Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

nợ công của mỹ và ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.09 KB, 35 trang )

Luận văn
Nợ công của Mỹ và ảnh
hưởng của nó đến nền kinh
tế Việt Nam
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
Nợ công hiện đang là vấn đề rất nóng trên thế giới. Ngày 6.4.2011, Bồ
Đào Nha đã phải chính thức lên tiếng kêu gọi trợ giúp tài chính từ Liên minh
châu Âu (EU) để giải quyết khủng hoảng nợ công. Năm ngoái, khi EU ra tay
cứu trợ cho Hy Lạp và Ireland thì Bồ Đào Nha đã nằm trong nhóm “nguy cơ
vỡ nợ” cùng với Tây Ban Nha, Ý. Không riêng gì EU, Mỹ cũng đang đối mặt
với một núi nợ khổng lồ. Hồi đầu tháng 4 năm nay Bộ Tài chính Mỹ dự đoán,
nợ công của nước này sẽ chạm tới mức trần 14.300 tỷ USD mà pháp luật liên
bang cho phép, trong khoảng thời gian từ 15/4 đến 31/5. Nếu tính từ năm
1995, với trần nợ công 4.900 tỉ USD, thì trần nợ công gấp khoảng ba lần cho
đến thời điểm này. Cứ như thế, nợ công của Mỹ ngày càng phình to và nhiều
quốc gia trên thế giới cũng vậy. Mỹ là cường quốc kinh tế số 1 thế giới nhưng
lại lâm vào tình trạng nợ công trầm trọng, điều này đã có tác động không nhỏ
tới nền kinh tế thế giới, đây sẽ là một thảm họa của thế giới. Tại sao một
cường quốc như Mỹ lại lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ công và liệu nợ
công có tác động như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam? Chúng ta cần có
những biện pháp gì để ngăn chặn những ảnh hưởng mang tính tiêu cực từ nợ
công của Mỹ? Đó chính là lí do mà nhóm chúng tôi quyết định nghiên cứu đề
tài: “Nợ công của Mỹ và ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế Việt Nam”.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
2
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
• Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NỢ CÔNG
I.Khái quát chung
1. Khái niệm nợ công


Khái niệm nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu
hết những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính
phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó.
Chính vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng nghĩa với các
thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn toàn
khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc
gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ phận của nợ quốc
gia mà thôi.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là
nghĩa vụ nợ của bốn nhóm chủ thể bao gồm:
- Thứ nhất: nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung
ương
- Thứ hai: nợ của các cấp chính quyền địa phương
- Thứ ba: nợ của Ngân hàng trung ương
- Thứ tư: nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn,
hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc
Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ
nợ.
Cách định nghĩa này cũng tương tự như quan niệm của Hệ thống quản
lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và
phát triển (UNCTAD).
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm
ba nhóm là:
- Nợ Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát
hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
3

NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ.
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh: là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương: là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành
hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam
được đánh giá là hẹp hơn so với thông lệ quốc tế. Nhận định này cũng được
nhiều chuyên gia uy tín trong lĩnh vực chính sách công thừa nhận.
2. Đặc trưng của nợ công
Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ
bản, nợ công có những đặc trưng sau đây:
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một
khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có
trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện
dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước
có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách
nhiệm trả nợ khoản vay (ví dụ: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền địa
phương). Gián tiếp là trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng
ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay
không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh
(ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay vốn nước
ngoài).
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền
Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục
đích: một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn

nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; hai là,
để đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc
quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị
và xã hội. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nguyên tắc quản lý nợ công
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
4
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ,
sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản như đã nêu
trên.
Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển
kinh tế – xã hội vì lợi ích chung. Nợ công được huy động và sử dụng không
phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì
lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để
phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên
đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của
nhân dân, mà cụ thể là để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi
đó là điều kiện quan trọng nhất.
II. Bản chất kinh tế của nợ công
Nghiên cứu làm rõ bản chất kinh tế của nợ công và quan điểm của kinh
tế học về nợ công sẽ giúp các nhà làm luật xây dựng các quy định pháp luật
phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội nhằm đạt được hiệu quả trong sử dụng
nợ công ở Việt Nam.
Xét về bản chất kinh tế, khi Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải
chi tiêu vượt quá khả năng thu của mình (khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản
thu khác) thì phải vay vốn và điều đó làm phát sinh nợ công. Như vậy, nợ
công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và Nhà nước phải có
trách nhiệm hoàn trả. Do đó, nghiên cứu về nợ công phải bắt nguồn từ quan
niệm về việc Nhà nước đi vay là như thế nào.
Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan trọng của ngân sách

nhà nước được các nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn
được ghi nhận trong pháp luật ở hầu hết các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân
sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển, ngân sách thăng bằng được hiểu là một
ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghĩa kinh tế, điều này giúp
Nhà nước tiết kiệm chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính trị, nguyên tắc
này sẽ giúp hạn chế tình trạng Chính phủ lạm thu thông qua việc quyết định
các khoản thuế.
Các nhà kinh tế học cổ điển như A.Smith, D.Ricardo, J.B.Say là những
người khởi xướng và ủng hộ triệt để nguyên tắc này trong quản lý tài chính
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
5
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
công. Và chính vì thế, các nhà kinh tế học cổ điển không đồng tình với việc
Nhà nước có thể vay nợ để chi tiêu.
Ngược lại với các nhà kinh tế học cổ điển, một nhà kinh tế học được
đánh giá là có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất ở nửa đầu thế kỷ XX là John
M.Keynes (1883-1946) và những người ủng hộ mình (gọi là trường phái
Keynes) lại cho rằng, trong nhiều trường hợp, đặc biệt là khi nền kinh tế suy
thoái dẫn đến việc đầu tư của tư nhân giảm thấp, thì Nhà nước cần ổn định đầu
tư bằng cách vay tiền (tức là cố ý tạo ra thâm hụt ngân sách) và tham gia vào
các dự án đầu tư công cộng như đường xá, cầu cống và trường học, cho đến
khi nền kinh tế có mức đầu tư tốt trở lại. Học thuyết của Keynes (cùng với sự
chỉnh sửa nhất định từ những đóng góp cũng như phản đối của một số nhà
kinh tế học sau này là Milton Friedman và Paul Samuelson) được hầu hết các
Chính phủ áp dụng để vượt qua khủng hoảng và tình trạng trì trệ của nền kinh
tế.
Hiện nay trên thế giới, mặc dù tài chính công vẫn dựa trên nguyên tắc
ngân sách thăng bằng, nhưng khái niệm thăng bằng không còn được hiểu một
cách cứng nhắc như quan niệm của các nhà kinh tế học cổ điển, mà đã có sự
uyển chuyển hơn. Ví dụ, theo quy định của pháp luật Việt Nam, các khoản chi

