Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Ô nhiễm môi trường biển ảnh hưởng của nó đến các hoạt động kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.71 MB, 190 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH


VŨ THỊ BẮC


Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN ANH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG
KINH TẾ - XÃ HỘI TP.HCM


LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ



MÃ SỐ:603195



NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
PGS.TS. ĐẶNG VĂN PHAN













TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
THƯ
VIỆN

Lời cảm ơn

Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, sự giúp đỡ rất tận
tình từ phía các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè. Qua đây, tác giả xin được gửi lời cảm ơn
chân thành đến:

PGS.TS Đặng Văn Phan người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình
tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tác giả xin gửi lời tri ân chân thành nhất đến
Thầy.

Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ & Sau đại học, Khoa Đòa lý trường Đại
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã giúp tác giả trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.

ThS Nguyễn Minh Hiếu – Biên tập viên NXB Giáo dục – người đã tạo điều kiện giúp
đỡ tác giả trong quá trình thực hiện đề tài.

Viện Môi Trường và Tài nguyên – ĐHQG TP.HCM, Viện nghiên cứu và phát triển
TP.HCM, Cục Thống kê TP.HCM đã giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu
và thông tin có liên quan đến nội dung nghiên cứu.

Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả
trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!

Tp. Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm 2010
Tác giả luận văn



Vũ Thò Bắc

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BOD Nhu cầu oxy sinh hóa
BĐKH Biến đổi khí hậu
BVMT Bảo vệ môi trường
CN Công nghiệp
COD Nhu cầu oxy hóa học
CTNH Chất thải nguy hại
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐNB Đông Nam bộ
DN Doanh nghiệp
KCN Khu công nghiệp
KCN-KCX Khu công nghiệp – khu chế xuất
KDTSQTG Khu dự trữ sinh quyển thế giới
KHCN & MT Khoa học Công Nghệ và Môi Trường
NN Nông nghiệp
ÔND Ô nhiễm dầu
ÔNMT Ô nhiễm môi trường
RNMCG Rừng ngập mặn Cần Giờ
TN&MT Tài nguyên và môi trường
TP Thành phố
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TSS Tổng lượng chất rắn lơ lửng
TTCN Trung tâm công nghiệp

TX Thị xã
VKTTĐPN Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
XH Xã hội
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ cho phép con người mở
rộng khả năng khai thác tài nguyên, vượt qua các giới hạn bình thường của không gian như độ cao,
chiều sâu... Cùng với sức ép của sự bùng nổ dân số ở nhiều nước, vấn đề cạn kiệt tài nguyên cũng
bắt đầu song hành với nỗi lo ấy. Tài nguyên trên đất liền cạn kiệt, con người bắt đầu hướng đến tài
nguyên trên biển. Hướng ra biển, tiến ra biển trở thành một hướng phát triển mới của loài người,
một chiến lược lâu dài của nhiều nước trên thế giới.
Là một quốc gia ven biển, nằm bên bờ Biển Đông, Việt Nam có đường bờ biển dài 3260 km
từ Móng Cái đến Hà Tiên; có vùng biển và thềm lục địa rộng 1 triệu km
2
, gấp hơn 3 lần lãnh thổ
trên đất liền; với nhiều tài nguyên, khoáng sản quan trọng. Những lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện
tự nhiên và tiềm năng kinh tế của vùng biển nước ta đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với sự đóng góp của các ngành kinh tế biển vào quá trình CNH-HĐH đất nước đã đánh dấu
một bước phát triển mới của Việt Nam trong công cuộc “tiến ra biển”. Tuy nhiên, đi đôi với sự phát
triển về kinh tế biển, ô nhiễm môi trường biển cũng đang trở thành một vấn đề cấp bách trong giai
đoạn hiện nay. Các vụ tràn dầu, rò rỉ các chất độc hại của tàu thuyền quốc tế, các rừng ngập mặn bị
tàn phá; nước thải công nghiệp không qua xử lý đổ trực tiếp xuống sông, suối chảy ra biển; thiên tai
làm xói mòn bờ biển đã gây thiệt hại không nhỏ đến môi trường biển của Việt Nam.
Tp. Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật quan
trọng của cả nước. Bên cạnh sự phát triển vượt bậc về kinh tế, Tp. Hồ Chí Minh cũng gặp phải
những thách thức về vấn đề môi trường, trong đó vấn đề ô nhiễm môi trường biển cũng được TP hết
sức quan tâm. Những thách thức về vấn đề môi trường biển hiện nay tại Tp. Hồ Chí Minh nói riêng
và cả nước nói chung đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận, hiểu rõ các nguyên nhân, các nguồn gây ô
nhiễm môi trường biển, đánh giá những tác động của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động

kinh tế - xã hội nhằm giảm thiểu những tác động đó để bảo đảm sự phát triển bền vững cho môi
trường biển nước ta hiện nay. Đó cũng chính là lý do mà tôi chọn đề tài “Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG BIỂN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ - XÃ HỘI
TP.HỒ CHÍ MINH”.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích của đề tài
Mục đích của đề tài là tìm hiểu thực trạng của ô nhiễm môi trường biển, ảnh hưởng của nó
đến các hoạt động kinh tế - xã hội của thành phố, cũng như đề xuất các giải pháp cho vấn đề này. Từ
đó hướng đến sự phát triển bền vững môi trường biển tại Tp. Hồ Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
Các nhiệm vụ cần thực hiện :
- Tìm hiểu cơ sở lí luận vấn đề môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển và các nguồn gây ô
nhiễm môi trường biển hiện nay.
- Tìm hiểu thực trạng ô nhiễm môi trường biển tại Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh
nói riêng.
- Đánh giá những ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động kinh tế - xã hội
Tp. Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 1997 - 2009.
- Tìm hiểu chiến lược biển của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng để đưa ra các giải
pháp cho vấn đề ô nhiễm môi trường biển tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là ô nhiễm môi trường biển tại Tp. Hồ Chí Minh và
những ảnh hưởng của nó đến các hoạt động kinh tế - xã hội trong thời gian vừa qua (1997 - 2009).
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn cho phép, đề tài chỉ nghiên cứu những ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường
biển đến các hoạt động kinh tế - xã hội của Tp. Hồ Chí Minh (xét từ góc độ Địa lí Kinh tế - xã hội)
trong giai đoạn 1997 – 2009 đặt trong mối quan hệ với vùng ĐNB và vùng KTTĐ phía Nam, cũng
như đề xuất các giải pháp phát triển bền vững cho môi trường biển trong giai đoạn tới.
Do phạm vi ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động kinh tế - xã hội của
thành phố diễn ra ở nhiều khía cạnh nên đề tài chỉ phân tích một vài khía cạnh nổi bật nhất như công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ …và trong phạm vi không gian là các quận có hoạt động liên quan đến

môi trường biển như Nhà Bè, Cần Giờ…
5. Quan điểm nghiên cứu
5.1. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Trong bối cảnh các nguồn tài nguyên trên đất liền ngày càng cạn kiệt, thì những tài nguyên
trên biển được nhiều nước hướng đến. Vấn đề khai thác tài nguyên trên biển, “hướng ra biển” của
nhiều nước đã làm cho ô nhiễm môi trường biển trở thành một trong nhưng vấn đề đang được quan
tâm trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai. Vì vậy trên quan điểm lịch sử - viễn cảnh, chúng
ta sẽ đánh giá khách quan về vấn đề này trong quá khứ cũng như đưa ra nhưng dự báo trong tương
lai. Từ đó, chúng ta sẽ có những nhận định đúng đắn cho vấn đề này để có thể phát huy được các ưu
thế của đề tài, đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót của nó.
5.2. Quan điểm hệ thống
Ô nhiễm biển không chỉ bao gồm các hoạt động ô nhiễm xảy ra trên biển mà còn bao gồm
các hoạt động có nguồn từ đất liền. Vì thế ô nhiễm môi trường biển tại Tp. Hồ Chí Minh có liên
quan mật thiết đến các hoạt động ô nhiễm tại hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai. Sông Đồng Nai là
một trong những con sông lớn của Việt Nam. Lưu vực sông Đồng Nai nằm phần lớn trong các tỉnh
thuộc vùng Đông Nam Bộ. Vì vậy khi nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường biển tại Tp. Hồ Chí
Minh cần liên hệ với những vấn đề môi trường tại lưu vực của hai con sông này.
Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường biển không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn rất nhiều nước
trong khu vực Biển Đông và trên thế giới, chính vì vậy trên cơ sở hệ thống của khu vực, vùng giúp
chúng ta có cái nhìn đúng đắn về vấn đề này hiện nay. Từ đó học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên
tiến, phát huy những thế mạnh của chúng ta để khắc phục triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường biển
cũng như hạn chế đến mức thấp nhất tác hại của nó đến kinh tế - xã hội và môi trường.
5.3. Quan điểm phát triển bền vững
Khi nghiên cứu vấn đề môi trường đặc biệt là ô nhiễm môi trường biển cần phải dựa trên quan
điểm sinh thái và phát triển bền vững. Phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM phải đi đôi với sử
dụng hợp lí, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống gây ô nhiễm môi trường; kết hợp hài
hoà giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
con người.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1.

