Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.05 KB, 70 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ về mọi mặt. Các
điều kiện kinh tế, xã hội được cải thiện đáng kể, cuộc sống nhân dân ngày một
khởi sắc, diện mạo đất nước ngày một vững bước đi lên.
Có được điều đó là do Đảng, Nhà nước đã có một chính sách phát triển
đúng đắn hợp lý gắn liền với thời cuộc. Trong đó phải kể tới quan điểm phát
triển kinh tế vẫn dựa trên nội lực là chính đã thu được nhiều thành tựu. Chúng ta
đang đẩy mạnh cải cách, phát triển tài chính nhằm tạo dựng nền tài chính quốc
gia vững mạnh, cơ chế tài chính phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững; giữ vững
an ninh tài chính quốc gia trong phát triển và hội nhập. Mặt khác, Đảng cũng
chủ trương phát triển toàn diện giữa nông thôn và thành thị, đồng bằng và miền
núi, thu hẹp tối đa khoảng cách giàu nghèo.
Trong đó ngân sách nhà nước với ý nghĩa là nội lực tài chính để phát triển,
trong những năm qua đã khẳng định vai trò của mình đối với toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế hàng năm lên tới hàng nghìn tỷ
đồng. Trên tinh thần phát triển kinh tế của Đại Hội Đảng X, ngân sách nhà nước
nói chung và ngân sách huyện nói riêng hơn lúc nào hết hiểu rõ trách nhiệm, sứ
mệnh của mình trong tình hình mới - là động lực của sự phát triển. Với chủ
trương phát triển toàn diện của Đảng, cấp ngân sách huyện đang ngày càng thể
hiện rõ chức năng, vai trò, nhiệm vụ của mình trên địa bàn địa phương.
Mặt khác ngân sách huyện có vai trò cung cấp phương tiện vật chất cho
sự tồn tại và hoạt động của chính quyền huyện và cấp chính quyền cơ sở đồng
thời là một công cụ để chính quyền huyện thực hiện quản lý toàn diện các hoạt
động kinh tế xã hội trên địa bàn huyện. Tuy nhiên do ngân sách huyện là một
cấp ngân sách trung gian ở giữa ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp xã nên đôi
khi ngân sách huyện chưa thể hiện được vai trò của mình đối với kinh tế địa
phương.
1
Do vậy để chính quyền huyện thực thi được hiệu quả những nhiệm vụ kinh


tế xã hội mà nhà nước giao cho thực hiện chiến lược phát triển kinh tế nhà nước,
kinh tế địa phương trên các lĩnh vực đặc biệt là nông nghiệp nông thôn tại địa
bàn thì cần có một ngân sách huyện đủ mạnh và phù hợp là một đòi hỏi thiết
thực, là một mục tiêu phấn đấu đối với cấp huyện. Vì thế hơn bao giờ hết hoàn
thiện trong đổi mới công tác quản lý ngân sách huyện là một nhiệm vụ luôn
được quan tâm.
Xuất phát từ vấn đề này, trong thời gian thực tập tại phòng tài chính – kế
hoạch huyện Bắc Sơn, Tỉnh Lạng Sơn, với những kiến thức đã đựơc tiếp thu ở
nhà trường cùng với sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo cô giáo đặc biệt là cô
giáo Phan Thị Hạnh cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ phòng tài chính – kế
hoạch đã hướng dẫn em tập trung tìm hiểu và phân tích tình hình quản lý ngân
sách huyện trên địa bàn huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn với đề tài: “Hoàn thiện
công tác quản lý ngân sách huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn”
Mục đích của đề tài là thông qua nghiên cứu tình hình quản lý ngân sách
huyện trên địa bàn huyện nhằm tìm ra những giải pháp thiết thực góp phần củng
cố tăng cường công tác quản lý ngân sách huyện trên địa bàn huyện Bắc Sơn
được tốt hơn.
Đề tài được trình bày theo nội dung sau:
Chương 1: Ngân sách nhà nước và sự cần thiết tăng cường quản lý
ngân sách nhà nước huyện trong điều kiện hiện nay.
Chương 2: Thực trạng quản lý ngân sách huyện trên địa bàn huyện
Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn trong những năm vừa qua (2004 – 2007)
Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng hòan thiện công tác quản lý
ngân sách huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Qua việc nghiên cứu đề tài, em đã lĩnh hội được nhiều kiến thức mới về
quản lý ngân sách nói chung và ngân sách huyện nói riêng, cả về lý luận và thực
tiễn tuy nhiên không tránh khỏi sai sót do trình độ còn hạn chế.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Phan Thị
Hạnh; sự giúp đỡ của các cô, chú Phòng Tài chính – kế hoạch Huyện Bắc Sơn
để em hoàn thành chuyên đề này.

2
CHƯƠNG 1:
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
NGÂN SÁCH NHÀ NỨƠC HUYỆN TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
1.1 Ngân sách nhà nước
1.1.1 Khái niệm ngân sách nhà nước
Trong hệ thống tài chính thống nhất ngân sách nhà nước là khâu tài chính
tập trung giữ vị trí chủ đạo. Ngân sách nhà nước cũng là khâu tài chính được
hình thành sớm nhất, nó ra đời tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ
thống quản lý nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hoá tiền tệ. Cho đến
nay, thuật ngữ “ ngân sách nhà nước”được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh
tế xã hội ở mọi quốc gia. Song, quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống
nhất. Trên thực tế, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước
không giống nhau tuỳ theo quan điểm của người định nghĩa thuộc các trường
phái kinh tế khác nhau hoặc tuỳ theo mục đích nghiên cứu khác nhau.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển thì ngân sách nhà
nước là một văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi của chính phủ được
thiết lập hàng năm.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
ngân sách nhà nước. Các nhà kinh tế Nga cho rằng “ ngân sách nhà nước là bảng
liệt kê các khoản thu chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của nhà nước”
Các nhà kinh tế Pháp đưa ra quan điểm: “ngân sách nhà nước là văn kiện
được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó, các nghiệp
vụ tài chính (thu, chi) của một tổ chức công (Nhà nước, chính quyền địa
phương, đơn vị công) hoặc tư ( doanh nghiệp, hiệp hội) được dự kiến và cho
phép”.
Còn ở Trung Quốc: “ngân sách nhà nước là kế hoạch thu - chi tài chính
hàng năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định”.
ở Việt Nam, ít nhất cũng có những nghĩa khác nhau về ngân sách nhà
nước :