thường xuyên không được vượt quá các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí;
nguồn thu từ vay nợ chỉ để dành cho các mục tiêu phát triển.
Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị trường đều có hoạt động
vay nợ. Việc vay nợ của Nhà nước thường được thực hiện dựa trên quan điểm
của Keynes, nhưng có hai điều chỉnh quan trọng: một là, việc cố ý thâm hụt
ngân sách và bù đắp bằng các khoản vay không được thực hiện vĩnh viễn, bởi
lẽ xét về lý thuyết thì những tác động từ các khoản vay chỉ có ích trong ngắn
hạn còn về dài hạn lại có ảnh hưởng tiêu cực và do đó Nhà nước cần phải có
giới hạn về mặt thời gian trong việc sử dụng các khoản vay; và hai là, các
khoản nợ công phải được kiểm soát kỹ lưỡng nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng,
đồng thời hạn chế những tác động không mong muốn từ việc sử dụng các
khoản vay. Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ giúp mục đích vay vốn đạt được
với chi phí thấp nhất, đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn.
III. Phân loại nợ công
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
6
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa
khác nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
1. Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công gồm có hai
loại: nợ trong nước và nợ nước ngoài.
- Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam.
- Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài,
vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, nợ nước ngoài không được hiểu là
nợ mà bên cho vay là nước ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ công không
phải là nợ trong nước.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng
trong quản lý nợ. Việc phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính
xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc

quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt
Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi
hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
2. Theo phương thức huy động vốn thì nợ công có hai loại là nợ công từ
thỏa thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ.
- Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những
thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ
chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng
vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt Nam
với bên nước ngoài.
- Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này
có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng
trên thị trường tài chính.
3. Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ
công có ba loại là nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ
thương mại thông thường.
4. Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ
công phải trả và nợ công bảo lãnh.
- Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa
phương có nghĩa vụ trả nợ.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
7
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
- Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh
cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa
vụ trả nợ.
5. Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của
trung ương và nợ công của chính quyền địa phương.
- Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính

phủ bảo lãnh.
- Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương
là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân
sách nhà nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương
được coi là nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ
công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ
sung từ ngân sách trung ương.
IV. Những tác động của nợ công
Như trên đã phân tích, ta có thể rút ra được nợ công vừa có nhiều tác
động tích cực nhưng cũng có một số tác động tiêu cực. Nhận biết những tác
động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là
điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ
công.
Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường
nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của
Nhà nước. Việt Nam đang trong giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cơ sở hạ tầng là yếu tố có
tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ,
vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu
cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia
tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi
trong dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông
qua việc Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử
dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
8
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài

chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại
giao quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia
nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Nếu Việt Nam biết tận
dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn, đồng thời giữ
vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những
tác động tiêu cực nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc
biệt là từ các khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước
lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ
tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
9
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
• Chương II
THỰC TRẠNG NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
NÓ ĐẾN VIỆT NAM
I. Tổng quan tình hình nợ công thế giới
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nền
kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể. Nguyên nhân đến từ việc đẩy mạnh các
gói kích cầu, quốc hữu hóa những khoản nợ tư nhân, kế hoạch giảm thuế…
trong nỗ lực kéo nền kinh tế thoát khỏi suy thoái.
Tuy nhiên, nợ công không chỉ là câu chuyện của nước Mỹ, là vấn đề của
nhiều nước với những nguy cơ và thách thức to lớn và có thể gọi là khủng
khoảng cũng không sai.
Theo thống kê của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Nhật Bản là nước có tỷ lệ
tổng nợ công quốc gia (Gross general government debt) trên GDP lớn nhất với
mức 220% GDP, tiếp theo là Hy Lạp với 142% GDP. Mỹ đứng ở vị trí thứ 8
về gánh nặng nợ công tính theo cách này.
Tuy nhiên, nếu tính thêm vào tài sản tài chính mà quốc gia đó nắm giữ,

thì Hy Lạp mới là nước có tỷ lệ nợ ròng quốc gia (Net general government
debt) trên GDP lớn nhất với 142% GDP, sau đó mới đến Nhật Bản với 117%
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
10
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
GDP. Với cách tính này, Mỹ đứng thứ 11 trong danh sách các quốc gia có
gánh nặng nợ công lớn. Điểm đáng chú ý là mặc dù Nhật Bản và Ý có tỷ lệ nợ
công trên GDP lớn, nhưng phần lớn khoản nợ đó do các nhà đầu tư trong nước
nắm giữ.
Kinh tế Mỹ
Kinh tế Mỹ vẫn ảnh hưởng to lớn và mạnh mẽ đối với kinh tế thế giới
như vốn có và mọi thay đổi hay diến biến của kinh tế Mỹ đều được dư luận
theo dõi sát sao. Việc xử lý nợ công của Mỹ trong tuần cũng không nằm ngoài
nhận định đó.
Cuối cùng Quốc hội Mỹ đã thông qua dự luật và Tổng thống Barack
Obama đã ký ban hành thành luật nâng trần nợ công với nội dung chủ yếu là
nâng trần nợ thêm 2.100 tỷ USD cho tới năm 2013 và cắt giảm thâm hụt ngân
sách 2.500 tỷ USD trong vòng 10 năm tới. Điều này đã chấm dứt “cuộc chiến”
nợ công dai dẳng, phức tạp của các nhánh quyền lực Mỹ trong năm 2011.
Tuy nhiên kinh tế Mỹ không vì thế mà “sáng sủa” hơn. Tăng trưởng
GDP quí 2 chỉ đạt 1,3%, là mức thấp nhất kể từ sau khủng khoảng năm 2008-
2009 đến nay, thêm vào đó là nợ công đã vượt GDP năm 2010 với con số
14.580,7 tỷ USD/14.526,5 tỷ USD vào ngày 3/8, tiếp đó ngày 4/8 chỉ Dow
Jones bốc hơi 500 điểm và được gọi là “Ngày Thứ Năm đen tối”. Trong bối
cảnh đó, có quan điểm cho rằng nước Mỹ có thể rơi vào cuộc suy thoái mới.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
11
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
“Việc thắt chặt ngân sách trong tình hình hiện nay có nguy cơ đưa kinh tế Mỹ
tới một cuộc suy thoái khác”, đó là quan điểm của nhà kinh tế Sherry Cooper