Phương pháp định lượng
6.1.1. Phương pháp sưu tầm và thống kê số liệu
Để đề tài được hoàn thành, việc sưu tầm các tài liệu liên quan có ý nghĩa quan trọng, những tài
liệu nghiên cứu, những thông tin dựa vào các nguồn như sách, tạp chí, báo chuyên ngành, các
website chuyên ngành về môi trường và ô nhiễm môi trường biển giúp cho việc phân tích được cặn
kẽ hơn. Sau khi sưu tầm các tài liệu tham khảo, người nghiên cứu phải chắt lọc các thông tin cần
thiết, thống kê các số liệu theo thời gian cho phù hợp với đề tài đã chọn. Phương pháp sưu tầm và
thống kê số liệu cho phép người nghiên cứu có cái nhìn khách quan nhất về vấn đề ô nhiễm môi
trường biển hiện nay tại Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên nguồn tài liệu
lấy từ nhiều kênh thông tin khác nhau nên không thể tránh khỏi những thiếu sót.
6.1.2. Phương pháp phân tích và xử lí số liệu
Phương pháp này giúp phân tích các số liệu liên quan đến đề tài. Từ các số liệu thống kê đã
có, thông qua chương trình Microsoft Office Excel, người nghiên cứu có thể đưa ra những nhận
định, đánh giá chính xác về vấn đề ô nhiễm môi trường biển hiện nay tại Tp. Hồ Chí Minh.
6.1.3. Phương pháp thực địa
Việc nghiên cứu một vấn đề không thể thiếu sự tìm hiểu từ thực tế. Thông qua hoạt động quan
sát, tìm hiểu từ thực tế của vấn đề ô nhiễm môi trường biển hiện nay tại Tp. Hồ Chí Minh, người
nghiên cứu sẽ đưa ra được những minh chứng tốt nhất cho vấn đề trên. Từ đó, đánh giá được đúng
thực trạng của vấn đề ô nhiễm môi trường biển hiện nay và những tác động của nó tại Tp. Hồ Chí
Minh.
6.1.4. Phương pháp bản đồ - biểu đồ
Thông qua việc sử dụng các bản đồ - biểu đồ liên quan đến vấn đề ô nhiễm biển tại Tp. Hồ Chí
Minh, người nghiên cứu có được cái nhìn trực quan, sinh động về vấn đề. Từ đó đưa ra những nhận
định chính xác về ô nhiễm môi trường biển hiện nay.
Các bản đồ trong đề tài được thành lập bằng phần mềm Mapinfo 7.0, dựa trên cơ sở các dữ liệu
đã thu thập và xử lý. Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số
liệu và biểu đồ.
6.2. Phương pháp định tính
6.2.1. Phương pháp chuyên gia
Dựa trên những quan điểm, những bài báo, những tác phẩm, những công trình nghiên cứu của

các chuyên gia trong ngành, người nghiên cứu tìm hiểu, phân tích vấn đề ô nhiễm môi trường biển,
tác động của ô nhiễm đến các hoạt động kinh tế - xã hội để tìm ra những ưu và khuyết của vấn đề.
Bên cạnh đó, dựa trên các quan điểm đã nêu (trong phần 5) để đưa ra những nhận định chính xác về
vấn đề ô nhiễm môi trường biển và tác động của nó đến kinh tế - xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh hiện
nay.
6.2.2. Phương pháp dự báo

Sau khi đã có những nhận định cũng như các số liệu thống kê cần thiết về vấn đề ô nhiễm môi
trường biển hiện nay tại Tp. Hồ Chí Minh, việc dự báo về vấn đề ô nhiễm biển trong tương lai là hết
sức cần thiết. Dựa trên các công thức dự báo sẵn có, thông qua một số phép tính, người nghiên cứu
đưa ra những phân tích, đánh giá về tác động của ô nhiễm biển đến các hoạt động kinh tế - xã hội
trong tương lai của Tp. Hồ Chí Minh. Từ đó, đưa ra những giải pháp cho vấn đề này trong thời gian
sắp tới.

7. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ô nhiễm môi trường là một trong những vấn đề đang được quan tâm hàng đầu hiện nay. Tình
trạng ô nhiễm xảy ra ở khắp mọi nơi cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội của các nước, đặc biệt
là ở các nước đang phát triển tình trạng này càng đáng báo động. Việt Nam cũng không là một
trường hợp ngoại lệ. Với 3260 km đường bờ biển, với nhiều bãi cát đẹp thích hợp cho du lịch, cùng
nhiều tài nguyên khoáng sản quan trọng đã nói lên vai trò của biển đối với Việt Nam. Tuy nhiên,
vấn đề khai thác tài nguyên biển cũng phải đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường biển. Ô nhiễm biển
hiện nay tại Việt Nam cũng đang trong tình trạng báo động. Có nhiều đề tài nghiên cứu đã đề cập
đến vấn đề này như:
Trong cuốn sách “Bảo vệ môi trường biển – vấn đề và giải pháp” của TS Nguyễn Hồng
Thao, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004, có đề cập đến vấn đề ô nhiễm môi trường biển, các
nguyên nhân gây ô nhiễm, các điều ước quốc tế và khu vực Đông Nam Á về vấn đề ô nhiễm môi
trường biển. Tác giả cũng phân tích rất kĩ về hiện trạng tài nguyên, vấn đề ô nhiễm biển cũng như
các chiến lược, hoạt động liên quan đến vấn đề này tại Việt Nam. Tuy nhiên cuốn sách cũng chưa
đề cập đến vấn đề tác động của ô nhiễm môi trường biển đến các vấn đề kinh tế - xã hội của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.

Đề cập đến chiến luợc biển của Việt Nam, cũng như các công ước quốc tế về biển mà Việt
Nam đang thực hiện, cuốn sách “Công ước biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam” cũng do
TS Nguyễn Hồng Thao (chủ biên) cùng nhóm tác giả PGS.TS Đỗ Minh Thái, TS Nguyễn Thị Như
Mai, ThS. Nguyễn Thị Hường, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2008, đã nêu đầy đủ và chi tiết về
Công ước biển 1982. Trong đó, có một phần đề cập đến vấn đề ô nhiễm môi trường biển là “Thực
hiện công ước 1982 trong lĩnh vực bảo vệ và gìn giữ môi trường biển”. Tuy nhiên cuốn sách cũng
chỉ đánh giá các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển và các biện pháp bảo vệ môi trường biển chứ
chưa phân tích về tác động ngược lại của ô nhiễm biển đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
Nhằm nghiên cứu đề xuất phương pháp đánh giá tác động của ô nhiễm dầu tới hệ sinh thái và
lượng giá thiệt hại kinh tế do ô nhiễm dầu gây ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức một buổi
Hội thảo với chủ đề “Đánh giá tác động ô nhiễm dầu đến hệ sinh thái biển và ven biển và lượng
giá thiệt hại kinh tế” vào ngày 14/06/2007 tại Hà Nội. Hội thảo đã đánh giá được tác động của ô
nhiễm môi trường biển đến các hệ sinh thái tiêu biểu như rừng ngập mặn, cỏ biển, rạn san hô…Tuy
nhiên việc đánh giá vẫn chỉ mang tính đại diện chưa đi vào nghiên cứu cụ thể và chưa đánh giá
được những tác động khác đến đời sống con người như về sức khỏe, tinh thần...
Trong báo cáo tổng kết khoa học và công nghệ về đề tài “Cơ sở khoa học cho việc phát triển
kinh tế - xã hội dải ven biển Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển cho một số khu vực trọng
điểm” nhóm tác giả PGS.TS Ngô Doãn Vịnh, TS Trương Văn Tuyên, Hà Nội, 2004, đã trình bày
một cách cặn kẽ về vai trò của biển và ven biển trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội của dải ven biển trong giai đoạn hiện nay. Đề tài
đã đưa ra được cái nhìn toàn diện về quy mô phát triển cũng như mô hình phát triển cho một số khu
vực trọng điểm như khu vực đô thị cảng Hải Phòng, mô hình phát triển kinh tế - xã hội xã Phú Đa,
tỉnh Thừa Thiên Huế…
Bên cạnh đó, cũng còn một số đề tài nghiên cứu khác về vai trò chiến lược của biển và dải ven
biển Việt Nam như đề tài “Vai trò chiến lược của biển và dải ven biển Việt Nam đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của TS Trương Văn Tuyên - Viện chiến lược
phát triển; hay đề tài “Luận chứng phương án phát triển tuyến động lực ven biển Vũng Tàu – Cần
Giờ - Tp. Hồ Chí Minh” của Th.S Trần Sinh - Trung tâm Kinh tế miền Nam, Bộ KH&ĐT; đề tài “
Nghiên cứu hiện trạng và các giải pháp bảo vệ môi trường vùng ven biển Việt Nam” của TS. Lê
Kim Dung, Viện chiến lược phát triển…