3
Giáo trình quản lý tài chính công: ngân sách nhà nước là dự toán hàng năm
về toàn bộ các nguồn tài chính được huy động cho nhà nước và sử dụng các
nguồn tài chính đó nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước do Hiến
pháp quy định.
Giáo trình quản lý tài chính nhà nước: ngân sách nhà nước là một phạm trù
kinh tế lịch sử gắn liền với sự ra đời của nhà nước, gắn liền với kinh tế hàng hoá
- tiền tệ. Nói một cách khác, sự ra đời của nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng
hoá tiền tệ như những điều kiện cần và đủ cho sự phát sinh tồn tại của kinh tế
hàng hoá tiền tệ những điều kiện cần và đủ cho sự phát sinh tồn tại của ngân
sách nhà nước. Hai tiền đề nói trên xuất hiện rất sớm trong lịch sử, nhưng thuật
ngữ ngân sách nhà nước lại xuất hiện muộn hơn, vào buổi bình minh của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Thuật ngữ này chỉ các khoản thu và các
khoản chi của nhà nước để thể chế hoá bằng pháp luật thực hiện quyền lập pháp
về ngân sách nhà nước ( quyết định về các khoản thu, các khoản chi, tổng số thu,
tổng số chi ..) còn quyền hành pháp giao cho chính phủ thực hiện. Trong thực tế
vai trò điều hành ngân sách của chính phủ rất lớn nên còn thuật ngữ “ngân sách
chính phủ “ mà thực ra là nói tới “Ngân sách nhà nước”.
Giáo trình lý thuyết tài chính: “ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế và
phạm trù lịch sử. Ngân sách nhà nước được đặc trưng bằng sự vận động của các
nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của
nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối
các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ
yếu”.
Luật ngân sách nhà nước đã được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20 – 03 – 1996 cũng có
ghi: “ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự
toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”
Trong khi đa số đều dừng ở khâu dự toán thì quan niệm của Luật Ngân

sách nhà nước đã đề cập đến khâu lập và thực hiện dự toán ngân sách. Quan
4
niệm của Luật ngân sách là sâu sắc hơn cả, vừa phản ánh được nội dung cơ bản
của ngân sách ( toàn bộ các khoản thu, chi ) vừa thể hiện được tính chất “dự
kiến” chưa xảy ra của ngân sách (trong dự toán ) đồng thời cũng phản ánh quá
trình chấp hành ngân sách ( được thực hiện ); vừa phản ánh tính niên độ của
ngân sách ( trong một năm ) đồng thời thể hiện được tính pháp lý của ngân sách
( đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định ); vừa thể hiện quyền chủ
sở hữu ngân sách (thu, chi nhà nước ) đồng thời cũng thể hiện vị trí, vai trò,
chức năng của ngân sách nhà nước (đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước ).
Như vậy định nghĩa về ngân sách như trong Luật ngân sách nhà nước sửa
đổi năm 1998 là đúng đắn. Định nghĩa này đã nhìn nhận ngân sách nhà nước
một cách toàn diện theo nhiều góc độ khác nhau.
1.1.2 Quá trình hình thành và phân cấp ngân sách nhà nước
ở việt nam ngân sách nhà nước xuất hiện và tồn tại từ lâu song các hoạt
động của nó chỉ nhằm phục vụ chủ yếu cho nhu cầu hưởng thụ của vua chúa và
nuôi dưỡng quân đội. Chỉ sau khi sự xâm lăng của thực dân Pháp đã đạt được
kết quả sự cai trị của chúng đã chuyển từ các viên chức quân sự sang tay các
viên chức dân sự và hai thành phố Hà Nội Hải Phòng được công nhận là hai
thành phố có tư cách pháp nhân có ngân sách riêng vào năm 1981 mở đầu cho
việc hình thanhg ngân sách độc lập của các tỉnh và thị xã khác, thì cơ chế tài
chính và hệ thống ngân sách ở nước ta mới được hình thành đầy đủ và hoàn
chỉnh.
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công ( năm 1945) Nhà nước ta đã thực
hiện quyền lực về ngân sách nhà nước đã có nhữung chính sách mang tính chất
cách mạng triệt để, như sắc lệnh về việc bãi bỏ thuế thân, hình thành hệ thống
thuế mới với quan điểm giảm bớt gánh nặng thuế khoá cho dân nghèo. Tiếp theo
đó là hàng loạt các biện pháp nhằm khẳng định quyền lực về tài chính và củng
cố ngân sách của nhà nước Việt Nam, như phát hành tiền kim khí ( ngày 1-12-

1946) và giấy bạc Việt Nam (ngày 3 - 2- 1946); đặt ra “ Quỹ Độc lập” nhằm huy
5
động vốn cho ngân sách nhà nước. Nói chung trong giai đoạn kháng chiến
( 1946 – 1954) thì vấn đề huy động và chi tiêu của ngân sách nhà nước đều
nhằm mục đích phục vụ kháng chiến thắng lợi. Đến năm 1967 chế độ phân cấp
quản lý ngân sách ra đời. Hệ thống ngân sách nhà nước bao gồm: ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương( các tỉnh, thành phố ở phía Bắc). Như vậy
cách mạng tháng Tám thành công đến năm 1967 chỉ có một ngân sách nhà nước.
Năm 1972 Nhà nước ban hành “điều lệ ngân sách xã” ngân sách xã được
xây dung nhưng chưa được tổng hợp ngân sách nhà nước.
Năm 1978 Chính phủ ra quyết định số 108/CP ngân sách địa phương được
phân thành hai cấp: ngân sách tỉnh ( thành phố) và ngân sách huyện( quận).
Với nghị quyết 138/HĐBT ( ngày 19 – 11- 1983) ngân sách xã được tổng
hợp vào ngân sách nhà nước và hệ thống ngân sách nhà nước gồm bốn cấp:
- ngân sách trung ương
- ngân sách tỉnh, thành phố
- ngân sách huyện ( quận, thị xã).
- ngân sách xã ( phường, thị trấn).
Nhằm phù hợp với điều kiện mới của đất nước trong thời kỳ mới, ngày 20
– 03- 1996 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua
luật Ngân sách nhà nước. Luật này có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 1997.
Theo đó thì hệ thống ngân sách nước ta được chia ra làm bốn cấp:
- ngân sách trung ương
- ngân sách cấp tỉnh
- ngân sách cấp huyện
- ngân sách cấp xã
1.1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước
Vai trò tất yếu của ngân sách nhà nước ở mọi thời đại và trong mọi mô
hình kinh tế là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, là vai trò quan trọng
của ngân sách trong cơ chế thị trường. Vai trò này về mặt cụ thể có thể đề cập

6
đến ở nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng khác nhau song trên góc độ
tổng hợp có thể khái quát trên ba khía cạnh sau:
1.1.3.1 Vai trò của ngân sách nhà nước trong phân phối tổng sản phẩm xã
hội
Vai trò này thể hiện ở các mặt chủ yếu sau: Xác định một cách khoa học
đặt ra một tỷ lệ huy động tổng sản phẩm xã hội vào ngân sách nhà nước, lấy đó
làm căn cứ để điều chỉnh quan hệ nhà nước với doanh nghiệp và dân cư trong
phân phối tổng sản phẩm xã hội. Xác định quan hệ thuế trong tổng sản phẩm,
đảm bảo nhà nước có nguồn thu thường xuyên, ổn định, thực hiện điều tiết hợp
lý lợi ích trong nền kinh tế quốc dân. Xác định các hình thức huy động ngoài
thuế trên thị trường tài chính, dưới các hình thức công trái quốc gia, trái phiếu
kho bạc, nhằm trang trải bội chi ngân sách nhà nước. Xác định vai trò quyền sở
hữu tài sản công và tài nguyên quốc gia để giải quyết nguồn huy động.
1.1.3.2 Vai trò của ngân sách nhà nước trong ổn định và tăng trưởng kinh
tế
Thể hiện ở việc kích thích, tạo hành lang, môi trường và gây sức ép. Nhà
nước thực hiện chính sách thuế để vừa kích thích vừa gây sức ép. Tạo điều kiện
thuận lợi trên các mặt tài chính, để khuyến khích các thành phần kinh tế có
doanh lợi trong đầu tư phát triển. Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội,
tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư khai thác tài nguyên, sức lao động, thị
trường...Đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn các công trình trọng điểm, các
cơ sở kinh tế then chốt để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, để có thêm những sản
phẩm chủ lực tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật làm chỗ dựa cho các ngành các
thành phần kinh tế trong phát triển kinh tế. Kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn
định tiền tệ giá cả thị trường, góp phần ổn định và phát triển sản xuất, ổn định
đời sống nhân dân.
1.1.3.3 Vai trò của ngân sách nhà nước trong việc ổn định chính trị bảo vệ
thành quả cách mạng
Vai trò của ngân sách nhà nước trong phân phối tổng sản phẩm xã hội,