thuộc BMO Capital Markets. Tuy chưa xác nhận kinh tế Mỹ sẽ rơi vào suy
thoái nhưng “Mỹ đang cố gắng ổn định tình hình tài chính trong nước và hậu
quả sẽ khiến nền kinh tế Mỹ chậm tăng trưởng trong một vài năm”, theo phân
tích của chuyên gia kinh tế Paul Dales làm việc cho Capital Economics.
Dù các nhận định trên có đúng hay gần đúng thì kinh tế Mỹ hiện nay
vẫn “u ám”, vẫn “tồi tệ” nhưng không “bất thường” và phản ánh những mâu
thuẫn sâu sắc trong chính nội tại kinh tế Mỹ, đó là điều chắc chắn.
Trung Quốc
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và quốc tế hóa, các nền kinh tế, đặc biệt là
các nền kinh tế lớn có mối liên hệ, có sự đan xen và phụ thuộc lẫn nhau rất
lớn. Sự phụ thuộc lẫn nhau có thể trong lĩnh vực XNK, có thể trong lĩnh vực
thị trường lao động, thị trường nguyên liệu và có thể trong cả lĩnh vực đầu tư
tài chính…Điều này hoàn toàn đúng với quan hệ kinh tế Mỹ -Trung, đây là
mối quan hệ kinh tế của 2 cường quốc lớn nhất thế giới hiện nay. Có thể nói
quan hệ kinh tế Mỹ - Trung Quốc là điển hình cho sự phụ thuộc lẫn nhau của
các nền kinh tế lớn.
Mỹ và Trung Quốc không chỉ là một trong những bạn hàng lớn nhất của
nhau, mà còn là chủ nợ lớn nhất và cả trong 2 trường hợp này, Trung Quốc đều
có lợi thế, đó là thặng dư thương mại cao 273 tỷ USD, là chủ nợ của 1.500 tỷ
USD trái phiếu Mỹ. Tuy nhiên, trong bối cảnh nợ công đang đe dọa kinh tế
Mỹ thì chủ nợ Trung Quốc cũng “đứng ngồi không yên”. “Hành động có trách
nhiệm” và “hy vọng rằng Chính phủ và Quốc hội Mỹ sẽ có các biện pháp cũng
như chính sách cụ thể, có trách nhiệm để đối phó với các vấn đề nợ, đảm bảo
cho các hoạt động của thị trường tài chính và nhà đầu tư”. Đó là phát biểu của
Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc Chu Tiểu Xuyên trước thời
điểm nước Mỹ đạt thỏa thuận nâng trần nợ công. Điều này hoàn toàn dễ hiểu,
bởi vì nếu nếu nợ công không được nâng trần, đồng USD sẽ bị mất giá và
không ai dám chắc 1.500 tỷ USD trái phiếu hiện Trung Quốc sở hữu sẽ không
bị ‘bốc hơi”. Sự lo lắng này còn kéo dài vì lần nâng trần nợ công này chắc
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B

12
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
chắn không phải là lần cuối cùng và đồng USD cũng chưa có cơ hội nâng giá
và như vậy “kho tiền’ USD của Trung Quốc sẽ sụt giảm đáng kể.
Đây cũng là kinh nghiệm lớn trong việc đa dạng hóa các nguồn lực dự
trữ quốc gia mà Trung Quốc là ví dụ điển hình nhất.
Châu Âu
Tình hình Hy Lạp đã tạm “bình yên” khi EU, IMF và Eurozone nhất trí
thông qua gói cứu trợ lần 2 với trị giá 109 tỷ Euro (khoảng 158 tỷ USD) và Hy
Lạp bắt đầu đàm phán với các ngân hàng để họ mua lại các khoản nợ sắp đáo
hạn.
Tuy nhiên, với khoản nợ công khổng lồ 350 tỷ Euro (khoảng 506 tỷ
USD) và chưa có giải pháp giảm nợ khả thi thì Hy Lạp vẫn là “ứng cử viên số
một” hay “sự lựa chọn số một” cho danh sách các quốc gia có nguy cơ vỡ nợ.
Mọi kết quả sẽ có vào thời gian này năm 2012.
Trong một diễn biến khác, không chỉ các quốc gia nhỏ của EU, của
Eurozone bị “bão” nợ công tàn phá, một thành viên G7 đồng thời là nền kinh
tế lớn thứ 4 Châu Âu - Italy cũng có nguy cơ cao vỡ nợ công. Nhiều chỉ số
kinh tế của Italy đều trong diện “báo động đỏ”, cụ thể nợ công của Italy sẽ
tăng từ 128% GDP lên 150% GDP vào năm 2017; lãi suất đi vay của Chính
Phủ tăng cao và thâm hụt ngân sách vượt 3%
Các nhà phân tích cho rằng, ngoài việc chưa nhất trí với các nhận định
xấu về kinh tế Italy, chính phủ của ông Silvio Berlusconi cần phải có một
chương trình đặc biệt nhằm khôi phục đà tăng trưởng cũng như phải lựa chọn
biện pháp “thắt lưng buộc bụng” thì Italy mới có hy vọng “thoát hiểm”. Đây
không phải là điều dễ dàng vì tăng trưởng khó đi cùng với “thắt chặt”. Do vậy,
đối với Italy hiện nay mọi điều đều có thể xảy ra. Và như vậy, kinh tế Châu Âu
sẽ còn “rối ren” hơn nhiều.
Nhật Bản
Nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới đang đứng trước hai nhiệm vụ khó khăn:

tái thiết đất nước sau thảm họa và khôi phục kinh tế, trong đó xử lý đồng Yên
tăng giá là một trong những nhiệm vụ quan trọng và khó khăn nhất. Trong việc
tái thiết đất nước, khoảng 19.000 tỷ Yên đã và sẽ được chi cho việc khôi phục
cơ sở hạ tầng tại khu vực bị thảm họa, xây trường học và tạo thêm các việc
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
13
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
làm mới. Không những vậy, Nhật Bản còn có kế hoạch phát hành 10.000 tỷ
Yên (khoảng 128 tỷ USD) trái phiếu để “tăng tốc” quá trình tái thiết. Có thể
nói Nhậ Bản đã “không tiếc tiền” để khắc phục hậu quả thảm họa cũng như
khôi phục kinh tế và thực tế là có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Trong một
diễn biến khác, sau một thời gian theo dõi và đánh giá những tác động tiêu cực
do đồng Yên liên tục tăng giá trong thời gian vừa qua, ngày 4/8 Bộ trưởng Tài
chính Nhật Bản Yoshihiko Noda tuyên bố Nhật bản sẵn sàng cho việc đơn
phương can thiệp vào thị trường tiền tệ để ngăn việc đồng Yên lên giá.
Thực tế Nhật Bản đã bán 4.000 tỷ Yên (khoảng 50,6 tỷ USD) và BOJ
quyết định tăng quy mô chương trình mua tài sản từ 10.000 tỷ Yên (126 tỷ
USD) lên 50.000 tỷ Yên (630 tỷ USD).Đây là lần thứ 2 trong vòng một năm
trở lại đây Nhật Bản đơn phương can thiệp vào thị trường tiền tệ và có sự phối
hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Trung ương và Bộ Tài chính. Tuy nhiên lần can
thiệp này nếu xảy ra sẽ gặp nhiều khó khăn hơn lần trước đây vì đồng USD và
Euro hiện nay đang có nguy cơ giảm giá cao và kinh tế Mỹ cũng như Châu Âu
đang gặp khó. Và như vậy, tỷ giá đồng Yên vẫn là vấn đề “trung tâm” và
không dễ xử lý của kinh tế Nhật Bản trong thời điểm hiện nay.
II. Nợ công của Mỹ
1. Diễn biến nợ công của Mỹ
Trong lịch sử nợ công của nước Mỹ, đã có hai lần đạt mức cao kỷ lục:
sau Thế chiến thứ 2 đạt mức 110%/GDP và lần này (2011) với 14.300 tỷ USD,
gần bằng 100%/GDP. Con số này vượt quá cao so với mức an toàn của nền
kinh tế, đe dọa sự phục hồi kinh tế của nước Mỹ và kinh tế toàn cầu khiến

không chỉ nước Mỹ mà cả thế giới lo ngại.
Theo số liệu báo ra ngày 8/4/2012 cuả tờ báo cho thấy Nợ
liên bang của Mỹ tính đến ngày 2/8/2011 đã vượt mức 238 tỷ USD/ngày.
Bộ Tài chính Mỹ hôm 3/8/2011 cho biết, nợ công của nước này đã vượt
100% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), ngay khi lưỡng viện Quốc hội Mỹ
thông qua dự luật về nâng trần nợ công và cắt giảm ngân sách. Tình hình tài
chính công do Bộ Tài chính Mỹ công bố, nợ liên bang của Mỹ tính đến ngày
2/8/2011 đã vượt mức 238 tỷ USD/ngày, đạt 14.580,7 tỷ USD, vượt GDP của
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
14
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
năm 2010 (14.526,5 tỷ USD). Tuy nhiên, theo những đánh giá gần đây của
Chính phủ Mỹ, GDP của nước này trong năm 2011 hiện cao hơn con số này,
cụ thể giá trị sản lượng của nền kinh tế lớn nhất thế giới trong quý 2/2011
tương ứng với mức tăng trưởng hàng năm là 15.038 tỷ USD.
Căn cứ vào các dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), như vậy Mỹ đã
gia nhập lại nhóm các nước có nợ công cao hơn GDP, gồm Nhật Bản (229%),
Hy Lạp (152%), Jamaica (137%), Lebanon (134%), Italy (120%), Ireland
(114%) và cả Iceland (103%).
Trên thực tế, chúng ta cùng xem xét một điều rằng nếu Mỹ vỡ nợ ai là
người chịu thiệt hại lớn nhất từ cú sốc trên? Chắc chắn là chính Mỹ, mà đầu
tiên là các lãnh đạo của nhà trắng.
“Bóng ma vỡ nợ"
“Bóng ma vỡ nợ" đang bao phủ khắp Nhà Trắng bởi nợ công của Chính
phủ Mỹ đã lên tới hơn 14 nghìn tỷ USD, mức kịch trần giới hạn vay nợ.
Ngày 25-7, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo, Mỹ sẽ đối mặt với "cú
sốc nặng" nếu nước này không sớm nâng trần nợ công. Trong một báo cáo về
kinh tế Mỹ, các chuyên gia IMF tuyên bố cần nhanh chóng nâng trần nợ liên
bang để tránh một cú sốc nặng cho nền kinh tế Mỹ và các thị trường tài chính
thế giới. Ban giám đốc IMF cũng kêu gọi nhà chức trách Mỹ cắt giảm chi tiêu

từng bước để tránh bị đánh tụt hạng tín nhiệm tài chính.
2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của tình trạng nợ công tăng cao là chính quyền đã “vung
tay quá trán”, ngay từ thời người tiền nhiệm là cựu Tổng thống George W.
Bush, số nợ đã tăng thêm 4.900 tỷ USD; thời của Tổng thống Obama con số
này đã là 2.400 tỷ USD.
Cụ thể, ngoài Chương trình cải tổ hệ thống y tế quốc gia, nước Mỹ còn
phải chịu gánh nặng về bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm vỡ nợ, hậu quả của
cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ năm 2008;
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
15
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Chi tiêu cho các gói kích thích kinh tế với hơn 900 tỷ USD nhưng
không mấy hiệu quả, trong khi nguồn thu vẫn bị thu hẹp do tác động từ suy
thoái kinh tế cũng là nguyên nhân làm bội chi ngân sách.
Mặt khác phải kể đến là chi tiêu cho các cuộc chiến ở Iraq, Ápganixtan,
Libya cũng tác động không nhỏ đến nợ công và sự phục hồi kinh tế của Mỹ.
Chỉ tính riêng chi tiêu cho hai cuộc chiến ở Iraq, Ápganixtan, Mỹ đã tốn gần 4
tỷ USD;
3. Hậu quả
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã bộc lộ mặt trái không mong
muốn của nợ công nước Mỹ và nhiều nước khác. Đối với những quốc gia sở
hữu nhiều trái phiếu Chính phủ Mỹ như Trung Quốc và Nhật Bản mặc dù vẫn
lớn tiếng trấn an rằng: "Đó vẫn là công cụ dự trữ quan trọng bậc nhất" nhưng
trên thực tế, tỷ trọng trái phiếu Chính phủ Mỹ trong dự trữ quốc gia đã suy
giảm rõ rệt để bổ sung thêm vàng, góp phần tạo nên cơn sốt vàng dữ dội nhất
trong lịch sử suốt hai tuần qua. Chẳng hạn, Nhật Bản giảm từ 90% xuống 75%
- 80%, Brazin giảm từ 90% xuống 81%; Trung Quốc giảm từ 90% xuống
80%.
Trong vòng 7 tuần sau khi nợ công chạm ngưỡng tuần, Chính phủ Mỹ