Một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển là các nguồn nước thải từ các
KCN – KCX đổ trực tiếp ra sông, suối, kênh, rạch và tiếp tục đổ ra biển. Nghiên cứu về vấn đề ô
nhiễm các hệ thống sông hiện nay, tiêu biểu có các đề tài như “Quản lý tổng hợp và thống nhất
tài nguyên môi trường lưu vực sông Đồng Nai – một vấn đề cấp bách” của GS.TS Lâm Minh
Triết, KS. Nguyễn Thanh Hùng, Viện Môi trường và Tài nguyên, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí
Minh; hay đề tài “Tầm quan trọng của sông Sài Gòn trong sự phát triển bền vững” cũng của
GS.TS Lâm Minh Triết, người có rất nhiều năm nghiên cứu say mê về đề tài bảo vệ môi trường
nước cho TP.HCM nói chung và sông Sài Gòn nói riêng. Chưa bao giờ sông Sài Gòn được quan
tâm nhiều như hiện nay bởi những diễn biến ngày càng xấu về chất lượng nước của dòng sông đe
dọa nghiêm trọng đến đời sống xã hội và trước hết đe dọa trực tiếp về nhu cầu cấp nước cho thành
phố và đe dọa nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của TP.HCM, tỉnh Tây Ninh
và Bình Dương trên lưu vực sông Sài Gòn.
Nói đến chiến lược biển, kinh tế biển, phải nhắc đến Đề án Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020 và Nghị quyết về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020” của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, phải phấn đấu để
nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia
trên biển, góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế
- xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu
hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải
gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối với sự phát triển của cả nước. Từ
đó, có thể thấy trong văn bản này Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến vấn đề “hướng ra
biển” của Việt Nam.
Như vậy, cho đến nay, đã có rất nhiều đề tài viết về vấn đề ô nhiễm môi trường biển, các hoạt
động kinh tế biển tại Việt Nam cũng như ảnh hưởng của hoạt động kinh tế biển đến kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, chưa có một đề tài cụ thể nào đề cập đến ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển đến
các hoạt động kinh tế - xã hội của Tp. Hồ Chí Minh hiện nay. Trên cơ sở các tài liệu thu thập được,
tham khảo ý kiến thầy hướng dẫn, cũng như kiểm nghiệm từ thực tế, tôi đã bắt tay vào việc thực
hiện đề tài này. Tôi hy vọng đề tài của mình sẽ giúp cho mọi người tiếp cận với vấn đề ô nhiễm môi
trường biển một cách dễ dàng hơn và có cái nhìn trực quan hơn về tác động của kinh tế đến môi
trường biển cũng như những ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động kinh tế - xã

hội của Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.
8. Đóng góp của đề tài :
- Tìm hiểu có chọn lọc một số vấn đề lí luận về môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển và
các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển hiện nay.
- Tìm hiểu thực trạng ô nhiễm môi trường biển tại Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh
nói riêng. Trình bày các nguồn gây ô nhiễm chủ yếu của môi trường biển tại TP.HCM.
- Phân tích những ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường biển đến các hoạt động kinh tế - xã hội
Tp. Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 1997 - 2009.
- Tìm hiểu chiến lược biển của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng để đưa ra các giải
pháp cho vấn đề ô nhiễm môi trường biển tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.
9. Cấu trúc đề tài :
Đề tài gồm 3 phần
 Mở đầu
 Nội dung : gồm 3 chương
 Chương 1: Một số vấn đề chung về ô nhiễm môi trường biển
 Chương 2: Ô nhiễm môi trường biển và ảnh hưởng của nó đến các
hoạt động kinh tế - xã hội của Tp.HCM
 Chương 3: Giải pháp khắc phục vấn đề ô nhiễm môi trường biển
tại TP.HCM hiện nay
 Kết luận
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG BIỂN


1.1. Định nghĩa một số thuật ngữ liên quan
1.1.1. Khái niệm về môi trường
Điều 1 Luật bảo vệ Môi trường của Việt Nam năm 1995 quy định: “Môi trường bao gồm các
yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người,
có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.
Điều 2 Luật bảo vệ Môi trường của Việt Nam năm 1995 quy định: “Thành phần môi trường

bao gồm các yếu tố : không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật,
các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác”.
Theo GS.TSKH Lê Huy Bá thì “Môi trường (Environment) là tập hợp các thành phần vật chất
vô cơ, sinh vật và con người cùng tồn tại và phát triển trong một không gian và thời gian nhất định.
Giữa chúng có sự tương tác với nhau theo nhiều chiều, mà tổng hòa các mối tương tác đó sẽ quyết
định lên chiều hướng phát triển của toàn bộ hệ thống Môi trường”.[1]
Tùy theo mục đích mà người ta phân loại môi trường thành nhiều kiểu khác nhau. Ta có:
- Theo các tác nhân thì có môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo.
- Theo sự sống thì có môi trường vật lý, môi trường sinh học.
- Lấy sinh vật hoặc con người làm đối tượng nghiên cứu thì chia ra môi trường bên trong và
môi trường bên ngoài.
- Phân loại theo môi trường thành phần (đất, nước, không khí…) hay môi trường tài nguyên.
- Ngoài ra còn có các kiểu phân chia môi trường theo các yếu tố kinh tế - xã hội như môi
trường xã hội nhân văn, môi trường đô thị, nông thôn, nông nghiệp, giao thông…
1.1.2. Khái niệm về môi trường biển
Về phương diện địa lý, môi trường biển là toàn bộ vùng nước biển của Trái đất với tất cả
những gì có trong đó. Môi trường biển của một quốc gia có thể được hiểu là một vùng của biển, đại
dương trải rộng từ bờ biển và các hải đảo cho tới ranh giới trên biển được thỏa thuận hoặc tới giới
hạn 200 hải lý của vùng đặc quyền kinh tế hoặc tới ranh giới ngoài cùng của thềm lục địa của quốc
gia đó.
Về phương diện môi trường thì định nghĩa môi trường biển lại rộng hơn nhiều. Căn cứ vào
điều 1, khoản 4 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, môi trường biển được hiểu
bao gồm các tài nguyên sinh vật, các hệ sinh thái biển và chất lượng nước biển, cảnh quan biển.[36]
Định nghĩa môi trường biển ngày càng được hoàn thiện, phù hợp với nhận thức của con
người. Chương 17 trong Chương trình Hành động 21 (Báo cáo của Liên Hiệp Quốc về vấn đề môi
trường và phát triển, Rio de Janeiro, 1992) định nghĩa: “Môi trường biển là vùng bao gồm các đại
dương, các biển và các vùng ven biển tạo thành một tổng thể, một thành phần cơ bản của hệ thống
duy trì cuộc sống toàn cầu và là tài sản hữu ích tạo cơ hội cho sự phát triển bền vững”. Định nghĩa
này nhấn mạnh tới mối liên kết giữa môi trường, con người và sự phát triển. Môi trường biển ở đây

được hiểu là môi trường tự nhiên của biển chịu sự tác động của con người trong quá trình phát
triển.[36]
1.1.3. Khái niệm về ô nhiễm môi trường biển
Năm 1981, Nhóm chuyên gia về các khía cạnh khoa học của ô nhiễm biển (Joint Group of
Expert on the Scientific Aspects of Marine Pollution – GESAMP) đưa ra định nghĩa đầu tiên về ô
nhiễm môi trường biển (Marine pollution) là “Việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất
liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển (bao gồm cả các cửa sông), gây ra những tác hại như gây
tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt
động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương diện sử dụng
nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển”
Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982, điều 1, khoản 4 đã đưa ra một định
nghĩa có phần mở rộng hơn: “Ô nhiễm môi trường biển là việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp
đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm các cửa sông, khi đó việc gây ra
hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật và đến hệ động vật và hệ
thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả
việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng
nước biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển”[37]
1.1.4. Khái niệm về các hoạt động kinh tế - xã hội
 Theo từ điển Bách khoa toàn thư thì khái niệm kinh tế là :
 Tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một nước, liên quan đến toàn bộ quá trình
hay một phần của tổng quá trình bao gồm các quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa, phân phối và
tiêu dùng các sản phẩm xã hội.
 Tổng thể những mối quan hệ trong quá trình sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định, trong tổ chức và hoạt động của cơ cấu hạ tầng của xã hội, bao gồm các ngành kinh tế - kĩ
thuật, các loại hình sản xuất tương ứng.
 Khái niệm xã hội
 Theo nghĩa hẹp, là khái niệm chỉ một loại hệ thống XH cụ thể trong lịch sử, một hình thức nhất
định của những quan hệ XH, là một XH ở vào một trình độ phát triển lịch sử nhất định, là một kiểu
loại XH nhất định đã hình thành trong lịch sử. Ví dụ: XH nô lệ, XH phong kiến, XH tư bản... Trong
trường hợp này, XH trùng hợp với hình thái kinh tế xã hội (Hình thái kinh tế - xã hội).