trong ổn định và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, tạo điều kiện
7
cho ổn định chính trị thông qua ngân sách nhà nước bảo đảm các nhu cầu và
điều kiện để không ngừng hoàn thiện bộ máy nhà nước, phát huy vai trò của bộ
máy nhà nước trong việc quản lý mọi lĩnh vực của đất nước, bảo đảm an ninh,
quốc phòng, bảo vệ và phát triển những thành tựu đã đạt được trong sự nghiệp
cách mạng.
1.1.3.4 Vai trò kiểm tra của ngân sách nhà nước
Thông qua ngân sách nhà nước kiểm tra quá trình phát triển kinh tế quốc
dân, cũng như các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhằm thúc đẩy, phát
hiện, khai thác tiềm năng kinh tế, kiểm tra bảo vệ tài sản quốc gia, tài sản nhà
nước, chống thất thoát lãng phí, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về ngân sách
nhà nước, kỷ luật tài chính, bảo đảm trật tự kỷ cương trong hoạt động tài chính.
Ngoài ra ngân sách đảm bảo chi thường xuyên, quốc phòng, an ninh là
ngân sách can thiệp vào kinh tế. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát
triển kinh tế dù đó là kinh tế kế hoạch tập trung hay kinh tế thị trường. Với ý
nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo cho Nhà nước
chủ động thực hiện chính sách tài khoá nới lỏng hoặc thắt chặt, thực hiện kích
cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, không một Nhà nước nào
không sử dụng ngân sách để tác động vào nền kinh tế. Tuy nhiên trong thực tế,
vai trò công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định, điều tiết vĩ mô của một Ngân
sách phát triển đã được nhận thức vận dụng rất khác nhau tuỳ thuộc quan niệm
của mỗi Nhà nước, tuỳ theo bối cảnh kinh tế của mỗi thời kỳ.
Tất cả những điều đó thể hiện vị trí quan trọng của ngân sách nhà nước
với tư cách là một công cụ tài chính vĩ mô sắc bén, nhạy cảm, hiệu quả để Nhà
nước can thiệp, điều chỉnh nền kinh tế. Do đó, Nhà nước cần phải nắm chắc cơ
chế tác động của thu, chi ngân sách đối với kinh tế thông qua nhận thức đầy đủ
và làm chủ cơ chế tác động của hiệu ứng kích thích kinh tế của ngân sách nhà
nước để phát huy vai trò thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ

mô của ngân sách nhà nước.
8
1.2 Ngân sách nhà nước huyện và sự cần thiết phải tăng cường quản lý
ngân sách nhà nước huyện trong điều kiện hiện nay
1.2.1 Lịch sử hình thành ngân sách nhà nước huyện
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ngân sách nhà nước ta
tổ chức thành hai cấp: Ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh, thành phố. Việc
phân cấp như vậy là phù hợp với nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền trong việc
huy động tối đa nguồn lực tài chính. ở thời kỳ này, ngân sách nuyện đóng vai trò
là một cấp dự toán.
Ngày 15 /5 /1978, với chủ chương xây dựng huyện thành một cấp có cơ
cấu kinh tế hoàn chỉnh, có tư cách là một đơn vị kinh tế công nông nghiệp phát
triển toàn diện, Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị Quyết 108 /CP xác định quyền
hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp huyện về quản lý tài chính,
ngân sách. Nghị quyết có quy định các khoản thu, chi ngân sách huyện. Ngày 19
/11 /1983, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 138 / HĐBT về cải tiến phân
cấp ngân sách địa phương, nói rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của ngân sách
huyện.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đà đổi mới của nền kinh tế đất nước, ngân sách huyện cũng được xác
định lại vai trò, nhiệm vụ của mìmh. Cụ thể, ngày 27 /11 /1989 Hội đồng Bộ
trưởng đã ra nghị quyết số 186 /HĐBT vè phân cấp quản lý ngân sách địa
phương trong đó có Ngân sách Huyện. Ngày 16 /2 /1992 HĐBT ban hành Nghị
quyết số 186 / HĐBT sửa đổi bổ sung nghị quyết186 / HĐBT ngày 27/11/1989.
Kỳ họp thứ 8 Quốc Hội khoá IX khẳng định: huyện là một cấp chính
quyền có ngân sách, ngân sách huyện là một bộ phận hợp thành ngân sách địa
phương thuộc hệ thống ngân sách nhà nước.
Như vậy, ngân sách huyện là một cấp ngân sách thực hiện vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của ngân sách nhà nước trên phạm vi địa bàn huyện.

Khảo sát quá trình hình thành ngân sách huyện, nhận thấy ngân sách
huyện từ một cấp dự toán đã trở thành một cấp ngân sách có nguồn thu và nhiệm
9
vụ chi riêng. Đó là một lối đi đúng đắn trong quá trình phát triển nền tài chính
quốc gia. Trước tiên, nó giúp cho Ngân sách cấp tỉnh, trung ương giảm được
khối lượng công việc. Tiếp theo, nó giúp cho các cấp chính quyền có thể nắm
bắt được tình hình kinh tế nói chung và tài chính nói riêng từ cơ sở.
Ngân sách huyện mang bản chất của ngân sách nhà nước, đó là mối quan
hệ giữa ngân sách huyện với các tổ chức, cá nhân trên địa bàn huyện trong quá
trình phân bổ, sử dụng các nguồn lực kinh tế của huyện, mối quan hệ đó được
điều chỉnh, điều tiết sao cho phù hợp với bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của công nhân và nhân dân lao
động, bộ phận người chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội. Do vậy, lợi ích của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam không có gì hơn ngoài mong muốn được phục
vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Có thể nói, việc Ngân sách Huyện trở thành một cấp ngân sách đã làm
cho bộ mặt ngân sách nhà nước mang một diện mạo, sắc thái mới, nền tài chính
quốc gia trở nên lành mạnh và hiệu quả hơn. Thực tế đã chứng minh, trong
những năm qua, xét riêng ở cấp độ huyện, tình hình kinh tế - tài chính có những
bước tiến đáng kể. Ngoài ra, Ngân sách Huyện còn thể hiện bản chất chính trị
của Nhà nước ta thông qua việc thực hiện đúng đắn, hiệu quả, có sáng tạo các
chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu
điểm đã pháy huy được là một loạt những hạn chế cần khắc phục kịp thời, đòi
hỏi sự quan tâm, tâm huyết của các cá nhân, ban, ngành phối hợp cùng giải
quyết.
1.2.2 Vai trò của Ngân sách Huyện
Như đã nêu trong định nghĩa Ngân sách Huyện có vai trò của ngân sách
nhà nước trên địa bàn huyện. Đó là vai trò đảm bảo chức năng Nhà nước; an
ninh, quốc phòng; thúc đẩy phát triển, ổn định kinh tế; bù đắp những khiếm

