Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quá trình hình thành phát triển các khu công nghiệp và tác động của nó đến sự phân bố nguồn lao động tỉnh Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.98 KB, 93 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
[\ @ [\




VƯƠNG MINH HÙNG







QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH -PHÁT TRIỂN CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ
PHÂN BỐ NGUỒN LAO ĐỘNG
TỈNH BÌNH DƯƠNG



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC ĐỊA LÝ

Chuyên ngành : ĐỊA LÝ – KINH TẾ – XÃ HỘI
Khóa : 12
Mã số : 01.07.02




Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. NGUYỄN KIM HỒNG




TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG - 2002


CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNKT Công nhân kỹ thuật
CCKT Cơ cấu kinh tế
CN-XD Công nghiệp xây dựng
CNH Công nghiệp hóa
DV Dòch vụ
GDP Tổng sản phẩm nội đòa
GNP Tổng sản phẩm quốc dân
HĐH Hiện đại hóa
HDI Chỉ số phát triển con người
HĐKT Hoạt động kinh tế
KCN Khu công nghiệp
LĐ Lao động
NLN Nông-Lâm-Ngư
MSDC Mức sống dân cư
ĐH và CĐ Đại học và Cao đẳng
TNBQ Thu nhập bình quân
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh

UBND Ủy ban Nhân dân
XĐGN Xóa đói giảm nghèo


Lời Cảm Ơn

#"

Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến thầy
hướng dẫn khoa học PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng, Phó Hiệu trưởng Trường Đại
học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo tận tình trong suốt
quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ sau Đại
Học, Khoa Đòa lý Trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận
lợi trong việc học tập, trang bò kiến thức để tác giải có thể hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc KTX Trường Đại học Sư phạm TP.Hồ
Chí Minh, các thầy cô giáo trong tổ quản lý SV đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện
hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn đến các cơ quan: Sở NN và PTNT, Sở Tài
Nguyên và Môi Trường, Sở Kế Hoạch & Đầu Tư, Cục Thống Kê, Sở Công Nghiệp,
Sở Thương Binh Lao Động Xã Hội, Ban Quản Lý các khu công nghiệp Bình Dương,
Tổ chức Chính quyền tỉnh Bình Dương... đã giúp đỡ nhiệt tình, cung cấp tài liệu, số
liệu, cho phép tác giả được tham khảo nhiều tư liệu quý báu, hữu ích để hoàn thành
luận văn này.
Tác giả chân thành cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp gần xa, gia đình và
những người thân đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.

Tác Giả Luận Văn
VƯƠNG MINH HÙNG


MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Bình Dương là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ và là một trong bốn
tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam. Bình Dương có
vò trí đòa lý hết sức thuận lợi, là cửa ngõ phía Bắc TP.Hồ Chí Minh, nối liền
với Quốc lộ 13, Quốc lộ 14, Quốc lộ 1A, Đường sắt Xuyên Á. Đây là điều
kiện hết sức thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp.
Nằm cạnh TP.Hồ Chí Minh, một trung tâm kinh tế thương mại – công
nghiệp và khoa học kỹ thuật, nên Bình Dương dễ dàng thu hút nguồn vốn,
nhân lực – khoa học kỹ thuật, đồng thời lại sử dụng được hầu hết các cơ sở hạ
tầng sẵn có của TP.Hồ Chí Minh như: sân bay, bến cảng đường bộ. Bản thân
Bình Dương có hệ thống giao thông vô cùng thuận lợi.
Hơn nữa, đất đai Bình Dương không phải là loại đất có giá trò về mặt
nông nghiệp, có nền vững, chi phí xây dựng rẻ hơn các tỉnh trong vùng. Đặc
biệt, Bình Dương là tỉnh có chính sách thông thoáng, dễ thu hút đầu tư trong
và nước ngoài.
Trong những năm qua, vận dụng đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng
với cách dám nghó, dám làm nên kinh tế Bình Dương có tốc độ phát triển khá
cao, đặc biệt là trong lónh vực phát triển công nghiệp và xây dựng.
Với chính sách thu hút đầu tư thông thoáng, tạo môi trường đầu tư
thuận lợi, Bình Dương có bảy khu công nghiệp hoạt động, nhiều khu công
nghiệp khác cũng đã được phê duyệt và đang được xây dựng hạ tầng kỹ
thuật, thu hút nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước. Với sự hình thành các
khu công nghiệp đã xảy ra quá trình đô thò hóa, và nông thôn của tỉnh đổi
thay từng ngày. Nó tác động trực tiếp đến sự phân bố dân cư và nguồn lao
động của tỉnh.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài trên nhằm góp phần
vào việc đánh giá tốc độ, những mặt khó khăn, mặt thuận lợi trong việc phát


triển các khu công nghiệp hiện nay trên đòa bàn của tỉnh cũng như tìm hiểu
những qui luật của nó tác động đến sự phân bố dân cư và lao động của tỉnh.
Đồng thời, tác giả cũng đã tham khảo một số các chính sách và đưa ra giải
pháp phát triển nguồn nhân lực công nghiệp của tỉnh Bình Dương.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
:
1. Mục tiêu của đề tài
:
Phân tích được những ưu điểm và hạn chế của tỉnh Bình Dương về sự
hình thành và phát triển các khu công nghiệp để nắm bắt xu thế của sự phát
triển các khu công nghiệp.
− Phát triển của các khu công nghiệp tác động đến sự phân bố dân cư
và lao động của tỉnh.
− Một số chính sách và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của các khu công nghiệp và phát triển nguồn lao động của tỉnh.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
:
− Những tác động của sự hình thành các khu công nghiệp và ảnh hưởng
của nó đến sự phân bố nguồn lao động của tỉnh.
− Đánh giá lại mặt được và chưa được để đề xuất những phương án tối
ưu và các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, tạo môi
trường kinh tế thuận lợi cho sự phát triển nguồn nhân lực.
III. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
:
− Đề tài đi sâu về việc phân tích quá trình hình thành và phát triển các
khu công nghiệp của tỉnh Bình Dương, tác động của nó đến sự phân bố dân cư
và nguồn lao động của tỉnh Bình Dương.
− Đề tài nghiên cứu sự hình thành từ năm 1993 đến nay, đặc biệt là tập
trung đánh giá về lợi thế của tỉnh và những chủ trương xây dựng khu công

nghiệp và tác động của nó đến sự phân bố dân cư. Các tài liệu đều cập nhật
đến năm 2003.