 Theo nghĩa rộng, là toàn bộ các hình thức hoạt động chung của con người, đã hình thành trong
lịch sử. Người ta thường dùng khái niệm XH để chỉ một tập đoàn người được quan niệm như một
hiện thực của các thành viên của nó, hoặc là để chỉ một môi trường của con người mà cá nhân được
hoà nhập vào, môi trường đó được xem như là toàn bộ các lực lượng có tổ chức và có hệ thống tôn
ti trật tự tác động lên cá nhân. Khái niệm XH là khái niệm đối lập với khái niệm cá nhân, cũng như
khái niệm sống trong XH là đối lập với khái niệm sống đơn độc.
 Khái niệm các hoạt động kinh tế - xã hội
 Khái niệm nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa : là nền kinh tế mà đặc trưng là dựa trên cơ sở lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu của nhân dân lao động về các tư liệu sản xuất chủ yếu,
dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân (do nhà nước là người đại diện pháp lí, gọi là sở hữu nhà nước)
và sở hữu tập thể của những người lao động. Xét về nguyên lí và bản chất, nền kinh tế - xã hội chủ
nghĩa không có người bóc lột người, nhân dân lao động và các dân tộc được thoát khỏi áp bức, bóc
lột và bất công xã hội, được tự do, bình đẳng và tự nguyện liên kết, hợp tác với nhau trong sản xuất,
và trong phân phối hưởng thụ theo lao động, có cuộc sống ấm no và hạnh phúc, có điều kiện phát
triển cá nhân toàn diện trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
 Như vậy có thể thấy các hoạt động kinh tế - xã hội là tổng thể các hoạt động của một cộng
đồng người, một nước, liên quan đến các vấn đề về kinh tế, xã hội trong nền kinh tế - xã hội chủ
nghĩa.
1.1.5. Khái niệm về kinh tế biển
Theo Tạp chí “Kinh tế và Dự báo số 7/2007” thì khi xem xét tới kinh tế biển, cũng cần đề
cập đến kinh tế vùng ven biển ở một mức độ cần thiết. Như vậy, quan niệm kinh tế biển bao gồm:
 Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: 1. Kinh tế Hàng hải (Vận tải
biển và Dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3. Khai thác Dầu khí ngoài
khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối; 6. Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; và 7. Kinh tế đảo. Có thể
coi đây là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa hẹp.
 Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải diễn ra trên biển
nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động
kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: 1. Đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng
được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải); 2. Công nghiệp chế biến dầu, khí; 3. Công nghiệp
chế biến thuỷ, hải sản; 4. Cung cấp dịch vụ biển; 5. Thông tin liên lạc (biển); 6. Nghiên cứu khoa

học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên
- môi trường biển. Có thể coi cách hiểu kinh tế biển bao gồm cả các hoạt động kinh tế diễn ra trên
biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dải đất liền ven biển là quan
niệm về kinh tế biển theo nghĩa rộng.
1.2. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển
Theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, ô nhiễm môi trường biển bao
gồm 6 nguồn chính sau:
Bảng 1.1. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển theo Công ước của Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển năm 1982
STT Các nguồn gây ô nhiễm
1. Ô nhiễm bắt nguồn từ đất liền kể cả các ô nhiễm xuất phát từ các dòng sông,
cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải của công nghiệp.
2. Ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán của
quốc gia ven biển, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các công trình thiết bị
thuộc quyền tài phán của họ.
3. Ô nhiễm do các hoạt động tự nhiên và nhân tạo trong vùng (tức vùng đáy biển
di sản chung của loài người) lan truyền tới.
4. Ô nhiễm do sự nhận chìm và trút bỏ chất thải.
5. Ô nhiễm do hoạt động của các loại tàu thuyền và tai nạn tàu thuyền trên biển.
6. Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển.
Nguồn: TS Nguyễn Hồng Thao, 2004
- Theo bản báo cáo đánh giá về hiện trạng môi trường biển của nhóm GESAMP năm 1990, tỷ
lệ các hoạt động của con người gây ô nhiễm môi trường biển như sau: Các hoạt động dầu khí ngoài
khơi: 1%, giao thông biển: 12%, nhận chìm: 10%, phù sa và ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền: 44%,
ô nhiễm từ khí quyển: 33%
- Cách phân loại này khác với cách phân loại cổ điển căn cứ vào tiêu chuẩn lý hóa của chất
gây ô nhiễm. Xác định nguồn gây ô nhiễm gắn liền với các lĩnh vực, khu vực hoạt động của con
người trong một tổng thể, thể hiện sự cần thiết quản lý tổng hợp đấu tranh chống ô nhiễm và bảo vệ
môi trường biển
Bảng 1.2. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển

(phân loại theo tiêu chuẩn lý hóa của các chất gây ô nhiễm)
STT Nguồn hoặc các hoạt động gây ô
nhiễm biển
Các tác động liên quan
1. Khí CO
2
Thay đổi khí hậu, làm thay đổi nhiệt độ,
thay đổi mực nước biển.
2. Các kim loại nặng Tác động độc hại tiềm tàng
3. Vi sinh vật Tác hại tới sức khỏe cộng đồng
4. Đổ chất thải phóng xạ Tác hại tới sức khỏe cộng đồng
5. Các hóa chất mới Độc hại cho con người và sinh vật
6. Sản xuất năng lượng Thay đổi hoặc làm xáo trộn môi trường
sống
7. Khai khoáng Làm tăng độ đục, xáo trộn đáy biển.
Nguồn: Đỗ Đức Dương và nhiều người khác: Môi trường biển và quản lý vùng ven biển Việt
Nam, trung tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia (INFOTERRA),1998.











1.2.1. Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền
Các hoạt động của con người được thực hiện phần lớn trên đất liền nhưng biển cả mới là bãi

rác khổng lồ mà con người đã quen trút bỏ. Năm 1972, vấn đề ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền
được đưa vào chương trình hành động của Hội nghị về Môi trường – Con người ở Xtốckhôm.
Nhưng chỉ khi Công ước 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển xác định ô nhiễm có nguồn gốc từ
đất liền là nguồn ô nhiễm biển lớn nhất thì nhận thức của nhân loại mới thay đổi đáng kể và đã có
ngày càng nhiều các văn kiện chính thức của quốc tế cũng như các quốc gia xem xét khả năng hợp
tác để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự hình thức ô nhiễm này.
Theo Công ước 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, điều 207, ô nhiễm môi trường biển
có nguồn gốc từ đất liền bao gồm cả các ô nhiễm xuất phát từ các sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và
thiết bị thải đổ. Công ước có một điều khoản riêng qui định về ô nhiễm môi trường biển do các hoạt
động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra hay xuất phát từ các đảo nhân tạo,
các công trình thiết bị thuộc quyền tài phán quốc gia (Điều 208).
1
12
10
44
33
Ô nhiễm do hoạt động dầu khí ngoài khơi
Ô nhiễm do hoạt động giao thông biển
Ô nhiễm do nhận chìm
Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền (rác thải, phù sa)
Ô nhiễm từ khí quyển
Biểu đồ 1.1: Tỉ lệ phần trăm các nguồn gây ô nhiễm
Theo Chương trình hành động 21 của Hội nghị Rio de Janeiro về Môi trường và Phát triển
nhận xét: “Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền chiếm 70% ô nhiễm biển, trong khi các hoạt động giao
thông vận tải biển và nhận chìm ở biển đóng góp 10% từng loại.”
Do định nghĩa về đất liền khác nhau nên cách tính ô nhiểm biển có nguồn gốc từ đất liền
cũng rất khác nhau. Theo báo cáo của GESAMP 1990 thì ô nhiễm biển xuất phát từ đất liền chiếm
44%. Mặc dù các con số chưa thống nhất nhưng không ai phủ nhận ô nhiễm có nguồn gốc từ đất
liền đóng góp phần lớn trong các tác nhân gây ô nhiễm cho môi trường biển.
Việc xác định các nguồn gây ô nhiễm trên đất liền cũng không phải đơn giản. Nguồn ô nhiễm