khuyết thị trường, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
1.2.2.1 Ngân sách Huyện bảo đảm thực hiện vai trò Nhà nước, bảo vệ an ninh
trật tự cấp Huyện.
10
Là một cấp chính quyền Huyện cũng tổ chức ra cho mình một hệ thồng các
cơ quan, đoàn thể hành chính nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Điều đó cũng có nghĩa là để cho các cơ quan đoàn thể đó hoạt động được cần
phải có một quỹ tài chính tập trung cho nó- Đó chính là Ngân sách Huyện. Mặc
dù không lớn mạnh như ngân sách trung ương nhưng Ngân sách Huyện cũng tạo
cho mình một vị thế nhất định nhằm chủ động trong việc thực hiện chức năng
Nhà nước ở điạ phương. Tuỳ theo phạm vi địa lý, tình hình kinh tế xã hội trên
từng Huyện mà nhu cầu đảm bảo này là khác nhau.
Hiện nay, nước ta có trên hàng triệu công chức đang làm việc trong cả
nước. Để duy trì hoạt động của bộ máy này phải tốn một khoản Ngân sách
khổng lồ. Nhưng trong khi Nhà nước đang chắt chiu từng đồng thì ở một số đơn
vị việc sử dụng Ngân sách vẫn lãng phí, sai phạm. Do vậy, đòi hỏi Ngân sách
Huyện, với tư cách là Ngân sách của các đơn vị cơ sở cần phải quản lý chặt chẽ,
cấp phát đúng chính sách, chế độ, hạn mức làm sao cho bộ máy Nhà nước hoạt
động tốt mà vẫn tiết kiệm, hiệu quả.
Trong các chức năng của Nhà nước, chức năng đảm bảo an ninh trật tự,
quốc phòng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là công cụ quyền lực của Nhà
nước, nhằm bảo vệ ý chí của Nhà nước, tạo điều kiện an toàn để Huyện phát
triển mọi mặt. Để đảm bảo cho chức năng đặc biệt này, Ngân sách Huyện cần
phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, có các khoản dự phòng hợp lý.
1.2.2.2 Ngân sách Huyện là công cụ thúc đẩy, phát triển ổn định kinh tế
Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế - tài chính của cấp tỉnh, cấp trung ương,
cấp Huyện cần phải sử dụng các công cụ sẵn có của mình để điều tiết , định
hướng. Một trong những công cụ đắc lực là Ngân sách. Sẽ không có một cơ câú
kinh tế ổn định, phát triển nếu bỏ qua công cụ này. Các Huyện phải căn cứ vào
thế mạnh của địa phương mình để định hướng, hình thành cơ cấu kinh tế, kích

thích phát triển. Đồng thời các Huyện phải cung cấp kinh phí, vốn đầu tư, hỗ trợ
về cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Thuế là một phương tiện đắc lực trong điều tiết vĩ mô kinh tế, Huyện có
thể sử dụng công cụ này để điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Ngoài ra cấp Huyện phải
11
xây dựng cho mình một tiềm lực kinh tế riêng, đó là các doanh nghiệp Nhà nước
do cấp Huyện quản lý. Loại hình doanh nghiệp này phải đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế Huyện
1.2.2.3 Ngân sách Huyện là phương tiện bù đắp khiếm khuyết thị trường,
đảm bảo công bằng xã hội, gìn giữ môi trường.
Đây là vai trò không thể thiếu đối với Ngân sách mỗi quốc gia. Nó có tác
dụng xoa dịu nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là
chạy theo lợi nhuận bất chấp hậu quả. Do đó, một loạt các vấn đề xảy đến: Thất
nghiệp, hố ngăn cách giàu nghèo tăng, không quan tâm đến người già, trẻ em,
người tàn tật, lừa đảo, chiếm đoạt, môi trường ô nhiễm... Những điều đó tạo ra
cho nền kinh tế - xã hội một vực thẳm phía trước. Cấp huyện theo dõi các báo
cáo tổng hợp từ cấp xã, phường phải có biện pháp giải quyết.
Ngoài việc quan tâm đến đời sống vật chất của người lao động, Huyện
phải thường xuyên quan tâm đến đời sông văn hoá, tinh thần của quần chúng,
cải tạo các sân chơi, phương tiện giải trí lành mạnh, tiến bộ. Các dịch vụ công
cộng như giáo dục, y tế phải giảm được chi phí cho người dân, làm sao để ai
cũng được học hành, chăm sóc sức khoẻ đầy đủ.
1.2.3 Nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước huyện
1.2.3.l Nội dung thu ngân sách huyện
Đây là quá trình tạo lập, hình thành ngân sách huyện, đóng vai trò quan
trọng, quyết định đến khâu sau: chi ngân sách. Để đảm bảo nguồn thu cho ngân
sách cần phải có chính sách thu hợp lý hiệu quả. Chính sách thu Ngân sách là
tập hợp các biện pháp, chủ trương nhằm huy động nguồn thu vào cho ngân sách
nhà nước
* Vị trí của chính sách thu Ngân sách

Thứ nhất, chính sách thu Ngân sách là một bộ phận trong quản lý kinh tế
nói chung và quản lý tài chính nói riêng. Việc tăng hay giảm thu ở một lĩnh vực
nào đó được thực hiện theo chiến lược phát triển kinh tế, tài chính vĩ mô. Một
khi chính sách thu ngân sách thay đổi thì lập tức cơ cấu kinh tế, dù ít hay nhiều
cũng có sự chuyển dịch. Bởi vì, đối tượng thu của Ngân sách là rất đa dạng,
12
rộng lớn, phong phú, đặc biệt là nhạy cảm với các chính sách thu (thuế, phí, lệ
phí...).
Thứ hai, các chính sách thu của ngân sách có tác động đến các chính sách
quản lý kinh tế, tài chính khác. Dường như vị trí này trùng lắp vị trí trên, nhưng
không, nó hoàn toàn khác. Các chính sách kinh tế, tài chính khác ở đây là thuộc
các lĩnh vực ngoài ngân sách (kinh tế, tài chính của các tổ chức, doanh
nghiệp...). Do việc có ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp nên
ngân sách nhà nước có thể can thiệp sâu vào doanh nghiệp.
* Các quan điểm cần quán triệt khi xây dựng và thực hiện các chính sách
thu ngân sách
Một là, các chính sách thu phải góp phần vào khuyến khích và phát triển
sản xuất kinh doanh, mở rộng lưu thông hàng hoá và thúc đẩy cạnh tranh lành
mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Như phần trên đã
trình bày, các đối tượng nộp thuế rất nhạy cảm với việc đánh thuế. Thế mà, việc
thu thuế là có giới hạn, có nghĩa là, thu bằng thuế chỉ đạt được kết quả tối đa tại
một điểm thuế suất nào đó. Đây là hiện tượng “thuế giết thuế, có nghĩa là với
chủ trương tăng thuế để tăng thu Ngân sách, nhưng đến khi thực hiện lại có tác
động ngược lại: Sản xuất kinh doanh bị đình trệ, hiện tượng trốn thuế phát triển
do tâm lý “lười lao động”.
Hai là, chính sách thu phải đảm bảo tâp trung quản lý hợp lý nguồn thu
cho Ngân sách, đồng thời bảo đảm mức sống hợp lý cho các đối tượng dân cư
dọ tác động của chính sách thu. Theo quy định của Nhà nước, tất cả các khoản
đều được tập trung vào Kho Bạc Nhà nước cùng với sự phối hợp của Ban Tài
Chính, cơ quan thuế, Hải quan.