IV. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:
Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp là vấn đề thời sự nóng
bỏng đã lôi cuốn nhiều tác giả, chuyên gia quan tâm nghiên cứu:
− Năm 1995, PGS. Nguyễn Văn Thái đã đưa ra công trình Nghiên cứu
đánh giá toàn bộ khu chế xuất ở Việt Nam. Lê Văn Ninh đưa ra công trình
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp tập trung ở Việt
Nam. Tác giả đã phân tích những luận cứ khoa học hình thành và phát triển
các quan điểm cũng như nghiên cứu lập qui hoạch phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam. Năm 2002, có công trình biên soạn của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan đại diện phía Nam xuất bản Khu chế xuất và khu
công nghiệp ở các tỉnh phía Nam. Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng 12/2002 đã
cho ra Kỷ yếu khu công nghiệp- khu chế xuất Việt Nam. Các quyển sách này
đã giới thiệu chi tiết và đặc trưng cơ bản của từng khu công nghiệp, liệt kê
các dự án đầu tư phân chia theo ngành, vùng và quốc gia.
− Bản báo cáo tổng hợp: Đònh hướng chuyển dòch cơ cấu nội bộ các
ngành kinh tế, vùng kinh tế phía Nam, tháng 4/2002, chủ nhiệm đề tài
TS. Trần Du Lòch. PGS. TS. Đặng Văn Phan và các thành viên đề tài này phân
tích hiện trạng chuyển dòch cơ cấu kinh tế vùng trọng điểm phía Nam, đánh giá
vấn đề tồn tại đối với sự phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
− Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Các khu công nghiệp, khu chế xuất Việt
Nam – Hiệu quả hoạt động và xu hướng phát triển, tháng 5/2004, chủ nhiệm
đề tài Thạc só Lê Thò Hương.
V. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
:
1. Hệ quan điểm nghiên cứu
:
1.1. Quan điểm hệ thống

:
Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, sự tác động của cách
mạng khoa học kỹ thuật – công nghệ cùng với đòi hỏi tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Hầu hết các quốc gia hiện nay đều quan tâm đặc biệt về
việc tìm kiếm những cách thức và giải pháp phát huy hiệu quả tiềm năng

nguồn lực của con người. Do vậy, khi xem xét tổng thể các hệ thống trong
mối quan hệ kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển, chất lượng nguồn nhân
lực càng cao thì quá trình hình thành và chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo
hướng phát triển mạnh mẽ hơn.
1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
:
Khi nghiên cứu vấn đề phát triển các khu công nghiệp Bình Dương, ta
không chỉ tách rời vấn đề tác động của nó trong việc hình thành và phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các khu công nghiệp quốc gia vì nó
có mối quan hệ hữu cơ trong cơ cấu tổng hợp lãnh thổ cả nước, là một mối quan
hệ tổng hòa vì sự thay đổi của yếu tố này sẽ dẫn đến sự thay đổi yếu tố khác.
1.3. Quan điểm lòch sử – viễn cảnh
:
Quan điểm này được thể hiện rõ nét nhất là khi sự phát triển các khu
công nghiệp và sự phân bố lại vấn đề nhân sự và nguồn lao động, nó là mắt
xích của hệ quả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Đây là vấn đề đòa lý – lòch sử ta phải nắm bắt những tư liệu quá khứ và
hiện tại sẽ làm rõ được bản chất của vấn đề nghiên cứu. Vì vậy, khi nghiên
cứu nguồn lao động, nếu đứng trên quan điểm lòch sử người nghiên cứu mới
có sự phản ánh khách quan, có cái nhìn sâu sắc mới xác đònh được chính xác
các nguyên nhân, hiện tượng, quá trình phát triển và phân bố lao động theo
thời gian.
1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
:

Với quan điểm này cho phép ta huy động cao nhất về khả năng các
nguồn nhân lực. Trước hết là nội lực để khai thác có hiệu quả tiềm năng và
lợi thế của vùng. Đồng thời, tăng cường sự phối hợp, liên kết với các đòa
phương để phát huy sức mạnh tổng hợp để nhằm tạo sự ổn đònh và bền vững
trên cơ sở bảo vệ môi trường, giữ vững an ninh, quốc phòng và trật tự an toàn
xã hội.
2. Phương pháp nghiên cứu
:

2.1. Phương pháp đònh tính:
Khảo sát thực đòa và thu thập thông tin cơ sở, tác giả đã đến tận nơi các
khu công nghiệp, khu dân cư và kết hợp khảo sát các phương tiện giao thông
vận tải, những điều kiện xây dựng hạ tầng cơ sở.
2.2. Phương pháp đònh lượng
:
• Phương pháp thống kê.
• Phương pháp phỏng vấn các chuyên gia, nhà quản lý.
2.3. Phương pháp bản đồ, biểu đồ và đồ thò
:
Đây là phương pháp đặc thù của khoa học Đòa Lý. Các bản đồ trong đề
tài cho phép ta biết kết quả nghiên cứu sẽ rất hữu dụng trong việc phân tích,
so sánh, các vấn đề nghiên cứu được thể hiện một cách sinh động hơn.
Các bản đồ trong đề tài được thành lập trên cơ sở phần mềm Mapinfo
7.5 và Arview 3.1.
2.4. Phương pháp thôngkê, phân tích và so sánh

Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã khai thác tối đa và có hiệu quả đối với
những số liệu thống kê đã được công bố, phần lớn là những tư liệu về sự hình
thành các khu công nghiệp, quá trình phát triển và tình hình phân bố dân cư
qua các thời kỳ bằng phương pháp thống kê và phân tích ta sẽ so sánh và

phân tích tìm ra hàng loạt những mối quan hệ để tìm ra nguyên nhân và kết
luận hoặc có những dự đoán trong tương lai .
2.5. Phương pháp thực đòa

Đây là phương pháp hết sức cần thiết trong việc nghiên cứu các vấn đề
đòa lý kinh tế –xã hội . Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã đến tham
quan thực tế các khu công nghiệp và khu dân cư của tỉnh nhằm thẩm đònh
những tư liệu và nguồn thông tin mà mình thu thập được


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ SỰ PHÂN BỐ NGUỒN LAO ĐỘNG

µ¸
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP:
1. Khái niệm về khu công nghiệp
:
1.1. Tập trung công nghiệp theo không gian là gì?

Tập trung công nghiệp theo không gian là hình thái tổ chức không gian
công nghiệp khách quan xuất phát từ bản chất hoạt động của ngành, được thể
hiện ở hai mặt: qui mô xí nghiệp ngày càng lớn, mật độ xí nghiệp ngày càng
cao. Quá trình này, ngoài việc tạo ra các loại hình xí nghiệp hiện đại, qui mô
lớn, còn làm xuất hiện hệ thống các không gian công nghiệp với những cấp độ
khác, những phân hóa lãnh thổ mạnh mẽ về qui mô và cường độ kinh tế nói
chung; các dòng chảy sản phẩm cũng trở nên mở rộng, nhanh chóng hơn giữa
các không gian kinh tế - xã hội.
Tổ chức không gian công nghiệp là quá trình lựa chọn vò trí phân bố,
đồng thời thiết lập các mối liên kết kinh tế – xã hội liên ngành, liên vùng và

quốc tế cho các ngành công nghiệp. Việc tổ chức này phải đảm bảo phù hợp
giữa đặc điểm kinh tế- kỹ thuật ngành công nghiệp với nguồn lực phát triển
của từng vùng, từng bước nhằm tận dụng tốt nhất những nguồn lực và tối
thiểu hóa các chi phí sản xuất – kinh doanh.
1.2. Tính khách quan của quá trình tập trung công nghiệp theo
không gian:
Tập trung công nghiệp theo không gian xuất phát từ bản chất hoạt động
của ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp tác động vào các vật thể “vô
sinh” đó là các Nông – Lâm – Ngư sản đã được thu hoạch, các loại khoán sản

không có sự sống, các loại sản phẩm hầu hết có thể tháo ráp hoặc đã chế
biến. Đặc điểm này giúp ngành công nghiệp ít phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên, có thể tổ chức theo không gian linh hoạt hơn, gắn với những yếu tố sản
xuất quan trọng hoặc thò trường tiêu thụ, khả năng rút ngắn thời gian sản xuất,
mau thu hồi vốn.
Mặt khác, nó lại phụ thuộc vào quá trình sản xuất công nghiệp. Đây là
quá trình kỹ thuật, khác với nông nghiệp là quá trình sinh học - kỹ thuật, để tạo
ra sản phẩm chất lượng, giá thành rẻ, sản xuất công nghiệp phải tuân thủ theo
qui trình công nghệ tiên tiến để đáp ứng nhu cầu tiết kiệm chi phí, đạt hiệu quả
kinh tế và còn nhằm bảo vệ môi trường, khắc phục trường hợp khan hiếm tài
nguyên và ô nhiễm.
Như vậy, tập trung theo không gian vừa là khả năng, vừa là nhu cầu
khách quan trong quá trình phát triển công nghiệp. Chính điều này khiến tập
trung hóa trong công nghiệp ngày càng cao và trở nên đặc thù riêng của ngành,
đặc biệt là khả năng tập hợp, hấp dẫn những ngành nghề khác, hội tụ dân cư và
kiến lập đô thò.
Khu công nghiệp theo quan niệm của đòa lý Xô Viết là hình thức tổ
chức lãnh thổ công nghiệp nhưng chưa thật sự thống nhất về nội dung và
những đặc trưng chủ yếu. Các nhà khoa học của Trường Đại học Tổng hợp
Matxcơva đưa một vài đònh nghóa sau:

− Khu công nghiệp là sự kết hợp theo lãnh thổ của những điểm công
nghiệp ở gần nhau, được qui tụ về một hay một vài trung tâm công nghiệp và
bò chi phối bởi các nhân tố phân bố công nghiệp đồng nhất.
− Một đònh nghóa khác cho rằng khu công nghiệp là sự tập hợp theo
lãnh thổ của những điểm công nghiệp, tạo thành sự thống nhất kinh tế và nền
tảng là các ngành công nghiệp lớn có ý nghóa toàn quốc và các ngành phục
vụ có liên quan (Iu. Xautxkin, 1981).