có nguy cơ vỡ nợ với một số khoản; hàng loạt khoản chi tiêu ngân sách sẽ phải
rút bớt, tạm hoãn hoặc dừng hẳn, trong đó có cả lương quân đội và trợ cấp về
hưu, y tế, hoàn thuế
Khi nợ công vượt giới hạn mà Quốc hội không nâng ngưỡng giới hạn
này, các khoản vay của Chính phủ sẽ phải chịu lãi suất cao hơn, trong khi nhà
cửa sẽ tiếp tục mất giá và các khoản tiết kiệm hay lương hưu của người dân
Mỹ sẽ bị hao hụt.
Theo số liệu của FDIC, nợ liên bang đã tăng gấp đôi trong 7 năm qua
lên mức 14 nghìn tỷ USD, hậu quả trực tiếp từ khủng hoảng tài chính và việc
chính phủ không muốn hạn chế thâm hụt cấu trúc dài hạn. Nếu không quyết
sách nào được đưa ra, nợ liên bang của Mỹ có thể tăng từ mức 62% GDP vào
năm nay lên mức 185% GDP vào năm 2035.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
16
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Khi hơn 70% trái phiếu Bộ Tài chính Mỹ do nhà đầu tư tư nhân bên
ngoài nắm giữ đáo hạn trong 5 năm tới, việc nhà đầu tư kém tin tưởng vào
nước Mỹ sẽ khiến chi phí lãi vay của chính phủ và lĩnh vực tư nhân Mỹ tăng
lên.
Thêm vào đó, theo thông báo của Bộ Tài chính Mỹ, tính đến tháng một
Trung Quốc đã bán ròng trái phiếu chính phủ Mỹ trong 3 tháng liên tiếp. Hàng
loạt các quĩ đầu tư lớn nhất thế giới về trái phiếu chính phủ Mỹ cũng bắt đầu
bán tháo. Tổng số trái phiếu chính phủ Mỹ mà Trung Quốc nắm giữ trong
tháng một giảm 5,4 tỷ USD, xuống còn 1.155 tỷ USD, giảm liên tục trong ba
tháng liên tiếp. Tháng 12 năm ngoái, Trung Quốc đã bán ròng 4 tỷ USD trái
phiếu chính phủ Mỹ. Trong tháng 10/2010, số trái phiếu chính phủ Mỹ mà
Trung Quốc sở hữu đã giảm xuống mức kỷ lục 1.175 tỷ USD.
Các ngân hàng trung ương nước ngoài nắm giữ 3.150 tỷ USD trái phiếu
Chính phủ Mỹ trong tổng số 4.440 tỷ USD lưu hành ở nước ngoài.
Chưa hết, ngay cả quỹ đầu tư Pimco - quỹ đầu tư lớn nhất thế giới về

trái phiếu chính phủ và là một chi nhánh của tập đoàn tài chính bảo hiểm
Allianz khổng lồ - cũng đang bán dần trái phiếu chính phủ Mỹ. Pimco dự tính
giá trái phiếu chính phủ Mỹ sẽ đột ngột giảm mạnh, khi Ngân hàng Trung
ương Mỹ(FED)không còn tiếp tục mua trái phiếu chính phủ kể từ cuối tháng 6.
Nếu phân tích về con số, thâm hụt ngân sách của Mỹ trong những năm
gần đây đều là con số khổng lồ. Năm 2009 thâm hụt 1.420 tỷ USD, năm 2010
giảm xuống còn 1.290 tỷ USD, nhưng năm 2011 rất có thể thâm hụt đạt tới
9,8% GDP tương đương 1.450 tỷ USD.
Bội chi ngân sách, mức trần nợ công dâng lên đã tác động mạnh mẽ đến
nền kinh tế: Đồng USD mất giá làm cho các chỉ số niềm tin cả trong và ngoài
nước suy giảm, đồng USD không đi vào sản xuất kinh doanh mà tìm nơi trú ẩn
là vàng, làm cho giá vàng tăng vọt… Như vậy, lạm phát, giá cả tăng, thất
nghiệp luôn ở mức cao, số việc làm tạo ra không đáp ứng nhu cầu, đời sống
nhân dân giảm sút, uy tín quốc tế của Mỹ suy giảm… đó là hậu quả mà nền
kinh tế Mỹ đang phải gánh chịu.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
17
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Những thách thức đặt ra đối với các nước phát triển về nợ công
Đầu tiên, Chính phủ các nước dễ tổn thương trước những thay đổi
nhanh chóng và bất ngờ trong hành vi của nhà đầu tư, và hệ quả là những
chính sách cũng bị thay đổi theo để kịp thời thích nghi. Hơn thế nữa, các nhà
đầu tư sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn hoặc từ chối cho vay mượn trước nỗi lo về
khả năng vỡ nợ ở các quốc gia rủi ro cao. Hiện ba nước trong khu vực
eurozone là Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha đang phải gánh chịu áp lực này;
tuy nhiên các nước lớn khác trong khu vực eurozone và IMF đã cho các nước
này vay mượn để tránh nguy cơ vỡ nợ.
Thứ hai, sự cạnh tranh vốn của chính phủ cho những khoản nợ vay sẽ
đẩy lãi suất lên cao, gây khó khăn cho khả năng tiếp cận nguồn vốn của doanh
nghiệp, nhà đầu tư tư nhân.

Thứ ba, mức nợ công cao sẽ hạn chế khả năng ứng phó với những
khủng hoảng không mong muốn, ví dụ như thảm họa thiên nhiên. Điều này sẽ
ảnh hưởng đến khả năng hồi phục nhanh và bền vững của nền kinh tế trong
nước.
III. Tác động đối với nền kinh tế Việt Nam
Về ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới tới Việt Nam, nợ công của
Mỹ là hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Và có tác động trực tiếp
thế nào đến Việt Nam? Điều đó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa 2
nước. Tình hình hội nhập mở cửa của Việt Nam có sâu rộng với kinh tế Mỹ và
thế giới hay không?
Xét trên khía cạnh Đầu tư, hiện nay, Mỹ đứng thứ 6 trong số các nước
đầu tư vào Việt Nam. Mỹ cũng là nhà đầu tư (NĐT) lớn, nếu cộng cả giá trị
đầu tư qua các nước thứ 3 thì Mỹ là NĐT số 1 vào Việt Nam trong nhiều năm
qua. Các dự án từ Mỹ vào Việt Nam phần lớn là giai đoạn đầu và tập trung
nhiều vào hạ tầng dài hạn. Ngược lại, quan hệ về ngắn hạn chúng ta xuất sang
Mỹ nhiều hơn. Trên lĩnh vực thương mại, Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23-25%. Còn lại, quan hệ giữa 2 hệ
thống tài chính, ngân hàng gần như không đáng kể.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
18
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Về các tác động gián tiếp, Việt Nam chưa vào sâu trong cuộc chơi toàn
cầu nên đang có lợi thế là cơn tác động này chưa lan tới. Các nền kinh tế khác
trong những ngày qua đã bị ảnh hưởng. Lợi thế này tạo cho chúng ta cái nhìn
tốt về một nền kinh tế “an bình” không bị bão táp làm tan vỡ. Chính điều này
đã quyết định tính chất và quy mô của cơn địa chấn này đến nền Cuộc khủng
hoảng này tác động đến kinh tế Việt Nam trên một số mảng cơ bản: Lãi suất
cho vay liên ngân hàng quốc tế tăng dẫn đến nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các
ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp tăng, làm cho người dân dự đoán
đồng USD giảm nên họ đã rút đồng USD ra khỏi ngân hàng hoặc bán USD