Ba là, chính sách thu phải đảm bảo công bằng xã hội cho các tầng lớp dân
cư. ở đây bao gồm cả công bằng theo chiều dọc và công bằng theo chiều ngang.
Công bằng theo chiều dọc có nghĩa là đối tượng nào có khả năng nộp thuế nhiều
hơn phải nộp nhiều hơn. Công bằng theo chiều ngang có nghĩa là các đối tợng
có khả năng nộp thuế như nhau sẽ phải nộp thuế như nhau.
13
Bốn là, chính sách thu phải đảm bảo tính quần chúng. Do trình độ của các
đối tượng nộp thuế là khác nhau, thậm chí chênh lệch rất lớn, việc đưa ra một
chính sách thuế quá khó hiểu, phức tạp là một sai lầm. Bởi vì chi phí cho việc
tuyên truyền, giải thích chính sách thu đó sẽ rất lớn. Khi đó, chính sách thu có
khi lại phản tác dụng. Do đó, nội dung chính sách thu phải đơn giản, dễ hiểu, dễ
thực hiện, dễ dàng được chấp nhân.
* Các khoản thu của Ngân sách Huyện
Theo quy định của pháp luật, Ngân sách Huyện có các nguồn thu như sau:
Các khoản thu 100%
a) Thuế môn bài thu từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các hộ sản xuất
kinh doanh ngoài quốc doanh gồm:
Từ bậc 1 đền bậc 3 thu trện địa bàn xã, thị trấn
b) Thuế sát sinh thu từ các doanh nghiệp giết mổ gia súc trên địa
bàn phường.
c) Các khoản phí và lệ phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc cấp
Huyện quản lý.
d) Tiền thu từ hoạt động sự nghiệp của các đơn vị do cấp Huyện quản lý.
đ) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho cấp
Huyện theo quy định của pháp luật.
g) Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước
cho Ngân sách Huyện.
h) Thu từ xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thu từ các hoạt
động chống buôn lậu và kinh doanh trái phép luật theo phân cấp của tỉnh.
i) Thu kết dư ngân sách cấp huyện.

k) Bổ xung từ ngân sách cấp tỉnh.
l) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp
tỉnh và Ngân sách Huyện và Ngân sách xã, thị trấn.
a) Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
b) Thuế nhà đất.
14
c) Tiền sử dụng đất.
d) Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa Ngân sách cấp tỉnh
và Ngân sách trung ương, do tỉnh quy định trong phạm vi tỉnh được phân cấp.
e) Các khoản thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế tài nguyên; lệ phí trước
bạ nhà đất; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào mặt hàng
(Ngân sách địa phương hưởng 100%). Việc phân cấp cho Ngân sách các cấp
( tỉnh, huyện, xã ) do cấp tỉnh quy định. Riêng tỷ lệ phần trăm phân chia thuế sử
dụng đất nông nghiệp cho xã, thị trấn tối đa là 100%, tối thiểu là 20%.
1.2.3.2 Nội dung chi của Ngân sách Huyện
Nếu như quá trình thu là quá trình tạo lập, hình thành Ngân sách thì chi
Ngân sách là quá trình sử dụng Ngân sách. Nó ngược lại hoàn toàn với quá trình
thu nhưng lại chịu sự điều khiển của quá trình thu ( Không thể chi nhiều trong
khi thu ít và ngược lại ) đồng thời, lại tạo thêm nguồn thu ( Đầu tư Ngân sách
nhàn rỗi vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh ).
Chi Ngân sách là quá trình sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo nguyên
tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã
hội của Nhà nước.
* Đặc điểm chi Ngân sách Huyện
Với tư cách là một quá trình sử dụng quỹ ngân sách nhà nước, chi Ngân
sách huyện có các đặc điểm sau:
Một là, chi tiêu Ngân sách luôn gắn liền với các nhiệm vụ kinh tế, chính
trị, xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong mỗi thời kỳ. Đặc điểm này có thể nhìn
ra từ vai trò của Ngân sách và bản chất Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà

nước mang bản chất chính trị, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, ổn định
phát triển kinh tế, đảm bảo xã hội ổn định, phát triển.
Hai là, tác dụng của các khoản chi Ngân sách bao giờ cũng được xem xét
ở tầm vĩ mô bởi vì thông thường, những khoản chi Ngân sách sẽ phát huy tác
dụng trong phạm vi nhất định. Việc chi tiêu Ngân sách Huyện phải phát huy
được tác dụng trong phạm vi Huyện.
15
Ba là, tính hiệu quả của các khoản chi được thể hiện toàn diện trên các
mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc điểm này là biểu hiện mối quan hệ giữa tài
chính với kinh tế, chính trị, xã hội.
* Một số yêu cầu cần đạt được trong quá trình chi Ngân sách.
Thứ nhất, khi xem xét, đánh giá tính hiệu quả của chi Ngân sách, chúng ta
phải xây dựng một loạt các chỉ tiêu, chỉ số bao gồm cả định tính và định lượng.
Điều đó sẽ giúp cho các nhà phân tích đúng đắn hơn, đánh giá chính xác hơn
tính hiệu của của chi Ngân sách.
Thứ hai, thực hiện chi Ngân sách đúng dự toán, tiết kiệm, hiệu quả.
Nhiệm vụ chi của Ngân sách -Huyện
Chi thường xuyên về:
a) Các hoạt động sự nghiệp giáo dục đào tạo, Ytế thực hiện theo phân cấp
của tỉnh.
b) Các hoạt động sự nghiệp văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, xã hội và
các sự nghiệp khác do cơ quan cấp huyện quản lý.
c) Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do cơ quan cấp huyện quản lý:
- Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi.
- Giao thông.
- Sự nghiệp thị chính.
- Các sự nghiệp kinh tế khác.
- Quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội.
+ Quốc phòng: Giáo dục quốc phòng; tuyển quân và đón tiếp
quân nhân hoàn thành nghĩa vụ; đăng ký quân nhân dự bị; huấn