2. Các đònh nghóa và những đặc trưng của khu công nghiệp:
BẢNG 1
:

CÁC THUẬT NGỮ ĐỒNG NGHĨA VỚI KHU CÔNG NGHIỆP
− Industrial Estates
− Industrial Parks
− Industrial Zones
− Industrial Cluster
− Industrial Processing Zones
− Export Processing Zones
− Business Parks
− Science and Research Parks
− High-tech-centers
− Bio-technology Parks
− Eco-industrial Parks
Nguồn: Quản lý môi trường các KCN INFOTERRA. 2000
Hiện nay, phần lớn các tài liệu nghiên cứu về khu công nghiệp ở Việt
Nam đều sử dụng đònh nghóa trích từ qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghiệp cao được ban hành cùng Nghò đònh 36/CP ngày 24/04/1997.
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên

sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dòch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới đòa lý xác đònh, không có dân cư sinh sống, do Chính
phủ hoặc Thủ tướng quyết đònh thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có
doanh nghiệp chế xuất. Đònh nghóa này thật ra chỉ nhằm phục vụ cho công
tác quản lý, giúp các ban quản lý khu công nghiệp và những cơ quan chức
năng có liên quan phân biệt khu công nghiệp với đối tượng khác về mặt hình
thức và qui chế.
Theo đònh nghóa đơn giản củA PEDDLE (1993): “Khu công nghiệp là
một khoảng đất tương đối rộng chia nhiều lô và được xây dựng hạ tầng, trong
đó các xí nghiệp dễ dàng lựa chọn đòa điểm phát triển, thống nhất sử dụng hạ
tầng và hưởng những lợi thế vò trí liền kề nhau”
(1)
.

(1)
Theo INFOTERRA, quản lý môi trường các khu công nghiệp, Tr. 3-5, 2000.

Trong những năm gần đây, khu công nghiệp được chú trọng và có
quản lý riêng, vì được xem như một đối tượng quy hoạch phát triển công
nghiệp, dùng để đón đầu xu thế tập trung công nghiệp trong quá trình công
nghiệp hóa.
Bộ phận dân cư bao gồm nhà ở cho người lao động và những hạ tầng
xã hội thiết yếu đều phải được xem như là một trong những thành phần cơ
bản của khu công nghiệp, cho nên quy hoạch phát triển các khu công nghiệp
phải kết hợp quy hoạch lại các điểm và cụm dân cư cùng với hạ tầng xã hội
kèm theo.
Tóm lại, có thể đònh nghóa khu công nghiệp như sau: Khu công nghiệp
là đòa bàn tập trung công nghiệp tương đối thuận lợi nhưng không lớn lắm,
các hoạt động trong khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện những dòch vụ sản xuất công nghiệp, có thể có những liên kết kinh

tế - kỹ thuật với nhau, thống nhất sử dụng hạ tầng sản xuất và hạ tầng xử lý
chất thải (nếu có). Đồng thời phát triển một số hạ tầng xã hội do dân cư
ngày càng gia tăng
(1)
.
3. Phân biệt khu công nghiệp với những không gian công nghiệp khác
:
Quá trình tập trung công nghiệp thường tạo ra những không gian công
nghiệp đặc thù có quy mô, mức độ liên kết và tính đa dạng trong cách khác
nhau. Có thể phân biệt 4 mức độ cơ bản từ thấp đến cao như sau:
BẢNG 2
:






(1)
Các khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam – Hiệu quả hoạt động và xu hướng phát triển, Thạc só Lê Thò
Hương, tháng 5/2004.
Dải công nghiệp
Trung tâm công nghiệp
Khu công nghiệp
Điểm công nghiệp

3.1. Điểm công nghiệp:
Điểm công nghiệp là mức tập trung thấp nhất trong tổ chức không gian
công nghiệp, bao gồm một vài xí nghiệp liền kề nhau, gắn với một điểm dân
cư, phân bố gần nguyên liệu hoặc thò trường tiêu thụ, không nhất thiết phải có

hạ tầng riêng. Trong điểm công nghiệp không có những liên hệ sản xuất, nếu
có cũng rất lỏng lẻo.
Điểm công nghiệp là hạt nhân tạo ra những cụm kinh tế-xã hội ở nông
thôn, giúp tận dụng nguồn nguyên liệu nông-lâm-ngư sản, lao động,... và đáp
ứng kòp thời các nhu cầu trong sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp
hoặc đời sống tại chỗ.
3.2. Khu công nghiệp (hay cách hiểu trước đây là cụm công nghiệp)
:
Khu công nghiệp có quy mô tập trung trung bình, bao gồm một số điểm
công nghiệp phát triển gần nhau; thống nhất sử dụng mạng lưới hạ tầng, có
thể có những liên hệ sản xuất nhất đònh giữa các xí nghiệp. Hình thái tập
trung này cho phép sử dụng hiệu quả hơn mạng lưới hạ tầng và các nguồn lực
quan trọng khác.
Trong những điều kiện không thuận lợi lắm về diện tích mặt bằng, hạ
tầng, lao động, vốn đầu tư,... khu công nghiệp chỉ là hạt nhân tạo nên hoặc
làm tăng tốc công nghiệp hóa các đô thò nhỏ ở vùng nông nghiệp, như thò trấn,
thò tứ,... Nhưng nếu diện tích mặt bằng có khả năng mở rộng, các điều kiện hạ
tầng, lao động, vốn có thể tăng cường; đặc biệt là vò trí tiếp cận dễ dàng với
các trung tâm tiêu thụ lớn (ngoại thành của thành phố lớn, trên đòa bàn của
thành phố loại vừa còn nhiều diện tích dự trữ, gần trục hoặc trung tâm giao
thông quan trọng của quốc gia), khu công nghiệp sẽ là hạt nhân tạo ra hoặc
làm tăng tốc công nghiệp hóa các thành phố loại vừa như thò xã, thành phố
thuộc tỉnh, các vành đai ngoại thành; một số khu công nghiệp phát triển liền
kề nhau, tạo nên những trung tâm công nghiệp quan trọng, hoặc cao hơn nữa.