có nguồn gốc từ đất liền rất đa dạng, xuất phát từ rất nhiều hoạt động khác nhau. Vì vậy, nguồn gây
ô nhiễm có thể chia làm hai loại : nguồn xác định và nguồn không xác định. Nguồn xác định là
nguồn mà vị trí đổ thải vào môi trường biển được xác định chính xác và có thể phân loại các chất ô
nhiễm theo kim loại, chất hữu cơ, chất nguy hại…Các nhà máy xử lý chất thải thành thị chiếm đến
25% tổng các nguồn xác định đổ vào các vùng nước ven bờ. Các nguồn không xác định là các
nguồn phân tán, xâm nhập vào môi trường biển bằng các con đường gián tiếp như thông qua khí
quyển, theo nước mưa chảy vào sông ra biển. Các chất này có thể là thuốc trừ sâu, muối, dầu, các
chất nhiễm bẩn từ đường sá, cầu cống, các chất thải từ gia súc…các nguồn không xác định này có
thể chia thành 4 loại liên quan đến thành thị, nông thôn, công nghiệp và xây dựng phát triển.
1.2.2. Ô nhiễm từ các hoạt động liên quan đến đáy biển
Các hoạt động liên quan đến đáy biển có thể bao gồm:
 Các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí;
 Các hoạt động thăm dò và khai thác khoáng sản, quặng đa kim;
 Các hoạt động khoan, đào, nổ nhằm mục đích xây dựng đường hầm, đặt cáp, ống
dẫn…
Khai thác dầu khí ngoài biển được bắt đầu vào năm 1923, ngoài khơi Vênêxuêla. Từ đó đến
nay việc thăm dò và khai thác dầu khí đã phát triển mạnh mẽ, không chỉ giới hạn ở các vùng biển
gần bờ mà đã ra đến cả các vùng sâu hàng nghìn mét. Các cuộc khảo sát địa chấn, các chất thải,
dung dịch khoan, tàu thuyền qua lại, việc lắp đặt các công trình thiết bị, giàn khoan, cũng như việc
đổ thải và rò rỉ hoặc các sự cố trong quá trình thăm dò, khai thác dầu khí như các vụ nổ giàn hoặc
đâm và, tràn dầu khi tàu thuyền neo đậu tại giàn đều có ảnh hưởng đến chất lượng môi trường biển.
Các đánh giá ban đầu cho thấy hàng năm có khoảng 0,08 triệu tấn dầu được đưa vào môi
trường biển từ hoạt động khai thác ngoài khơi trong đó có 0,06 triệu tấn là do các sự cố (theo
Lucchini & Voelckel, Paris, 1981). Theo nghiên cứu các hoạt động khoan đưa tới 98-99% các chất
không phải dầu vào môi trường biển. Ngoài ra nguồn gây ô nhiễm còn là nước thải sinh hoạt của
con người cũng như các loại vật liệu dạng bột dùng trong sản xuất (ximăng, barit, betonit…). Qua
thực nghiệm cho thấy với nồng độ dung dịch khoan vào khoảng 0,5-1,0 g/l, nước biển đã có tác
động xấu đối với cá con. Với nồng độ từ 5-7g/l thì các loài cá con đều chết và các động vật không
xương sống sẽ bị hủy diệt.[36]
Các công trình, thiết bị thăm dò và khai thác ngoài khơi còn là các vật cản trở giao thông và

thường được nối với các đường ống dễ bị đứt gãy, sẽ làm tăng khả năng tác động xấu đến sinh vật
biển. Ngoài ra các hoạt động khoan, đào, nổ việc đặt dây cáp và ống dẫn ngầm cũng gây ảnh hưởng
ô nhiễm đến môi trường biển.
1.2.3. Ô nhiễm do nhận chìm các chất nguy hại và các chất khác
Các hóa chất và các chất nguy hại có chứa hóa chất thường tác động lên môi trường căn cứ
vào độ độc hại và thời gian cũng như mức độ tập trung của chúng trong nước biển. Các chất thải
phóng xạ được nhận chìm ngoài khơi có thể tác động xấu đến các sinh vật biển đặc biệt là các sinh
vật biển còn nhỏ đang trong thời kì trưởng thành làm biến đổi gen, đột biến phát triển các gen xấu.
Theo số liệu thống kê, hàng năm Châu Âu thường chuyển 120.000 tấn chất thải nguy hại đến
vùng biển các nước thuộc thế giới thứ ba (Theo Mostafa K.Tolba, Cứu lấy hành tinh của chúng ta –
Cơ hội và thách thức). Việc chuyên chở chất thải nguy hại, phế phẩm công nghiệp, nông nghiệp,
thiết bị máy móc, tàu thuyền đã qua sử dụng, hóa chất…xuyên biên giới cũng đang là mối quan tâm
của nhiều quốc gia.
Theo chương trình hành động 21 của Hội nghị Rio de Janeiro về Môi trường và Phát triển
nhận xét hàng năm có tới 200.000 m
3
các chất thải nồng độ phóng xạ thấp và trung bình và khoảng
100.000 m
3
chất thải có nồng độ phóng xạ cao được sản sinh từ các hoạt động sản xuất năng lượng
hạt nhân. Khối lượng này ngày càng tăng đặc biệt chất thải có nồng độ phóng xạ chứa tới 99% là
lượng phóng xạ và đó là một nguồn nguy hiểm phóng xạ tiềm tàng.
1.2.4. Ô nhiễm do tàu thuyền gây ra
Ô nhiễm do tàu thuyền chiếm 12% ô nhiễm môi trường biển. Theo Egard Gold, ô nhiễm biển
từ tàu có thể chia làm 5 nhóm sau :
 Các hoạt động chất thải đổ từ tàu dầu khi rửa tàu.
 Các hoạt động xả đáy từ tất cả các loại tàu.
 Tràn dầu, chất độc nguy hại… do các sự cố trên biển như đâm va, chìm đắm, nổ,
cháy…
 Tràn dầu, chất độc nguy hại…trong quá trình sắp xếp, dỡ, vận chuyển và đưa vào kho.

 Cố ý đổ thải các chất rác, nước thải sinh hoạt.
Bảng 1.3. Tác động đến môi trường từ tàu thuyền
Thể loại ô nhiễm Các chất từ tàu thuyền
Dầu



Ô nhiễm từ các hoạt động bình thường
Các chất lỏng độc hại
Nước thải
Rác
Các chất rắn chuyên chở rời
Ô nhiễm không khí
Các chất sơn chống gỉ
Các sinh vật lạ
Tiếng ồn

Ô nhiễm do tai nạn
Dầu
Các chất lỏng độc hại
Các chất nguy hại đóng gói
Các chất rắn chuyên chở rời

Tổn hại vật l ý
Chìm đắm và phá hoại môi trường sống
Suy thoái môi trường sống
Nguồn: resolution A720 (17), 6 November 1991, guidelines for the designation of special areas and
the indentification of particularly sensitive sea areas. (Hướng dẫn xác lập các khu đặc biệt và định ra các
khu vực biển đặc biệt nhạy cảm).[36]
 Ô nhiễm biển do các chất không phải dầu.