luyện dân quân tự vệ.
+ An ninh, trật tự và an toàn xã hội: Tuyên truyền giáo dục
quần chúng bảo vệ an ninh; hỗ trợ các chiến dịch giữ gìn an ninh;
tổng kết phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc; hỗ trợ trật tự, an ninh
cơ sở.
đ) Hoạt động của các cơ quan Nhà nước cấp huyện.
e ) Hoạt động của cơ quan cấp huyện của ĐCS Việt nam.
16
g ) Hoạt động của cơ quan cấp huyện, của Mặt trận tổ quốc Việt nam,
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh VIệt nam, Hội liên
hiệp phụ nữ, Hội Nông Dân Việt nam.
h ) Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp cấp Huyện theo quy
định của pháp luật.
i ) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Chi đầu tư phát triển:
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo
phân cấp của tỉnh, thành phố.
- Chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông quốc lập, các công trình phúc
lợi công cộng, điện chiếu sáng cấp thoát nước, giao thông nội thị, an toàn giao
thông vệ sinh đô thị.
- Chi bổ xung cho Ngân sách cấp dưới.
Cấp phát kinh phí, các khoản chi của Ngân sách -Huyện
Căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước năm được giao và dự toán
Ngân sách quý; căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi, Phòng Tài chính-
Vật giá tiến hành cấp phát kinh phí theo nguyên tắc cấp trực tiếp đến các đơn vị
sử dụng Ngân sách và thanh toán trực tiếp từ Kho bạc Nhà nước cho người được
hưởng
Các hình thức cấp phất kinh phí:
a) Cấp phát bằng hạn mức kinh phí
Đối tượng cấp phát theo hình thức hạn mức kinh phí là các khoản chi

thường xuyên của các đơn vị dự toán của ngân sách nhà nước , bao gồm :
- Các cơ quan hành chính Nhà nước
- Các đơn vị sự nghiệp hoạt động dưới hình thức thu đủ , chi đủ
hoặc gán thu - bù chi.
- Các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội
nghề nghiệp thường xuyên được ngân sách nhà nước cấp kinh phí.
b) Cấp phát bằng hình thức lệnh chi tiền
17
Đối tượng cấp phát theo hình thức lệnh chi tiền là các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế - xã hội không có quan hệ thường xuyên với Ngân sách , các
khoản giao dịch của Chính Phủ với các tổ chức và cá nhân nước ngoài; các
khoản bổ sung từ Ngân sách cấp trên cho Ngân sách cấp dưới và một số khoản
chi đặc biệt khác theo quyết định của thủ trưởng cơ quan tài chính .
c) Chi cho vay của Ngân sách Huyện
Đối với các khoản chi cho vay của Ngân sách Huyện cơ quan tài chính
chuyển nguồn cho cơ quan được giao nhiệm vụ cho vay hoặc chuyển tiền theo
hợp đồng cho tổ chức được vay trong trường hợp cho vay trực tiếp .
Cơ quan được giao nhiệm vụ cho vay hoặc cơ quan tài chính trong trường
hợp cho vay trực tiếp có trách nhiệm quản lý, cho vay, thu hồi nợ gốc, lãi nộp
vào NSNN và quyết toán theo chế độ quy định.
d) Chi trả nợ vay của Ngân sách Huyện
Đối với các khoản chi trả nợ, Chi cục Kho bạc Nhà nước thực hiện thanh
toán theo lệnh chi của Phòng Tài chính - Vật giá.
e) Đối với chi sự nghiệp kinh tế:
Cơ quan Tài chính, Kho bạc Nhà nước thực hiện cấp phát, thanh toán theo
quy trình cấp phát hạn mức kinh phí trừ một số khoản kinh phí sự nghiệp kinh tế
có tính chất đặc thù Bộ Tài chính có văn bản hướng dẫn riêng.
f) Đối với các khoản chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia
Đối với các khoản chi đã giao cho các đơn vị trực tiếp thực hiện thì cấp
phát theo quy trình.

Đối với các khoản chi uỷ quyền thì cơ quan tài chính cấp trên chuyển kinh
phí uỷ quyền cho cơ quan tài chính cấp dưới để cấp phát .
g) Cấp phát và cho vay vốn đầu tư xây d ựng cơ bản :
Thực thiện theo quy trình quy định của Chính Phủ, Bộ Tài chính sẽ hướng
dẫn thêm.
h) Chi bằng hiện vật và ngày công lao động
Đối với các khoản chi Ngân sách bằng hiện vật: Căn cứ vào biên bản bàn
giao hiện vật, giá hiện vật được duyệt, cơ quan tài chính quy đổi ra đồng Việt
18
nam để làm lệnh ghi thu, ghi chi Ngân sách gửi Kho bạc Nhà nước để hạch toán
thu, chi ngân sách nhà nước .
Đối với các khoản chi bằng ngày công lao động: Căn cứ giá ngày công lao
động được duyệt, cơ quan tài chính làm lệnh ghi thu, ghi chi gửi Kho bạc Nhà
nước để hạch toán thu, chi Ngân sách
i) Cấp phát kinh phí uỷ quyền:
Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan
quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ thuộc chức năng của mình thì
phải chuyển kinh phí từ Ngân sách từ cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm
vụ đó. Hình thức chuyển kinh phí chủ yếu bằng hạn mức kinh phí. Đối với các
khoản chi nhỏ, nội dung chi đã xác định rõ thì có thể chuyển kinh phí bằng hình
thức lệnh chi tiền.
k) Cấp phát cho các tổ chức chính trị-xã hội và tổ chức xã hội-nghề
nghiệp:
- Đối với các tổ chức chính trị -xã hội:
+ Các tổ chức chính trị -xã hội được Ngân sách bảo đảm cân đối
kinh phí hoạt động theo quy định.
+ Sau khi được giao nhiệm vụ chi Ngân sách, từng tổ chức chính trị
-xã hội thực hiện phân bổ dự toán Ngân sách (Phần được ngân sách nhà
nước cấp ) chi tiết theo Mục lục ngân sách nhà nước hiện hành.
+ Cơ quan tài chính thực hiện cấp phát kinh phí hàng quý cho các