3.3. Trung tâm công nghiệp:
Trung tâm công nghiệp là hình thức tập trung công nghiệp có trình độ
cao, phát triển trên đòa bàn cực kỳ thuận lợi về vò trí đòa lý và những nguồn
lực phát triển khác. Các đơn vò được tập trung có những liên hệ tất yếu về

kinh tế-kỹ thuật, gắn liền với những đô thò vừa và lớn, đa dạng và hiện đại
trong các loại hình dòch vụ. Mỗi trung tâm công nghiệp có thể gồm một số khu
và điểm công nghiệp liền kề nhau, có những xí nghiệp lớn mang tính “hạt
nhân”, tác động đến xung quanh, biểu thò xu hướng chuyên môn hóa nói
chung của toàn trung tâm.
3.4. Dải công nghiệp
:
Dải trong nghiệp là kết quả tập trung cao độ các hoạt động công nghiệp
và dòch vụ trong quá trình công nghiệp hóa, đô thò hóa. Dải công nghiệp
thường bao gồm một số trung tâm công nghiệp, xen kẽ nhiều khu và điểm
công nghiệp liền kề nhau, trong đó có những xí nghiệp quy mô lớn mang tầm
cỡ quốc tế. Dải công nghiệp là hạt nhân tạo ra những thành phố cực lớn, các
chuỗi đô thò (urban agglomeration), hoặc vùng đô thò (urban region), hay khu
vực đô thò (urban area). Qui mô tập trung này hiện nay bộc lộ nhiều vấn đề
phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực cả về kinh tế, xã hội, môi trường, lẫn quốc
phòng; do vậy chính phủ các nước thường khống chế không cho phát triển.
II. TỔNG QUAN CÁC LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN VÀ TỔ CHỨC
KHÔNG GIAN CÔNG NGHIỆP:
Quy luật phát triển và tổ chức không gian các khu công nghiệp không
nằm ngoài quy luật phát triển và tổ chức không gian công nghiệp nói chung.
Trên thế giới, có nhiều lý thuyết về phát triển và tổ chức không gian công
nghiệp; trong đó, một số quan điểm dựa chủ yếu vào những nhân tố khách
quan gắn liền với cơ cấu nguồn lực nội sinh lẫn ngoại tụ của từng vùng, từng
quốc gia và đặc điểm kinh tế-kỹ thuật cụ thể của từng ngành công nghiệp;
những quan điểm còn lại đặt nền tảng vào hành vi của nhà đầu tư.

Mặt khác, không gian công nghiệp là một bộ phận quan trọng của
không gian kinh tế-xã hội, quá trình tổ chức không gian công nghiệp là quá
trình có ảnh hưởng quyết đònh đến toàn bộ quá trình tổ chức không gian kinh
tế-xã hội, nhưng đồng thời cũng chòu tác động từ các quá trình tổ chức không

gian các lónh vực khác. Như vậy, các khái niệm chung về không gian kinh tế-
xã hội, về tổ chức không gian kinh tế-xã hội cũng là những lý luận cần thiết
khi xem xét đến cơ sở lý thuyết phát triển và tổ chức không gian công nghiệp.
1. Khái niệm không gian kinh tế-xã hội và tổ chức không gian kinh tế-
xã hội:
1.1. Không gian kinh tế-xã hội
:
Là một bộ phận lãnh thổ có khả năng cung cấp những nguồn lực phát
triển, chọn lọc các hoạt động kinh tế-xã hội thông qua những quan hệ phân bố,
những liên kết kinh tế liên ngành, liên vùng và quốc tế. Dưới góc độ tổ chức
không gian, người ta thường xem không gian kinh tế-xã hội là một trường lực
(giống như các trường lực trong vật lý học), với 3 thành phần sau đây:
− Trung tâm kinh tế-xã hội (còn gọi là cực hay nút phát triển): là nơi có
nhiều nguồn lực thuận lợi, tập trung dân cư đông đúc, các hoạt động công
nghiệp chế biến và dòch vụ phát triển hơn cả. Đây là bộ phận tạo ra các lực
liên kết kinh tế-xã hội, hay còn được gọi ngắn gọn là bộ phận tạo lực.
− Hành lang phát triển: là nơi diễn ra các dòng liên kết kinh tế-xã hội
giữa các rung tâm. Thực chất đây chính là mạng lưới hạ tầng, bao gồm: đường
sá, bến bãi, điện, nước, thông tin liên lạc. Thông qua hành lang, sức phát triển
từ trung sẽ dẫn truyền ra các bề mặt, hành lang phát triển đi đến đâu, ở đó sẽ
có sự phát triển. Hành lang phát triển là bộ phận thực hiện các lực.
− Bề mặt: là những “chỗ trống” của không gian kinh tế xã hội, dân cư
thưa thớt, phát triển chủ yếu các ngành nông nghiệp, công nghiệp khai thác.
Bề mặt là bộ phận chòu tác động bởi các lực từ trung tâm thông qua hành lang,
những nơi nào gần trung tâm và hành lang sẽ có trình độ phát triển cao hơn,
càng xa trung tâm, hành lang càng kém phát triển. Nơi nào sức ảnh hưởng của
trung tâm trở nên không đáng kể, đó chính là ranh giới của bề mặt.