mua tiền Việt Nam gửi vào,…
Diễn biến nợ công trong 5 năm gần nhất (tính theo %GDP)-Nguồn Bộ Tài chính
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về mặt tiền tệ đối với Việt Nam có lẽ
không đáng kể. Nếu như cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ nền kinh tế Mỹ ảnh
hưởng ngay lập tức tới các nền kinh tế hùng mạnh khác, thì cơn bão này đến
Việt Nam chậm hơn 1 nhịp. Nếu như sức tàn phá của cuộc khủng hoảng ở hầu
hết các nước thể hiện đầu tiên và rõ nét nhất là hệ thống tài chính, ngân hàng,
thì ở Việt Nam lại thể hiện trước hết là ở lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu và đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Sức ảnh hưởng mạnh nhất lại đè lên vai hàng triệu
người nông dân, thợ thủ công tham gia sản xuất hàng xuất khẩu. Những loại
chứng khoán mà hiện nay đang có vấn đề của những công ty chứng khoán và
bảo hiểm của Mỹ chưa bán ở Việt Nam. Hệ thống tiền tệ và thị trường vốn, thị
trường chứng khoán ở Việt Nam chưa lành mạnh, dễ tổn thương, dễ lâm vào
bất ổn chủ yếu là do các yếu tố trong nội bộ Việt Nam như thiếu tính công
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
19
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
khai, thiếu minh bạch, dân chúng khó tiếp cận, tồn tại giao dịch nội gián , chứ
không liên quan nhiều đến cuộc khủng hoảng ở Mỹ.
1. Ngành ngân hàng Việt Nam bị ảnh hưởng không đáng kể
bởi hầu hết các NH Việt Nam là NHTM, phục vụ cho vay tiêu dùng, cho vay
doanh nghiệp, độ phân tán rủi ro cao và không có sự liên thông đầu tư với các
ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ như các nước khác.
Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu
tư. Nếu có chăng cũng chỉ có thể xảy ra khả năng một số nhóm nhà đầu tư sẽ
làm động tác “xả hàng” cổ phiếu ngành ngân hàng nhằm làm trầm trọng thêm
tình hình để kéo giá cổ phiếu ngân hàng xuống.
2. Đầu tư trực tiếp (FDI) ở Việt Nam có lẽ cũng không bị
ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ. Các nhà đầu tư chính ở
Việt Nam là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan Ngay cả những công ty chế tạo của

Mỹ nếu có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc khủng hoảng
này mà đình hoãn kế hoạch đó. Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy kinh
tế Nhật suy thoái hầu như không ảnh hưởng gì đến FDI của họ ở Trung Quốc
và Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel tại Việt Nam cũng cho thấy công ty này
chậm triển khai kế hoạch đầu tư ở nước ta chủ yếu vì không bảo đảm được
nguồn nhân lực có trình độ cao cần thiết. Theo một khảo sát gần đây thì các
doanh nghiệp nước ngoài khi được hỏi họ nước nào là địa điểm mà họ sẽ chú
trọng đầu từ vào? Thì Việt Nam được nhiều người chọn lựa là thị trường mục
tiêu hàng đầu. Vì VIệt Nam có tình hình chính trị ổn định cộng thêm cơ sở
pháp lý của Việt Nam ngày càng được cải cách , làm thuận lợi cho các nhà đầu
tư nước ngoài. Cộng thêm khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng ít
bị chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng và được dự đoán là khu vực sẽ hồi phục
nhanh sau khủng hoảng.
3. Lĩnh vực xuất khẩu
Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy thoái của Mỹ có lẽ là ở
lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam. Nhưng phần lớn sản phẩm của ta xuất khẩu sang Mỹ là hàng
may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước mắt chỉ những mặt hàng này
gặp khó khăn. Dù Mỹ không gặp khủng hoảng, việc tập trung xuất khẩu một
số mặt hàng nhất định sang Mỹ dễ gây va chạm với các nhà sản xuất bản xứ.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
20
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Vấn đề của Việt Nam là phải nỗ lực chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất
khẩu theo hướng cao cấp hơn, đa dạng hơn. Trong thời gian trước mắt, Việt
Nam nên củng cố sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp để khi kinh tế Mỹ
hồi phục sẽ triển khai chiến lược xuất khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng hơn.
Đối với hoạt động xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu
Trước khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sản
phẩm dầu thô xuất khẩu chỉ tăng nhẹ trong mấy năm đầu của giai đoạn 2001 –