tổ chức chính trị- xã hội theo quy trình cấp phát hạn mức kinh phí quy
định, trừ các trường hợp đặc biệt thủ trưởng cơ quan tài chính quyết định
cấp phát bằng lệnh chi tiền.
- Đối với các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp thuộc đối
tượng được Nhà nước tài trợ kinh phí theo quy định:
+ Cấp phát theo hình thức hạn mức kinh phí như các tổ chức chính trị -xã
hội nếu là tài trợ thường xuyên.
+ Cấp phát theo hình thức lệnh chi tiền nếu được tài trợ đột xuất theo
mục tiêu cụ thể.
19
1.2.4 Sự cần thiết phải tăng cường ngân sách huyện trong điều kiện hiện nay
1.2.4.1 Dự toán Ngân sách quý
Trên cơ sở nhiệm vụ thu cả năm được giao và nguồn thu dự kiến phát sinh
trong quý, cơ thu lập dự toán thu Ngân sách quý có chia ra khu vực kinh tế, địa
bàn và đối tượng thu chủ yếu và hình thức thu, gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
Dự toán thu quý gửi trước ngày 10 của tháng cuối quý trước.
Trên cơ sở dự toán chi cả năm được duyệt và nhiệm vụ phải chi trong
quý, các đơn vị sử dụng Ngân sách lập dự toán chi quý (có chia tháng), chi tiết
theo các mục trên của mục lục ngân sách nhà nước gửi cơ quan quản lý cấp trên.
Cơ quan quản lý cấp trên tổng hợp, lập dự toán chi Ngân sách quý (có chia ra
tháng ), gửi cơ quan tài chính đồng cấp trước 10 ngày của tháng cuối quý trước .
Cơ quan tài chính căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi trong quý lập dự
toán điều hành Ngân sách quý báo cáo UBND. Trong báo cáo, cân đối Ngân
sách phải được lập một cách chắc chắn, đồng thời nêu rõ các biện pháp thực
hiện và các kiến nghị cần thiết đối với các cấp có thẩm quyền.
1.2.4.2Tổ chức thu Ngân sách Huyện .
Căn cứ và tờ khai thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước của các
tổ chức cá nhân có nghĩa vụ phải nộp Ngân sách, cơ quan thu kiểm tra, xác định
số thuế và các khoản phải nộp Ngân sách và ra thông báo thu Ngân sách gửi đối
tượng nộp.

Nếu hết thời hạn nộp tiền trong thông báo thu Ngân sách mà tổ chức, cá
nhân vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ nộp thì cơ quan thu được quyền yêu cầu Ngân
Hàng hoặc Kho Bạc Nhà nước trích số tiền phải nộp từ tài khoản của tổ chức, cá
nhân đó để nộp Ngân sách hoặc áp dụng các biện pháp tài chính khác để thu
Ngân sách.
Phương thức thu ngân sách nhà nước: Toàn bộ các khoản thu của ngân
sách nhà nước phải nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước trừ các khoản dưới đây
do cơ quan thu có thể thu trực tiếp song phải định kỳ nộp vào Kho bạc Nhà nước
trong thời hạn quy định:
-Thu phí, lệ phí
20
-Thu thuế Hộ kinh doanh không cố định
-Các khoản thu ở địa bàn xã, nơi không có điểm thu của Kho bạc
Nhà nước .
*Hoàn trả các khoản thu Ngân sách Huyện .
Các trường hợp được trả thu Ngân sách là:
+Thu không đúng chính sách, chế độ.
+Trả lại đối tượng nộp theo chính sách của Nhà nước .
Việc hoàn trả các khoản thu Ngân sách được thực hiện theo các nguyên
tắc sau:
Một là, Ngân sách Huyện được hưởng khoản thu này từ cơ quan tài chính
cấp Huyện ra quyết định hoàn trả. Nếu khoản thu đã phân chia giữa Ngân sách
các cấp thì cơ quan tài chính ở cấp cao nhất ra quyết định hoàn trả.
Hai là, khoản thu đã hạch toán vào chương, loại, khoản, mục, tiểu mục
nào thì hoàn trả từ chương, loại, mục, tiểu mục đó. Trường hợp hoàn trả cho
khoản thu đã quyết toán vào niên độ Ngân sách các năm trước cơ quan tài chính
ra lệnh cấp hoàn trả vào chương “ Các quan hệ khác của Ngân sách".
Ba là, khoản thu đã hạch toán và quỹ Ngân sách Huyện thì được hoàn trả
từ quỹ Ngân sách Huyện .
Bốn là, căn cứ vào chứng từ hoàn trả của cơ quan tài chính, Kho Bạc Nhà

nước hạch toán giảm thu hoặc hạch toán chi ngân sách nhà nước và thanh toán
trực tiếp cho đối tượng được hưởng .
*Tăng giảm thu, chi Ngân sách
Số tăng thu hoặc tiết kiệm chi số dự toán được đuyệt được sử dụng để
giảm bội chi, tăng trả nợ hoặc bổ sung quỹ dự chữ tài chính, hoặc tăng chi một
số khoản cần thiết khác, kể cả tăng chi cho Ngân sách cấp dưới nhưng không
được tăng chi về quỹ tiền lương, trừ trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách
về tiền lương hoặc các khoản trợ cấp, thưởng có tính chất tiền lương.
Nếu giảm thu so với dự toán được duyệt thì phải xắp xếp lại để giảm một
số khoản chi tương ứng.
21
Khi phát sinh các công việc đột xuất như khắc phục hậu quả thiên tai, địch
hoạ và các nhu cầu chi cấp thiết chưa được bố trí hoặc bố trí chưa đủ trong dự
toán được giao mà sau khi xắp xếp lại các khoản chi, cơ quan chủ quản đơn vị
sử dụng Ngân sách không xử lý được thì từng cấp phải chủ động sử dụng dự
phòng cấp mình để xử lý. Nếu không còn dự phòng Ngân sách thì sắp xếp lại chi
để đáp ứng nhu cầu chi đột xuất.
*Xử lý thiếu hụt tạm thời
Khi xảy ra thiếu hụt Ngân sách tạm thời do nguồn thu và các khoản vay
trong kế hoạch tập trung chậm hoặc có nhiều nhu cầu phải chi trong cùng thời
điểm dẫn đến mất cân đối tạm thời về quỹ Ngân sách .
Ngân sách Huyện được vay quỹ dự trữ tài chính của tỉnh theo quyết định
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh. Các khoản vay quỹ dự trữ tài chính phải
được hoàn trả trong năm Ngân sách. Nếu đến thời hạn mà không trả thì bên cho
vay có quyền yêu cầu Kho bạc Nhà nước trích tài khoản của bên vay để trả nợ.
*Sử dụng quỹ dự phòng, quỹ dự trữ tài chính.
Dự phòng Ngân sách được sử dụng để khắc phục hậu quả thiên tai, địch
hoạ và trong trừơng hợp phát sinh nhu cầu chi cấp thiết chưa được bố trí.
Quỹ dự trữ tài chính được sử dụng để cho vay hoặc đầu tư .
*Kế toán và quyết toán Ngân sách Huyện .