1.2. Tổ chức không gian kinh tế - xã hội:
Là quá trình lựa chọn có tính chiến lược các cách thức phát triển và bố

trí những trung tâm, những hành lang, các bề mặt, trên cơ sở tận dụng cao
nhất các nguồn lực, tạo ra một cơ cấu không gian kinh tế-xã hội tối ưu trong
một giai đoạn phát triển nhất đònh.
Để đảm bảo tính chiến lược, có tầm nhìn sâu rộng và tổng hợp, quá
trình tổ chức không gian kinh tế-xã hội phải được thực hiện một cách trình tự,
có kế thừa và điều chỉnh qua lại giữa các bước sau đây:
− Phân vùng kinh tế: đònh hướng phát triển các ngành kinh tế trong một
cơ cấu có chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp trên phạm vi cả nước cũng
như từng vùng (tầm nhìn rộng, lâu dài).
− Lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố các ngành, các vùng kinh tế lớn:
thực chất đây là những sơ đồ phát triển và phân bố từng ngành, từng vùng
kinh tế lớn (tầm nhìn lâu dài, bao quát trên toàn vùng lớn, toàn quốc, thậm chí
thế giới nhưng giới hạn ở từng ngành).
− Quy hoạch vùng: tổ chức hợp lý và cụ thể hơn toàn bộ các hoạt động
kinh tế, dân cư, mạng lưới hạ tầng sản xuất và xã hội trên một không gian
không lớn lắm. Quy mô không gian thích hợp cho bước quy hoạch, tức là quy
mô có khả năng đảm bảo cả tính hợp lý nhất lẫn cụ thể nhất của quy hoạch so
với những bước trước, thường phải nhỏ hơn cấp vùng kinh tế lớn và lớn hơn
một đơn vò sản xuất (tầm nhìn sâu, cụ thể, tổng hợp nhiều mặt khác nhau
trong phạm vi không gian hẹp).
2. Lý thuyết vò trí phân bố công nghiệp tối ưu (optimum industry
location theory):
Lý thuyết này thoạt tiên do Alfred Weber (1909) đưa ra, sau đó được
M.L. Greenhut, Isard (1956) và Smith (1981) cải thiện. Lý thuyết vò trí phân
bố công nghiệp tối ưu quan tâm đến hai yếu tố:
− Một là, đặt gần các đầu vào quan trọng như nguyên liệu, nhiên liệu-
năng lượng, lao động, vốn đầu tư và thò trường tiêu thụ sản phẩm (đầu ra).

− Hai là, chi phí mua các đầu vào và phân phối sản phẩm đến thò
trường tiêu thụ phải thấp; trong đó, yếu tố chi phí được xem là quan trọng hơn

cả.
Vò trí phân bố công nghiệp tối ưu phải đảm bảo tối thiểu hóa giá thành
sản phẩm (chi phí sản xuất cộng với chi phí vận tải). Lý thuyết này tạo nền
tảng cho việc ứng dụng phương pháp chi phí so sánh để xây dựng các luận
chứng tổ chức không gian công nghiệp. Theo nhận đònh của W. Isard, cả lý
thuyết và phương pháp nói trên hiện vẫn còn ứng dụng rộng rãi trong nhiều
ngành công nghiệp, kể cả công nghiệp kỹ thuật cao và dòch vụ thương mại.
3. Lý thuyết hành vi (behavioural theory) [Fotheringham, O’Kelly
(1989) và Sen. Smith (1995):
Trường phái hành vi dựa vào “tính hợp lý có giới hạn” và “cách tiếp
cận hệ thống” để xác đònh vò trí phân bố công nghiệp. Tính hợp lý có giới hạn
có nghóa là các công ty thường không tìm đến những vò trí phân bố tối ưu thật
sự do bò giới hạn bởi một số yếu tố có tính chủ quan. Những yếu tố đó phát
sinh từ chính người ra quyết đònh, hoặc tổ chức mà người ra quyết đònh chòu
ảnh hưởng. Như vậy, khả năng chọn đòa điểm đầu tư sẽ phụ thuộc vào cơ cấu
tổ chức của công ty và các mục tiêu phát triển của đơn vò. Cách tiếp cận hệ
thống nhằm nghiên cứu những đối tượng trên đây và mối liên hệ giữa chúng
để tìm ra lời giải về đòa điểm phân bố, cụ thể:
− Phân tích cơ cấu của đơn vò có nhu cầu lựa chọn đòa điểm đầu tư và
tạo những liên kết.
− Mô hình hóa kiểu tăng trưởng và liên hệ với thực trạng của đơn vò.
− Phân tích những tác động từ môi trường bên ngoài đối với chiến lược
phát triển của đơn vò.
Lý thuyết này có ưu điểm nổi bật là cân nhắc đến ảnh hưởng của những
thay đổi trong môi trường kinh tế bên ngoài đối với hành vi của người quyết
đònh đòa điểm đầu tư. Tuy nhiên, quan điểm hành vi quá đề cao vai trò quản

trò của cá nhân, đôi khi lại bỏ qua những cơ sở khách quan cần thiết có ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả lựa chọn vò trí phân bố của đơn vò.
4. Những lý thuyết về liên quan và phân công hợp tác giữa các