Các chất không phải dầu thường được thải vào biển là chất thải rắn và lỏng, rác và nước dằn
tàu, các chất nguy hại, các chất phóng xạ và nước thải sinh hoạt.
 Ô nhiễm môi trường biển do dầu
Nguy cơ và tác hại lớn nhất từ các nguồn ô nhiễm từ tàu thuyền vẫn là dầu. Theo đánh giá
chung, hàng năm dầu được thải vào môi trường biển do các hoạt động bình thường của tàu thuyền,
các tai nạn và sự đổ thải cố ý của các tàu thuyền. Dầu tràn có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho
các hoạt động ven biển và cho những người sử dụng biển. vì theo đánh giá, 1 lít dầu tràn có thể tạo
váng 10.000 m
2
trên biển. Sinh vật biển còn bị ảnh hưởng nặng nề không chỉ bởi sự nhiễm bẩn cơ
học mà còn do các thành phần độc tố trong dầu. Dầu xâm nhập vào bờ biển tạo thành các váng biển
và lưu đọng trên các bãi biển, làm hỏng các bãi tắm, các vùng sản xuất muối, sản xuất công nghiệp,
du lịch…Dầu có thể gây tổn hại trực tiếp đến các tàu thuyền, ghe lưới đánh cá, các hoạt động nuôi
trồng thủy sản cũng như gián tiếp làm giảm năng suất đánh bắt và nuôi trồng tại vùng ven biển.
1.2.5. Ô nhiễm từ khí quyển
Công ước 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đánh giá nguồn ô nhiễm có nguồn gốc từ
bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển (ô nhiễm từ khí quyển) là nguồn ô nhiễm biển riêng biệt.
Báo cáo của GESAMP năm 1990 nhận xét: “Khí quyển chứa đựng các vật chất từ nhiều
nguồn khác nhau, tự nhiên và nhân tạo. Nguồn tự nhiên bao gồm các bụi từ nhiều vùng, từ đất, từ
núi lửa, thực vật, các đám cháy rừng cũng như từ các vòi rồng trên biển. Trong số các nguồn nhân
tạo có các khí thải từ các ngành công nghiệp, sản xuất và sử dụng năng lượng, đốt rác thải và các
hoạt động nông nghiệp…các thành phần này có thể được đưa vào bầu khí quyển ngay phía trên các
vùng đất. Từ đó chúng được xáo trộn theo chiều thẳng đứng và có thể được chuyển đi hàng ngàn km
vượt qua các đường biên giới quốc gia và lan truyền đến các hệ sinh thái lớn của biển cả. Các chất
nhiễm bẩn này có thể rơi trực tiếp xuống biển thông qua các hình thức mưa và tuyết rơi”.
Đánh giá chính xác về lượng các chất nhiễm bẩn được đưa vào bầu khí quyển cho đến nay
vẫn là điều không thể. Theo các đánh giá sơ bộ trên phạm vi toàn cầu, lượng chì được đưa vào biển
cả có tới 98% là nguồn gốc từ khí quyển. Khí quyển còn cung cấp cả các chất đồng, sắt, kẽm, niken,
chất hóa học… vào biển nhiều hơn là từ các dòng sông. Các vụ thử hạt nhân cũng đưa những chất
phóng xạ vào biển, vào khí quyển thông qua những cơn mưa.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến môi trường biển
1.3.1. Nhân tố vĩ mô
1.3.1.1. Luật biển, công ước biển quốc tế, luật bảo vệ môi trường
Trong giai đoạn hiện nay, luật biển và các công ước quốc tế đã có tác động đến vấn đề môi
trường biển một cách sâu sắc. Nhờ có luật biển quốc tế năm 1982 mà các vấn đề về biển đã được
qui định một cách rõ ràng và các nước trên thế giới phải công nhận vấn đề này. Trên thế giới, ngoài
một số công ước liên quan đến việc quản lý và ngăn chặn ô nhiễm biển từ các hoạt động vận tải biển
như: Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do tàu biển gây ra (Marpol 73/78), Công ước về ngăn
ngừa ô nhiễm biển do thải chất thải và vấn đề khác (London Dumping 1972), Công ước về sẵn sàng
hợp tác và ứng cứu ô nhiễm dầu (OPRC 1990), Công ước liên quan đến việc can thiệp trong trường
hợp bất cẩn gây ô nhiễm dầu (Intervention 1969) và một số công ước khác, còn có rất nhiều nước
quy định pháp lý xử lý ô nhiễm biển vô cùng chặt chẽ. Thậm chí, bất kể phương tiện thủy nào khi
vào vùng lãnh thổ biển đều phải nộp phí hưởng môi trường biển sạch và sẽ xử lý phạt rất nặng lỗi
gây ô nhiễm môi trường. Không ít tàu biển Việt Nam bị phạt hàng chục nghìn đôla vì lỗi này.
Tại Việt Nam, thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, Bộ Khoa học Công nghệ - Môi trường mới
chỉ ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm liên quan đến hàng hải gây
ra. Tuy nhiên, chưa có hệ thống văn bản pháp quy về lĩnh vực bảo vệ môi trường biển như quy định
bảo vệ môi trường đối với cảng biển; các quy định về môi trường đối với các dịch vụ sửa chữa, làm
sạch tàu biển, tàu chở dầu; các hướng dẫn kỹ thuật liên quan...
Trước lộ trình hội nhập quốc tế, làm sạch môi trường biển nói chung và làm sạch từng con
tàu, từng bến cảng nói riêng đang trở thành vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu. Không thể khác,
ngành Hàng hải đề xuất với Chính phủ tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ khoa học kỹ thuật cho
các cảng vụ tăng cường quản lý chặt chẽ các nguồn ô nhiễm tiềm tàng từ các hoạt động của tàu biển
và bến cảng; xây dựng hệ thống văn bản pháp quy chặt chẽ, có tham khảo quy định quốc tế liên
quan để ngăn ngừa tối đa nguy cơ gây ô nhiễm và xử lý nghiêm mọi vi phạm về ô nhiễm.
1.3.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Vấn đề kinh tế và xã hội của đất nước có tầm ảnh hưởng lớn đến vấn đề môi trường trong đó
có môi trường biển. Ở các nước đang phát triển, thì tình hình môi trường luôn ở trong tình trạng báo
động. Vấn đề ô nhiễm môi trường do quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa trở lên ngày càng
nghiêm trọng. Mặc dù đã có những qui định trong luật pháp nhưng các công ty và người dân vẫn

còn rất thờ ơ với vấn đề môi trường. Đặc biệt trong tình hình xã hội còn nhiều vấn đề phức tạp cần
giải quyết như đói nghèo, tệ nạn, y tế, giáo dục…thì vấn đề môi trường vẫn còn nhiều điều chưa giải
quyết được.
Vì vậy hiện nay, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước luôn phải kèm theo vấn
đề phát triển môi trường bền vững để đảm bảo một cuộc sống tốt đẹp hơn cho thế hệ mai này.
1.3.2. Nhân tố vi mô
1.3.2.1. Khai thác tiềm năng kinh tế biển ở các địa phương.
Kinh tế biển hiện nay trở thành một trong những ngành nghề được ưu tiên phát triển tại các
địa phương có biển của nước ta. Với 28 trên 63 tỉnh thành giáp biển, chúng ta có đầy đủ điều kiện
để phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên hiện nay, kinh tế biển chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở việc đánh bắt
và nuôi trồng thủy hải sản. Dọc khu vực Duyên hải miền trung hàng năm có từ 9 đến 10 cơn bão đổ
bộ gây thiệt hại không nhỏ về người và của. Với phương tiện đánh bắt thô sơ, công việc đánh bắt
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm “cha truyền con nối” luôn ẩn chứa những rủi ro đối với người đi
biển. Tiềm năng của Biển Đông có nhiều, nhưng sản lượng cá ven bờ ngày càng cạn kiệt. Vì thế,
những năm gần đây, ngư dân của Việt Nam đã tiến đến đánh bắt xa bờ. Tuy nhiên việc đánh bắt còn
gặp nhiều khó khăn do thiên tai nên một số ngư dân đã sử dụng các phương pháp đánh bắt gây ảnh
hưởng đến môi trường biển như dùng mìn đánh bắt cá, lưới cào, sử dụng mắt lưới ngày càng nhỏ
hơn làm cho cá con không có thời gian sinh trưởng, sản lượng cá ngày càng giảm. Bên cạnh đó việc
nuôi trồng thủy sản ven biển cũng gây ra nhiều tác nhân ảnh hưởng đến môi trường biển.
Vấn đề khai thác các cảng biển, giao thông vận tải biển, du lịch biển và khai thác khoáng sản
biển như dầu khí cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường biển. Vấn đề này sẽ được đề cập
kĩ hơn trong hiện trạng của môi trường biển Việt Nam hiện nay.
1.3.2.2. Các yếu tố khí tượng thủy văn (nhiệt độ nước biển, thủy triều, gió, bão…)
 Nhiệt độ của nước biển
Biển Việt Nam là một biển ấm, nhiệt độ nước biển thay đổi theo mùa, thấp nhất là mùa đông
(từ tháng 11 đến tháng 3) và cao nhất về mùa hè (từ tháng 5 tới tháng 8). Nhiệt độ nước biển tầng
mặt thường lớn hơn 20
0
C. Tuy nhiên vào mùa đông có sự giảm thấp nhiệt độ tương đối của lớp
nước tầng mặt ở vùng biển phía Bắc xuống dưới 20