2006 sau đó giảm dần. Sự sụt giảm là do các mỏ dầu đã cạn kiệt trong khi việc
thăm dò và mua các mỏ dầu mới của các nước khác không mấy tiến triển khi
xảy ra suy thoái.
Nhiều nền kinh tế lớn bắt đầu từ Nhật, Nga, EU lâm vào tình trạng suy
thoái, Mỹ chính thức lâm vào suy thoái từ tháng 12/2007 thì giá dầu thô sụt
giảm mạnh cùng với đó là nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng tới mặt hàng
dầu của Việt Nam, đang từ ngưỡng cao xuống còn 50 USD/thùng. Kinh tế thế
giới bước vào giai đoạn suy thoái khiến giá dầu giảm mạnh, giá dầu giảm tác
động đến nguồn thu từ dầu mỏ Việt Nam. Tuy không chịu ảnh hưởng về thị
trường nhưng chịu ảnh hưởng về giá. Kim ngạch xuất khẩu nhóm này trong
năm 2008 đạt gần 5 tỷ USD giảm 40,1% tương đương 3,35 tỷ USD, trong đó
giảm do giá giảm 4,83 tỷ USD và tăng do lượng khoảng 1,48 tỷ USD. Lượng
dầu thô xuất khẩu năm 2008 là 14,5 triệu tấn và bắt đầu giảm từ năm 2009
xuống còn 12 triệu tấn, năm 2010 còn 11 triệu tấn tương đương với việc làm
giảm kim ngạch từ 11,3 tỷ USD năm 2008 xuống còn 7,2 tỷ USD năm 2009,
6,6 tỷ USD năm 2010. Mức giá dự tính dự tính sẽ giao động ở mức trung bình
khoảng 70 – 80 USD/thùng.Về than đá, cũng sẽ giảm dần do chủ trương kiểm
soát chặt chẽ xuất khẩu tài nguyên, mức xuất khẩu than duy trì 23 triệu tấn
năm 2008 xuống mức 20 triệu tấn năm 2009 và 18 triệu tấn năm 2010. Dự
kiến kim ngạch năm 2010 đạt 1,5 tỷ USD.
Đối với hoạt động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.
Do kinh tế Việt Nam đã mở cửa hội nhập khá sâu vào nền kinh tế khu
vực và thế giới nên không thể tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
này. Hoa Kỳ , EU, Trung Quốc là những thị trường quan trọng, có sức tiêu thụ
lớn hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam.
Trước khủng hoảng hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bị cạnh tranh ngày
càng khốc liệt bởi hàng xuất khẩu cùng loại của một số nước, hơn nữa khả
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
21
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

năng sản xuất mặt hàng nông, thuỷ sản gặp nhiều khó khăn, còn vấp phải
nhiều rào cản thương mại quốc tế và mức tăng tỷ giá trong những tháng đầu
năm 2009 đã làm cho khả năng xuất khẩu năm giảm hơn so với năm 2008.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông, lâm, thủy sản chính của
Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng lên từ 619 triệu USD (năm 2001) đến 1,8 tỷ USD
trong 9 tháng đầu năm 2008. Khi khủng hoảng tài chính, tín dụng xảy ra, kinh
tế Mỹ và các nước EU gặp khó khăn sức tiêu dùng giảm nên hàng Việt Nam
xuất khẩu vào thị trường lớn này gặp khó khăn. Những tác động này đã bắt
đầu bộc lộ từ giữa tháng 9 năm 2008, xuất khẩu chững lại giá xuất khẩu các
mặt hàng nông sản đều giảm so với các tháng trước, tổng kim ngạch xuất khẩu
nông, lâm, thủy sản tháng 9/2008 đạt 1,45 tỷ USD tăng 32,6% so với tháng
9/2007 và giảm 11% so với tháng 8/2008.
4. Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến
Năm 2008, do chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới nên hoạt
động xuất khẩu diễn biến không theo quy luật, những tháng đầu năm xuất
khẩu gặp thuận lợi về giá, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao trong 2 tháng 7 và
8 tuy nhiên đến tháng 9 xuất khẩu giảm mạnh và tiếp tục giảm trong những
tháng cuối năm. Nhu cầu của thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn đặt hàng
xuất khẩu dệt may, đồ gỗ vào Mỹ và đều giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn thì các chi phí đầu vào
không giảm thậm chí còn tăng cao. Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được
khoảng 64,8 tỷ USD, trong đó khoảng 32,1% giá trị xuất khẩu là hàng công
nghiệp nặng và khoáng sản, 45,2% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp, 23,5% là hàng nông, lâm, thuỷ sản.
Nhóm hàng công nghiệp chế biến, công nghiệp và thủ công mỹ nghệ
chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu do nhu
cầu của các mặt hàng này giảm mạnh. Trong những tháng đầu năm 2009, xuất
khẩu các mặt hàng dệt may, da giày, đồ gỗ đều gặp khó khăn do thị trường
tiêu thụ bị thu hẹp, các đơn hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ, giày dép vào Mỹ

đều giảm, nhiều hàng rào phi thuế quan và các biện pháp bảo hộ mậu dịch của
các nước được dựng lên. Chi phí đầu vào phục vụ cho sản xuất vẫn tăng cao
như lương công nhân và lãi suất ngân hàng. Tuy nhiên đến tháng 5, tháng
6/2009 kinh tế thế giới đã bắt đầu phục hồi kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
22
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
năm 2009 đạt 20,2 tỷ USD giảm 47% so với năm 2008. Lĩnh vực công nghiệp,
mặt hàng dệt may đạt 9,06 tỷ USD giảm 0,6% so với năm 2008, da giày đạt
khoảng 4,1 tỷ USD, xuất khẩu đồ gỗ với nhiều nỗ lực đạt khoảng 2,7 tỷ USD
trong năm 2009.
5. Đối với bất động sản.
Chỉ có FDI vào lĩnh vực khu cao ốc văn phòng, resort cao cấp là có thể
bị ảnh hưởng, tuy nhiên sự suy giảm trong lĩnh vực đầu tư này không phải là
điều đáng quan ngại.
6. Đối với thị trường chứng khoán.
Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư
(NĐT). Còn hoạt động của thị trường chứng khoán vẫn do các yếu tố nội tại
của nền kinh tế nước ta quy định. Điều này thấy rõ nhất khi mà thị trường
chứng khoán Việt Nam không còn quá bị ảnh hưởng của khối ngoại. Nhưng
tháng qua mặc cho các quỹ đầu tư nước ngoài thoái vốn hay khối ngoại bán
ròng thì thị trường chứng khoán VIệt Nam vẫn sôi động . Về mặt tâm lý ảnh
hưởng lớn đến thị trường do thị trường chứng khoán Việt Nam mới được hình
thành vì vậy việc chạy theo đám đông là điều không thể chánh khỏi ở thị trườn
Việt Nam. Mặc cho các công ty chứng khoán tại VIệt Nam có mối quan hệ
làm ăn với các công ty tổ chức nước ngoài hay không thì thị trường vẫn bị ảnh
hưởng theo.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ở thị trường nước ngoài có thể khiến
nguồn vốn đầu tư vào TTCK Việt Nam không được dồi dào. Nguồn tiền của
các tổ chức đầu tư ở Việt Nam cũng là tiền từ các công ty mẹ ở nước ngoài.