ngành công nghiệp:
Nhiều tác giả rất chú trọng đến công nghệ sản xuất của ngành công
nghiệp, đặc biệt là tính liên hệ sản xuất thường xuyên giữa các ngành, tính
liên tục giữa các khâu trong quá trình sản xuất, từ đó có những giải pháp phân
bố đồng thời hàng loạt các ngành công nghiệp phù hợp với nguồn lực của
từng vùng. Chúng tôi xin tổng quan quan điểm này dưới dạng một số lý
thuyết.
4.1. Lý thuyết chu trình động lực - sản xuất hay liên hợp công nghiệp
:
Quan điểm này do N.N. Koloxopxki 9/1947) đề xướng và được nhiều
nhà kinh tế Nga ủng hộ vào những năm 60 – 70. Xuất phát từ đặc điểm công
nghệ sản xuất của các ngành công nghiệp, nhằm đảm bảo mục tiêu hiệu quả
kinh tế gắn liền với sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, tận dụng phế
phụ phẩm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, các tác giả đã làm rõ những liên
hệ sản xuất giữa các ngành khác nhau trên cơ sở sử dụng một loại tài nguyên
nhất đònh. Chu trình động lực - sản xuất là tập hợp các quá trình sản xuất có
liên quan với nhau, trong đó có nhiều quá trình sản xuất phụ xoay quanh một
quá trình sản xuất chính; dựa trên cơ sở chế biến tổng hợp một loại nguyên
liệu (chủ yếu). Như vậy, khi phân bố các xí nghiệp gần nhau phải theo những
quy đònh chặt chẽ chứ không thể tùy tiện. Đó là những xí nghiệp có liên hệ
mật thiết với nhau về sản xuất, có tác động mạnh mẽ đối với nhau chứ không
chỉ đơn giản là cùng tồn tại trong một phạm vi không gian nào đó. Mặt khác,
sự tồn tại của những xí nghiệp trong chu trình cũng phải phù hợp với cơ cấu
nguồn lực của vùng. Trong các tài liệu về tổ chức không gian công nghiệp ở
Mỹ, Anh, khái niệm liên hợp công nghiệp (industrial complex) đồng nghóa với
khái niệm chu trình động lực - sản xuất. Theo W. Isard, “trước kia liên hợp

công nghiệp được hiểu là tập hợp các hoạt động tồn tại trong một vò trí phân
bố nhất đònh (tức trong một xí nghiệp, gọi là xí nghiệp liên hợp), bao gồm một
loạt các ngành có quan hệ qua lại với nhau về sản xuất, tiếp thò cùng với

những quan hệ liên vùng khác; hiện nay, người ta không còn quan niệm cứng
nhắc rằng liên hợp công nghiệp là tập hợp các hoạt động xí nghiệp, nhưng nếu
các hoạt động không cùng một xí nghiệp mà cùng một liên hợp thì ít nhất cũng
phải bố trí liền kề nhau theo không gian”
(1)
.
Quan hệ giữa các đơn vò sản xuất trong tổ chức liên hợp có thể là chế
biến tuần tự, hoặc chế biến đồng thời một nguyên vật liệu ban đầu, hay một
số ngành tập trung chế biến các phế phụ phẩm cho quá trình sản xuất chính.
Liên hợp công nghiệp phát triển mạnh trong các ngành luyện kim, hóa chất,
chế biến gỗ, chế biến lương thực thực phẩm, dệt-may.
Liên hợp công nghiệp mang lại nhiều lợi ích: một là giảm chi phí đầu tư
xây dựng; hai là sử dụng tổng hợp nguyên vật liệu, tận dụng các phế phụ
phẩm, giảm hao phí lao động; ba là giảm bớt chi phí và rút ngắn cự ly vận
chuyển trong quá trình sản xuất, từ đó rút ngắn thời gian sản xuất. Nói tóm
lại, liên hợp công nghiệp sẽ làm giảm giá thành sản phẩm, giảm những tác
động tiêu cực đối với môi trường. Song, những lợi ích trên chỉ phát huy khi
quy mô liên hợp đạt mức thích hợp.
4.2. Lý thuyết phân công chuyên môn hóa sâu và hợp tác hóa rộng
:
Quy mô xí nghiệp gia tăng đã phát sinh nhu cầu chuyên môn hóa sâu
trong các ngành công nghiệp. Tổ chức sản xuất công nghiệp theo dây chuyền
chuyên môn hóa được khởi xướng đầu tiên bởi Taylor. Chuyên môn hóa sâu
là quá trình phân công sản xuất ngày càng tỉ mỉ giữa các ngành công nghiệp.
Mỗi ngành chỉ tập trung sản xuất một bộ phận, thậm chí một chi tiết của bộ
phận thành phẩm.
Chuyên môn hóa sâu đã góp phần nâng cao tay nghề và tăng năng suất
lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, mà giá thành lại rẻ. Tuy nhiên, các

(1)

W. Isard, Methods of interegional and regional analysis, Ch. 5, pp. 225, 1998

xí nghiệp chuyên môn hóa sâu có xu hướng tách rời về không gian, ngày càng
ít liên hệ nhau, có thể dẫn đến mất cân đối công suất thiết kế, kém đồng bộ
về tiêu chuẩn kỹ thuật, và tăng chi phí vận chuyển các bộ phận, các chi tiết
của thành phẩm. Do đó, chuyên môn hóa sâu phải kèm theo hợp tác hóa rộng.
Hợp tác hóa rộng là quá trình tổ chức những liên hệ sản xuất thường
xuyên giữa các xí nghiệp chuyên sâu, để từ nhiều nguyên liệu khác nhau tạo
ra một loại sản phẩm cuối cùng.
Các xí nghiệp cùng trong một tổ chức hợp tác hóa có thể phân bố gần
nhau (tức tập trung) để thuận lợi cho việc liên kết. Như vậy, một khi đã có
khả năng tạo đòa bàn cho các xí nghiệp công nghiệp được tập trung, thì các xí
nghiệp ấy nên là những xí nghiệp chuyên môn hóa sâu trong một tổ chức hợp
tác hóa hơn là tập trung máy móc các đơn vò sản xuất ít thậm chí không liên
hệ gì với nhau. Điều này ngoài làm tăng hiệu quả tập trung còn tránh được
những tác động bất lợi có thể xảy ra giữa các xí nghiệp có mâu thuẫn về mặt
công nghệ.
Nhưng, tất nhiên, không hẳn toàn bộ các tổ chức hợp tác hóa đều phải
phân bố tập trung các xí nghiệp chuyên sâu của mình. Khi quy mô tập trung
vượt quá giới hạn cho phép của các nguồn lực tại chỗ, khiến chi phí sản xuất
gia tăng, tốt hơn cả nên bố trí các xí nghiệp chuyên sâu phân tán vào những
vùng, thậm chí những quốc gia sẵn có các nguồn lực cần thiết cho đơn vò. Như
vậy, không gian hợp tác giữa các xí nghiệp chuyên sâu có thể mở rộng trên
toàn quốc, thậm chí trên nhiều quốc gia.
5. Lý thuyết tạo cực phát triển
:
Nhà kinh tế học người Pháp Fran{oi Perroux đã đưa ra lý thuyết tạo
cực phát triển vào đầu những năm 50, sau đó được Albert, O. Hirshman,
Gunnar Myrdal, Friedmann tổng hợp lại. Lý thuyết này cho rằng công nghiệp
và dòch vụ có vai trò to lớn trong việc tạo ra cực phát triển, mỗi cực phát triển