0
C.
 Thủy triều
Thủy triều vùng biển Việt Nam hết sức đa dạng :
 Vùng ben bờ biển Bắc Bộ và Thanh Hóa có chế độ thủy triều thuộc loại nhật triều thuần nhất.
 Vùng ven biển từ Nghệ An đến Cửa Việt có chế độ nhật triều không đều.
 Thủy triều ở vùng biển phía nam nước ta khá phức tạp, bao gồm nhiều tính chất thủy triều khác
nhau: từ bán nhật triều không đều đến nhật triều với biên độ thay đổi đáng kể.
 Ở vùng ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa, thủy triều tương tự như thủy triều ở vùng Quy Nhơn.
Ở vùng quần đảo Trường Sa, thủy triều ít thay đổi theo không gian. Tuy nhiên tại rìa phía đông
nam của bán đảo vùng Minh Hải – Cà Mau, độ lớn thủy triều có xu hướng tăng lên. Tại vùng
biển thềm lục địa từ Bạch Hổ đến Côn Đảo, tính chất nhật triều giảm dần và tính chất bán nhật
triều không đều tăng dần khi đến gần bờ biển phía tây và độ lớn thủy triều dạng này cũng tăng
rõ rệt.
 Khu vực vịnh Thái Lan có chế độ nhật triều không đều và thể hiện rõ nét ở vùng đảo Thổ Chu
của Việt Nam.
 Gió mùa
Việt Nam nằm trong khu vực gió mùa của Đông Nam châu Á. Khí hậu bị chi phối bởi 2 loại
gió chính là: gió mùa Tây Nam với hướng gió thịnh hành là Nam Tây Nam. Thời gian kéo dài của
gió mùa Tây Nam là từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm. Gió mùa Đông Bắc thường xảy ra từ tháng
11 đến tháng 3 năm sau. Trùng với thời kỳ của gió Gió mùa Tây Nam là mùa mưa. Thời kỳ của gió
mùa Đông Bắc là mùa khô.
 Bão
Theo thống kê hàng năm nước ta trung bình có khoảng 10 cơn bão hoạt động, trong đó có từ
3-4 cơn được hình thành ngay tại biển Đông, số còn lại được hình thành ở Đông Thái Bình Dương
vượt qua Philippin hoặc đảo Hải Nam vào biển Đông. Khu vực từ Thanh Hóa đến Bình Định hàng
năm có từ 3-5 cơn bão mạnh hoạt động và chu kỳ hầu như không thay đổi. Bão đổ bộ vào nước ta
thường mang theo mưa to, gió lớn, kéo theo mực nước biển dâng cao. Nước dâng do bão ở bờ biển
nước ta đạt độ lớn từ 3,5-4m. Trong khi đó nước dâng do gió mùa chỉ đạt tới độ lớn không quá 0,5m
ở vùng ven bờ. Nước dâng do bão gây thiệt hại to lớn về người và tài sản ở vùng ven biển, gây nguy

hiểm đối với hoạt động của tàu thuyền.
Vùng biển nước ta với các yếu tố khí tượng thủy văn nói trên đã có ảnh hưởng to lớn đến sự
phân tán và phân hủy dầu. Các trường nhiễm bẩn dầu đã được hình thành ở các vùng cửa sông, ven
bờ, vùng có tuyến hàng hải quốc tế đi qua, dưới tác động của gió, dòng chảy mạnh, nhiệt độ nước
biển cao, dầu và các chất gây ô nhiễm bị phân tán, lan truyền nhanh và rộng, ảnh hưởng tới một
vùng diện tích rộng nhưng đồng thời cũng dễ bị phân hủy. Càng xa bờ, càng xa nguồn thải, nồng độ
dầu, nồng độ chất ô nhiễm càng giảm. Tới khoảng cách hàng chục, hàng trăm km thì hàm lượng dầu
và các chất ô nhiễm khác có thể trở lại bình thường.
1.4. Vai trò của biển Đông đối với các hoạt động kinh tế - xã hội
Biển có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của các nước có biển nói riêng
và của thế giới nói chung. Một số nước và vùng lãnh thổ đã lợi dụng thế mạnh về biển đạt trình độ
phát triển kinh tế rất cao. Do tầm quan trọng của biển, từ lâu cuộc chạy đua trong sự phát triển kinh
tế biển cũng như triển khai lực lượng quân sự trên biển và sự tranh chấp trên biển diễn ra rất gay
gắt.
Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là ''Thế kỷ của đại dương'', bởi cùng với tốc độ
tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái
tạo được trên đất liền, sẽ bị cạn kiệt sau vài ba thập kỷ tới. Trong bối cảnh đó, các nước có biển,
nhất là các nước lớn đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để
khai thác và khống chế biển. Riêng trong lĩnh vực khai thác tài nguyên, các nước, nhất là các nước
lớn đều có thiên hướng bảo tồn tài nguyên trên đất liền và vùng biển của mình, vươn ra điều tra,
khai thác tài nguyên trên đại dương. Do ý nghĩa và vai trò quan trọng của biển nên sự hợp tác quốc
tế về biển cũng không ngừng được mở rộng, bao gồm việc xây dựng khuôn khổ pháp lý mà tập
trung nhất là Công ước biển năm 1982 của Liên Hợp quốc, hình thành các cơ chế, tổ chức hợp tác
toàn cầu và khu vực.
1.4.1. Vị trí địa kinh tế và địa chính trị của biển Việt Nam
Việt Nam nằm bên bờ Biển Đông, có vùng biển rộng trên 1 triệu km
2
. Bờ biển Việt Nam dài
khoảng 3.260 km, trải dài trên 13 vĩ độ, có tỷ lệ chiều dài đường biển trên diện tích đất liền cao nhất
Đông Nam Á và đứng thứ 27/157 nước có biển trên thế giới (trung bình của thế giới là 600 km

2
đất
liền/1 km bờ biển, Việt Nam là 100 km
2
đất liền/1 km bờ biển).
Biển nước ta có khoảng 3.000 hòn đảo lớn nhỏ xa bờ, gần bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Đảo ven bờ chủ yếu nằm ở Vịnh Bắc Bộ; đảo nổi của nước ta có diện tích khoảng 1.700
km
2
, trong đó có 3 đảo diện tích lớn hơn 100 km
2
(Phú Quốc, Cái Bầu, Cát Bà), có 23 đảo diện tích
lớn hơn 10 km
2
, có 82 đảo diện tích lớn hơn 1 km2 và khoảng trên 1.400 hòn đảo chưa có tên.
Biển Đông được coi là con đường chiến lược về giao lưu và thương mại quốc tế giữa Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương, ở cả bốn phía đều có đường thông ra Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương qua các eo biển. Hầu hết các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều có các hoạt
động thương mại hàng hải rất mạnh trên Biển Đông. Trong tổng số 10 tuyến đường biển lớn nhất
trên thế giới hiện nay, có 5 tuyến đi qua Biển Đông hoặc có liên quan đến Biển Đông.
Biển Đông (trong đó có vùng biển Việt Nam) có vị trí địa kinh tế và chính trị quan trọng như
vậy, nên từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong Chiến lược phát triển không chỉ của các nước
xung quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc hàng hải khác trên thế giới. Đó cũng là lý do
quan trọng dẫn đến những tranh chấp ở vùng biển này.
Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối
với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên Á) sẽ cho phép vùng biển và ven
biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng hoá xuất, nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc, đồng thời
thu hút cả vùng Tây Nam Trung Quốc, Lào, Đông Bắc Thái Lan và Campuchia.
1.4.2. Tài nguyên khoáng sản biển
Tài nguyên khoáng sản biển Việt Nam có tiềm năng cao, rất đa dạng như dầu khí, các khoáng