Nếu các công ty ở nước ngoài khó khăn thì công ty con ở Việt Nam cũng phải
dè dặt trong đầu tư. Điều này làm hạn chế nguồn cung của thị trường, làm cho
TTCK khó có thể tăng quá nhanh như vừa qua.
7. Đối với ngành du lịch.
Ngành du lịch Việt Nam cũng sẽ không bị tác động nhiều vì khách du
lịch vào Việt Nam rất đa dạng chứ không tập trung ở phân khúc khách cao
cấp.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
23
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
• Chương III
GIẢI PHÁP ĐỂ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG
CỦA MỸ ĐẾN VIỆT NAM
I. Bài học đối với thế giới
Trong làn sóng khủng hoảng kinh tế nối tiếp nhau từ Mỹ Latinh trong
thập niên 80 của thế kỷ trước cho tới cuộc khủng hoảng châu á giữa năm 1997,
các nước đã học được cách tiếp cận chính sách kinh tế có hiệu quả hơn và xây
dựng khung quản lý nợ công bền vững hơn. Nhưng thật đáng tiếc, nay lại tới
lượt châu Âu lâm nguy.
Cuộc khủng hoảng của châu Âu ban đầu chỉ là cuộc khủng hoảng tài
chính, rồi nhanh chóng phát triển thành cuộc khủng hoảng nợ công kinh điển
sau khi chính phủ phải can thiệp để cứu các ngân hàng.
Chính động thái đó lại gây ra một loạt nỗi lo mới về các ngân hàng được
cho là "dựa dẫm" vào sự bảo lãnh nợ của chính phủ. Khi đó nợ quốc gia dường
như không còn ổn định nữa.
Một trong những tiền lệ khó quên là vụ vỡ nợ ở Mỹ Latinh cách đây gần
30 năm. Vào tháng 8/1982 đất nước Mexico đã làm rung chuyển thế giới khi
Chính phủ tuyên bố không có khả năng trả nợ.
Gần như suốt mùa hè năm đó Mexico, nước được tiên lượng thâm hụt
ngân sách chiếm 11% GDP vẫn vay mượn trên thị trường quốc tế với chi phí

ngày càng bị đẩy lên cao hơn.
Các ngân hàng tự trấn an rằng đất nước không thể bị vỡ nợ. Nhưng rồi
những gì phải đến đã đến, một loạt nước vốn có mô hình kinh tế khác nhau lại
xếp hàng đổ vỡ theo hiệu ứng "domino."
Trong khi Mexico đi tới sự bùng nổ kinh tế dựa vào dầu mỏ nhờ cú sốc
dầu mỏ lần hai trong thập niên 70 của thế kỷ trước, thì đất nước áchentina lại
chìm trong cơ chế quản lý nền kinh tế yếu kém bởi chế độ độc tài quân sự.
Còn Brazil trải qua sự thần kỳ kinh tế với tốc độ tăng trưởng đầy ấn
tượng nhờ nhập khẩu vốn. tựu chung lại các nước này cùng tạo ra một vấn đề
chung và cực kỳ đơn giản: nợ nần quá mức.
Sự vỡ nợ của Mỹ Latinh ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng của tất cả
các nước công nghiệp chủ chốt, gây ra cái gọi là "tua lại" cuộc Đại suy thoái.
Nợ nần của Mexico liên đới tới 90% vốn hóa của các ngân hàng chủ chốt Mỹ.
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
24
NỢ CÔNG CỦA MỸ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Giải pháp được coi là sáng suốt vào thời điểm đó để tránh tình trạng vỡ
nợ cho bất kỳ nước vay nợ lớn nào ở Mỹ Latinh có sự kết hợp của ba nhân tố:
cứu trợ khẩn cấp của quốc tế thông qua Quỹ Tiền tệ Quốc tế, thực hiện cắt
giảm mạnh chi tiêu trong nước theo các điều kiện ngặt nghèo mà IMF đặt ra
và các ngân hàng bổ sung vốn.
Các tổ chức tài chính không hề xóa nợ cho Mỹ Latinh cho dù 5 năm sau
khi xảy ra khủng hoảng khi mà việc cắt giảm chi tiêu không còn đe dọa sự ổn
định của hệ thống ngân hàng. Thay vào đó chỉ là bắt đầu cho vay đối với các
dự án mới. Trong khi khu vực này vẫn được biết đến với tên gọi "một thập
niên bị đánh cắp."
Giải pháp của châu Âu hiện nay dường như đang lặp lại những gì đã xảy
ra trong thập niên 80 bị đánh cắp ở các nước đang phát triển. Đó là kết hợp sự
hỗ trợ quốc tế, các biện pháp thắt lưng buộc bụng và tuyên bố rõ ràng của các
ngân hàng về trách nhiệm tài chính đối với những vấn đề mà họ gây ra.

Cùng như các ngân hàng đồng hương trong thập niên 80 của Thế kỷ
trước, các "đại gia" châu Âu, trong đó các ngân hàng ở Đức, Anh và Pháp,
hiện nay đã "dính" vào những khoản tiền khổng lồ mà họ sai lầm nghĩ là nợ an
toàn.
Sự cắt giảm đáng kể nợ chủ quyền của các nước Eurozone dễ bị tổn
thương có sức công phá mạnh tới mức gây ra đợt hoảng loạn mới về ngân
hàng. Thừa nhận vấn đề này các ngân hàng có thể yêu cầu chính phủ cứu trợ.
Đó là tại sao cuộc khủng hoảng trở thành thách thức với Anh, Đức và Pháp.
Sáng kiến chung mà Pháp và Đức khởi xướng tại Deauville đầu tháng
11/2011 về các biện pháp tái cơ cấu nợ thực hiện sau năm 2013 đã cố gắng
tránh cú sốc tức thời của viện cắt giảm chi tiêu.
Nhưng việc loan báo trước khả năng xóa nợ vẫn dẫn tới mối lo bất ổn về
ngân sách. Do đó cần có sự bảo lãnh kèm theo điều kiện đối với một phần nợ
chưa thanh toán để át đi nỗi lo xóa hết nợ.
Cơ chế giải quyết nguy cơ vỡ nợ quốc gia theo trình tự sẽ góp phần
nâng cao năng lực quản trị toàn cầu và giải quyết các vấn đề lâu dài của thị
trường nợ quốc gia. Những đề xuất như vậy từng được thảo luận rộng rãi trong
những năm 1999-2000.
Phó giám đốc điều hành IMF Anne Krueger đã hối thúc triển khai Cơ
chế Tái Cơ cấu Nợ Chủ quyền nhằm đưa ra lộ trình pháp lý cho việc áp mức
Nhóm 7 – Lớp KTĐT32B
25

×