Các cơ quan quản lý Ngân sách Huyện, các đơn vị dự toán có trách
nhiệm tổ chức thực hiện công tác kế toán Ngân sách thuộc phạm vi quản lý,
lập quyết toán thu chi Ngân sách, tổng hợp báo cáo quyết toán Ngân sách.
*Tổ chức bộ máy kế toán Ngân sách
Đơn vị dự toán và cấp chính quyền, phải tổ chức bộ máy kế toán Ngân
sách. Những cán bộ làm công tác kế toán phải được bố trí theo đúng chức danh
tiêu chuẩn quy định của Nhà nước và được bảo đảm quyền độc lập về chuyên
môn nghiệp vụ.
Khi thay đổi cán bộ kế toán phải thực hiện bàn giao giữa cán bộ kế toán
cũ với cán bộ kế toán mới, cán bộ kế toán cũ vẫn phải chịu trách nhiệm về công
22
việc của mình đã làm kể từ ngày bàn giao về trước, cán bộ kế toán mới phải chịu
trách nhiệm về công việc của mình kể từ ngày nhận bàn giao.
Khi giải thể, sát nhập hoặc chia tách đơn vị kế toán, thủ trưởng và kế toán
trưởng hoặc người phụ trách công tác kế toán phải hoàn thành việc quyết toán
của đơn vị cũ đến thời điểm đó.
*Khoá sổ kế toán Ngân sách
Hết kỳ kế toán ( tháng, quý, năm ) các đơn vị dự toán và Ngân sách các
cấp chính quyền phải thực hiện công tác khoá sổ kế toán.
*Báo cáo kế toán thu, chi Ngân sách
Các đơn vị dự toán các cấp phải báo cáo kế toán theo chế độ kế toán hành
chính sự nghiệp và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Cơ quan kho bạc Nhà nước tổ chức hạch toán và kế toán xuất, nhập quỹ
ngân sách nhà nước theo chế độ kế toán Kho bạc Nhà nước.
Cơ quan tài chính phải tổ chức hạch toán kế toán và báo cáo kế toán thu,
chi ngân sách nhà nước theo chế độ kế toán ngân sách nhà nước hiện hành.
Hàng tháng, lập báo cáo thu ngân sách nhà nước , chi Ngân sách địa phương
gửi uỷ ban nhân dân và cơ quan tài chính cấp trên.
*Quyết toán Ngân sách
Nguyên tắc lập báo cáo quyết toán Ngân sách:

- Số liệu trong báo cáo quyết toán phải chính xác trung thực. Nội
dung báo cáo quyết toán Ngân sách phải theo đúng các nội dung ghi trong
dự toán được duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo Mục lục ngân
sách nhà nước .
- Báo cáo quyết toán năm của đơn vị dự toán gửi cơ quan tài chính
phải gửi kèm các báo cáo sau đây:
+ Bảng cân đối tài khoản cuối ngày 31/12.
+ Báo cáo thuyết minh quyết toán năm.
( Báo cáo quyết toán năm phải có xác nhận của Kho bạc Nhà nước)
- Báo cáo quyết toán Ngân sách của các đơn vị dự toán và của các
cấp chính quyền không được quyết toán chi lớn hơn thu.
23
- Cấp dưới không được quyết toán các khoản kinh phí uỷ quyền của
Ngân sách cấp trên vàobáo cáo quyết toán Ngân sách cấp mình.
Phòng Tài chính có trách nhiệm thẩm tra báo cáo quyết toán thu, chi Ngân
sách cấp Huyện; tổng hợp báo cáo thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; quyết
toán thu, chi Ngân sách Huyện trình uỷ ban nhân dân huyện để gửi Sở tài chính
- Vật giá và hội đồng nhân dân Huyện phê chuẩn. Trường hợp báo cáo quyết
toán năm do hội đồng nhân dân Huyện phê chuẩn có thay đổi so với quuết toán
năm do UỶ ban nhân dân Huyện đã gửi Sở tài chính - Vật giá thì UỶ ban nhân
dân Huyện phải báo cáo bổ sung, điều chỉnh gửi Sở tài chính - Vật giá.
1.2.4.3 Sự cần thiết của công tác quản lý Ngân sách Huyện
Ngân sách Huyện là thuộc về chính quyền Huyện, nó thể hiện tiềm lực tài
chính của chính quyền Huyện. Thế nhưng tiềm lực đó phải tương xứng với nền
kinh tế của Huyện, có nghĩa là phải đủ mạnh, đủ lớn để có thể đáp ứng được các
yêu cầu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của huyện. Vậy làm cách nào có thể
tạo dựng được một Ngân sách Huyện đủ lớn mạnh để đáp ứng những yêu cầu
trên? Không còn cách nào khác là phải quản lý Ngân sách Huyện và không
ngừng nâng cao hiệu quả quản lý Ngân sách Huyện.
Cho nên quản lý Ngân sách Huyện là sự cần thiết bởi:

Thứ nhất, không có một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nào tự nguyện nộp
thuế cho Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế, phí luôn luôn tìm cách trốn thuế,
tránh thuế, lách thuế, thậm chí còn “rút ruột thuế”. Như chúng ta dã biết, trong
những năm qua, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng khuyến khích xuất khẩu đã tạo
ra những “lỗ hổng”, tạo điều kiện cho kẻ xấu lợi dụng chính sách hoàn thuế đã
“rút” ngân sách đền hàng trăm tỷ đồng. Thế mà, thuế lại là nguồn thu chủ yếu của
Ngân sách. Nếu như các đối tượng nộp tự nguyện nộp thuế thì Ngân sách sẽ rỗng
không. Lý do này xuất phát từ đặc điểm “không hoàn trả trực tiếp” của thuế. Khác
với phí và lệ phi, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp: Nếu như các đối tượng
nộp phí, lệ phí thì họ sẽ được hưởng trực tiếp các hàng hoá, dịch vụ mà nhà nước
cung cấp còn thuế thì không, các đối tượng phải nộp thuế mà không thu được bất
cứ hàng hoá dịch vụ nào.
24
Thứ hai, các đối tượng được Ngân sách cấp phát chi sẽ ra sức “rút ruột”
Ngân sách để phục vụ cho tổ chức, cá nhân mình mà không nghĩ đến tổ chức cá
nhân khác. Đây là hiện tượng làm lãng phí, thất thoát Ngân sách.
1.2.4.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý Ngân sách Huyện
* Nhân tố khách quan
Ngân sách Huyện là một trong các nguồn tài chính trong nền kinh tế thị
trường. Do vậy, nó chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế khách quan.
Nhân tố giá cả
Giá cả là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, do
vậy nó có tác động mạnh đến Ngân sách. Người ta thường phân tích giá cả thông
qua các chỉ số: Lạm phát; chỉ số giá tiêu dùng...
Thông thường, khi lập dự toán, các cấp Ngân sách đều phải quan tâm đến
yếu tố giá cả được biểu hiện qua chỉ số lạm phát, nếu không chấp hành dự toán
sẽ vấp phải những cản trở khó khăn đó là “vỡ kế hoạch”. Khi lạm phát tăng
nhanh, giá cả trượt dài, các khoản thu, chi theo kế hoạch sẽ không thể đảm bảo
tính hiệu quả được.
Tuy nhiên, Ngân sách lại có thể điều chỉnh được giá cả thông qua chính

sách tiền tệ, chính sách tài khoá và một loạt các công cụ kinh tế vĩ mô khác tác
động vào các quy luật kinh tế trên thị trường.
Các nhân tố về văn hoá, chính trị, xã hội
Ngày nay, khi thế giới đang chuyển biến manh mẽ theo xu hướng toàn
cầu hoá, khu vực hoá, các sự kiện chính trị diễn ra liên tiếp. Các cuộc chiến
tranh đều mang màu sắc văn hoá. Các dân tộc quốc gia đang tìm cho mình
những nét riêng, độc đáo khi phát triển và hội nhập. Tất cả các sự kiện đều ảnh
hưởng đến nền kinh tế, do đó mà ảnh hưởng đến Ngân sách .
Trong phạm vi huyện, Ngân sách huyện chịu ảnh hưởng của các chính
sách, chủ trương của Đảng là c hính. Các yếu tố về văn hoá xã hội cũng đóng
một vai trò quan trọng trong quản lý Ngân sách
* Nhân tố chủ quan
25

×