống, là
nơi có cơ chế “một cửa, tại chỗ” được thực thi rõ ràng nhất. Đây chính là những lợi
thế chủ yếu để thu hút nhà ĐTNN của KCN.
1.2.2.2. KCN là nơi tiếp nhận cơng nghệ mới, tập trung những ngành nghề
mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH
Có được những đóng góp trên phải kể đến vai trị to lớn của khu vực có vốn
ĐTNN trong KCN. Cùng với dịng vốn của khu vực có vốn ĐTNN đầu tư vào các
dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà ĐTNN còn đưa vào Việt Nam
những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Mặc dù nhiều cơng
nghệ so với trình độ cơng nghệ trên thế giới cịn ở mức trung bình, nhưng cũng


phần nào nâng cao trình độ cơng nghệ hiện có của Việt Nam. Đó là chưa kể tới
những dự án công nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản) đầu tư vào KCN,
như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Matbuchi Motor, Orion Hanel…, các dự án
này đã du nhập vào Việt Nam những công nghệ hiện đại nhất trên thế giới, ở những
lĩnh vực mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính
xác, điện tử…
KCN là nơi tập trung các DN cơng nghiệp và dịch vụ công nghiệp. Về mặt
lượng, đương nhiên KCN góp phần nâng cao tỷ trọng ngành cơng nghiệp trong tổng
GDP của các ngành kinh tế tạo ra trên cả nước, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp
do các DN – KCN tạo ra luôn tăng qua các năm từ 13%năm 2000 lên 26,4% năm
2004, 28% năm 2005 và 32% năm 2008. Nhưng quan trọng hơn, về mặt chất, KCN
đã thu hút được các dự án có hàm lượng vốn lớn, cơng nghệ cao như dầu khí, sản
xuất ơ tơ, xe máy, dụng cụ văn phịng, cơ khí chính xác, vật liệu xây dựng…Mặc dù
số lượng các dự án trong KCN cịn ít (chiếm 5-10% số dự án), nhưng cũng góp

phần phát triển các ngành nghề mới, đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề cơng nghiệp.
Các dự án đầu tư vào KCN chủ yếu tập trung vào các ngành công ngiệp nhẹ như:
dệt may, da giày…và công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên 50% tổng số dự
án), đây là các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao. Các ngành
cơng nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyền thống, đã có từ lâu ở
nước ta, nhưng các dự án trong KCN đã góp phần nâng cấp các ngành này về dây
chuyền cơng nghệ, chất lượng sản phẩm.
Ngồi ra phải kể đến đóng góp của KCN vào nâng cao tỷ trọng các ngành dịch
vụ công nghiệp như dịch vụ tư vấn, thiết kế xây dựng, bảo hiểm, bưu chính viễn
thơng…Đây là những dịch vụ có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế và giá trị
gia tăng khá, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Tóm lại, KCN đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH,
cả về mặt chất và lượng. Mặc dù còn có bất hợp lý trong cơ cấu ngành nghề cơng
nghiệp, tỷ trọng các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp kỹ thuật cao còn thấp
và còn tồn tại những hậu quả do các công nghệ chưa hiện đại du nhập vào Việt Nam


×