sản rắn, vật liệu xây dựng đã được phát hiện rất nhiều ở dải ven biển. Tại các vùng nước biển sâu,
xa bờ còn có nhiều tiềm năng chứa hydrat metan (băng cháy). Trong các vùng biển Việt Nam đã
biết khoảng 35 loại hình khoáng sản có quy mô trữ lượng khác nhau từ nhỏ đến lớn, thuộc các nhóm
nhiên liệu, kim loại, vật liệu xây dựng, đá quý và bán quý, khoáng sản lỏng.
Biển và biển ven bờ Việt Nam chứa nhiều sa khoáng như Ti, Zr, Sn... và vật liệu xây dựng
(cát, cuội, sỏi...) làm vật liệu san lấp. Đây là lợi thế so sánh phát triển công nghiệp khai khoáng ven
biển của nước ta, đặc biệt phải tính đến tác động của điều kiện Biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Tuy nhiên, tài nguyên khoáng sản biển nói chung và dầu khí nói riêng thuộc nhóm tài nguyên không
tái tạo, nên rất cần xây dựng chính sách, chiến lược quy hoạch, khai thác và sử dụng tài nguyên
khoáng sản một cách hợp lý để phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Thềm lục địa Việt Nam có nhiều bể trầm tích chứa dầu khí và có nhiều triển vọng khai thác
nguồn khoáng sản này. Tổng trữ lượng dầu khí ở biển Việt Nam ước tính khoảng 10 tỉ tấn dầu quy
đổi.Tuy mới ra đời, nhưng ngành dầu khí của ta đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn, có tiềm lực kỹ thuật, vật chất lớn và hiện đại nhất trong những ngành khai thác biển; đồng
thời cũng là một trong những ngành xuất khẩu và thu nhiều ngoại tệ nhất cho đất nước.[15]
Ngoài dầu mỏ, biển Việt Nam còn có tiềm năng về khí - điện - đạm và năng lượng biển cũng
rất lớn như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, thủy triều, sóng và cả thủy nhiệt.
1.4.3. Tài nguyên sinh vật
Biển Việt Nam rất giàu và phong phú, đa dạng về các dạng sinh vật, ước tính gồm hơn
12.000 thực vật, trong đó có khoảng 7.000 loài cây thực vật lớn (macrophytes) và 1.400 loài nấm.
Về động vật có 273 loài động vật có vú, 638 loài chim (1009 loài nếu tính cả loài phụ), 349 loài
động vật lưỡng cư và bò sát, hơn 500 loài cá nước ngọt, hơn 2.000 loài cá biển, hàng nghìn loài
động vật không xương sống hiện đã được xác định. [58]
Ngoài ra, vùng biển nước ta còn có các loại động vật quý khác như đồi mồi, rắn biển, chim
biển, thú biển. Vùng biển và đảo Việt Nam còn là nơi cư trú lý tưởng của trên 50 loài chim di cư,
trong đó chim yến cho sản lượng khai thác khoảng 4000kg yến sào mỗi năm. Hơn 300 loài san hô
cứng được tìm thấy ở vùng biển Việt Nam. Ở miền Nam xác định được 277 loài san hô cứng thuộc
72 giống. Ở miền Bắc xác định được ít hơn, có 165 loài thuộc 52 giống. Khoảng 17 loài san hô thân
mềm và 20 loài san hô sừng cũng được tìm thấy ở vùng biển Việt Nam.
Biển nước ta chủ yếu là vùng biển nhiệt đới mang tính chất địa phương, có tính chất riêng về

nhiều mặt như khí tượng - hải văn, chế độ thủy triều.... Hiện tượng nổi bật là sự xuất hiện vùng
nước trồi - một vùng sinh thái đặc biệt phong phú, đa dạng và là nơi tập trung nhiều loài sinh vật
biển. Nguồn lợi hải sản của biển nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. Tổng trữ
lượng hải sản khoảng 3,9 - 4,0 triệu tấn/năm, cho phép hàng năm khai thác 1,9 triệu tấn, trong đó
vùng biển gần bờ chỉ khoảng 500 nghìn tấn, còn lại là vùng xa bờ; cá biển chiếm 95,5%, còn lại là
mực, tôm... Biển nước ta có trên 2.000 loài cá, trong đó có khoảng 100 loài có giá trị kinh tế như :
trích, thu, ngừ, bạc má, hồng...; hơn 1.600 loài giáp xác (trong đó có tới 70 loài tôm), hơn 2.500 loài
nhuyễn thể; hơn 600 loài rong biển…
 Tài nguyên thực vật
Biển Việt Nam cũng giàu tài nguyên thực vật, nhất là về cỏ biển và rừng ngập mặn. Mặc dù
chưa được nghiên cứu nhiều, sơ bộ khoảng 14 loài cỏ biển đã được phát hiện trong các vùng ven
biển nông của Việt Nam. Chúng phát triển rất tốt trong các hồ nước mặn và vịnh, với đa dạng loài
tăng dần từ chín loài ở miền Bắc lên 13 loài ở miền Nam. Vùng nhiều cỏ biển nhất là Thủy Triều
thuộc tỉnh Khánh Hòa, với diện tích khoảng 800 ha. Các hòn đảo ngoài khơi như Côn Đảo và Phú
Quốc cũng có các vùng có nhiều cỏ với diện tích khoảng 200 đến 300 ha.[36]
Rừng ngập mặn Việt Nam chiếm khoảng gần 150.000 ha dọc theo bờ biển, đặc biệt rừng
ngập mặn ở Cà Mau có mức độ đa dạng sinh học cao nhất (32 loài đước chính và 32 loài khác cùng
họ), và chúng có tính quần thể sinh học năng suất cao. Đa dạng loài tăng dần từ miền Bắc với 34
loài đến miền Nam với 69 loài. Vùng biển miền Trung hẹp, sâu ít nhận bồi tích các con sông và
luôn bị ảnh hưởng bởi bão lụt nên không phải là nơi rừng ngập mặn phát triển. Các vùng rừng ngập
mặn và các cửa sông có ý nghĩa sinh thái đặc biệt như là nơi đẻ trứng, ươm giống và bãi thức ăn của
rất nhiều loài cá và sinh vật thân mềm có giá trị kinh tế.
1.4.4. Tài nguyên cảnh quan biển
Dải ven biển Việt Nam có các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng.
Do chịu tác động đan xen của các yếu tố biển và lục địa, đặc biệt là sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ
của các quá trình tự nhiên có nguồn gốc biển đã tạo cho dải ven biển có điều kiện tự nhiên và các
cấu trúc đơn vị cảnh quan sinh thái đặc biệt phong phú với một hệ thống gồm 5 cấp phân loại cảnh
quan là : lớp, phụ lớp, kiểu, phụ kiểu và loại cảnh quan sinh thái.[60]
Xét theo đặc điểm địa hình, dải ven biển được chia thành 3 lớp cảnh quan sinh thái là núi, đồi
và đồng bằng.

Lớp cảnh quan sinh thái núi phân bố thành một dải từ Bắc xuống Nam bao gồm chủ yếu các
dãy núi trung bình và thấp với độ cao từ 1600 – 1500m đến 600 – 700m. Lớp cảnh quan núi được
chia ra làm 2 phụ lớp: phụ lớp cảnh quan núi trung bình và phụ lớp cảnh quan núi thấp
Cũng như lớp núi, lớp cảnh quan sinh thái đồi cũng được phân bố suốt từ Bắc xuống Nam
nhưng rải rác hơn, trong đó tập trung chủ yếu ở các khu vực rìa đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và
Nam Bộ.
Lớp cảnh quan sinh thái đồng bằng bao gồm toàn bộ các đồng bằng ven biển và hầu hết được
sử dụng để canh tác, ngoại trừ các khu vực tiếp giáp với đồi núi còn bỏ hoang. Hiện nay lớp cảnh
quan sinh thái đồng bằng đã được sử dụng triệt để vào sản xuất nông nghiệp.
Các phân vị cơ sở này có ý nghĩa thiết thực nhất, chúng cung cấp những thông tin khoa học
quan trọng, đầy đủ và cụ thể nhất về các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của lãnh thổ, cấu
trúc của chúng theo không gian, cũng như chức năng và động lực phát triển của chúng...làm cơ sở
cho việc đánh giá tổng hợp lãnh thổ phục vụ cho các mục đích sử dụng cụ thể.
1.4.5. Tài nguyên địa hình biển
Địa hình ven biển Việt Nam rất đa dạng và phức tạp với gần 40 kiểu địa hình khác nhau
thuộc 4 nhóm chính là: [60]
 Nhóm kiểu địa hình núi (gồm 11 kiểu): được tách ra khỏi các địa hình khác bởi độ chênh cao
trên 150m. Đối với địa hình này cần có kế hoạch khai thác sử dụng hợp lí, tránh những tác
động của quá trình ngoại sinh, đồng thời cần bảo vệ lớp phủ thực vật để bảo vệ lớp phủ thổ
nhưỡng.
 Nhóm kiểu địa hình đồi (gồm 4 kiểu): được tách ra khỏi các địa hình khác bởi độ chênh lệch
cao từ 10 – 150m. Tại khu vực phía Bắc điển hình là ven biển Quảng Ninh, còn từ Nam đèo
Hải Vân trở vào điển hình là Ninh Thuận, Bình Thuận và Đông Nam Bộ. Nhóm địa hình này
khá thích hợp cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như chè, cà phê hoặc cây
màu…Tuy nhiên cần canh tác hợp lí để tránh gây xói mòn, thoái hóa đất và các quá trình
mương xói nhất là với dạng đồi bát úp.
 Nhóm địa hình đồng bằng (có 16 kiểu): gồm 2 phụ nhóm là đồng bằng tích tụ trên các trũng
tân kiến tạo và đồng bằng tích tụ, tích tụ - bóc mòn trên rìa miền nâng. Đối với đồng bằng
trên các trũng vòng tân kiến tạo là đồng bằng delta lớn, rất thuận tiện cho phát triển nông
nghiệp, trước hết là lúa và cây công nghiệp ngắn ngày. Nhưng trong quá trình khai thác cần

đề phòng bị tái nhiễm mặn.
 Nhóm địa hình bãi biển và bờ (gồm 6 kiểu): chịu tác động trực tiếp của biển thông qua dao
động của mực thủy triều được xếp vào nhóm địa hình bãi, bị ngập nước lúc triều lên và phơi

×