luôn có một “hạt nhân” công nghiệp hoặc dòch vụ làm then chốt, gắn với đòa
bàn có lợi thế nhất so với toàn vùng. Ngành công nghiệp hoặc dòch vụ then
chốt phát triển thì vùng nơi ngành phân bố cũng phát triển theo; do công ăn

việc làm, sức mua tăng lên, nhiều ngành công nghiệp và dòch vụ mới được thu
hút vào. Tổ chức không gian công nghiệp và dòch vụ theo hướng tạo cực phát
triển phù hợp với những quốc gia thiếu vốn đầu tư, cần kêu gọi vốn từ nước
ngoài.
III. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP Ở MỘT SỐ
NƯỚC CHÂU Á:
Đặc điểm lãnh thổ và sự phát triển của một số nước Châu Á có nhiều
nét tương đồng với Việt Nam. Những quốc gia này đã đi trước chúng ta một
bước trên con đường công nghiệp hóa, và đúc kết được nhiều kinh nghiệm về
xây dựng, quản lý các khu công nghiệp. Thiết nghó những thành công hay thất
bại của các quốc gia này cũng là những căn cứ thực tiễn quan trọng cho chúng
ta cân nhắc.
1. Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp ở Đài Loan
:
Đài Loan trở thành một trong những “con rồng” Đông Á chỉ sau 30 năm
thực hiện quá trình công nghiệp hóa. Kế hoạch xây dựng các khu công nghiệp
– khu chế xuất được triển khai từ năm 1966 (với khu chế xuất Cao Hùng), đến
nay đã có hơn 100 khu đi vào hoạt động, và đóng góp nhiều thành quả quan
trọng cho nền kinh tế quốc gia. Phát triển các khu công nghiệp Đài Loan có
đặc trưng đáng lưu ý sau đây:
− Phối hợp thông minh giữa tổ chức các khu công nghiệp trọng điểm
quốc gia với những khu công nghiệp đòa phương phù hợp trong từng lãnh thổ.
Bên cạnh 12 khu công nghiệp quan trọng nhất tập trung ở những tỉnh, thành
trọng điểm được Trung ương quản lý, Đài Loan đã mở rộng mạng lưới với hơn
80 khu công nghiệp trên toàn quốc do chính quyền đòa phương và tư nhân
quản lý; hầu hết các huyện đều có khu công nghiệp. Với hình thức tổ chức này,

Đài Loan có thể vừa tập trung phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao,
có sức cạnh tranh mạnh trên thò trường thế giới, vừa tận dụng các nguồn lực đòa
phương, phát triển ổn đònh các ngành công nghiệp chế biến thấp, nhằm tăng tốc
công nghiệp hóa các vùng nông nghiệp.

− Đặc biệt lưu ý đến những điều kiện hạ tầng: giao thông thuận lợi;
điện nước đầy đủ và ổn đònh; thông tin nhanh chóng với giá dễ chấp nhận.
− Chính sách ưu tiên nhất đònh như miễn giảm thuế một số năm, thuế
suất thấp, một số trường hợp được vay vốn ưu đãi. Chẳng hạn thuế thu nhập xí
nghiệp chỉ ở mức 22-25% trong các khu công nghiệp kỹ thuật cao, trong khi ở
Singapore là 40%.
− Chi phí đầu tư hạ tầng trung bình/km
2
và giá thuê nhà xưởng tương
đối thấp (so với Hàn Quốc Quốc, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan).
− Các khu chế xuất đều đã bước vào giai đoạn trưởng thành, tỷ lệ nội
đòa hóa ngày càng cao, thông qua hoạt động gia công của các xí nghiệp vệ
tinh ngoài khu chế xuất, những liên kết phía sau, thậm chí liên kết phía trước
với thò trường nội đòa hiện nay cũng được tăng cường.
2. Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp ở Thái Lan
:
Năm 1972, Thái Lan bắt đầu xây dựng các khu công nghiệp, đến nay
(1997) đã có 64 khu đi vào hoạt động. Các khu công nghiệp Thái Lan hiện
vẫn chưa lấp đầy toàn bộ, nhưng trong hơn 30 năm phát triển, các khu công
nghiệp đã góp phần đắc lực giúp Thái Lan nhanh chóng vượt qua thời kỳ đầu
của quá trình công nghiệp hóa, và đang chuẩn bò kết thúc công cuộc công
nghiệp hóa, chuyển mình thành một con rồng thứ hai trong khu vực Đông
Nam Á, sau Singapore.
Đặc trưng phát triển các khu công nghiệp Thái Lan có những điểm đáng
lưu ý sau:

− Cực phát triển kinh tế mạnh nhất của Thái Lan hầu như chỉ tập trung tại
Bangkok, do vậy mà các khu công nghiệp tạo ra 3 vành đai xung quanh
Bangkok với những lợi thế khác nhau. Vành đai thứ nhất gồm 6 tỉnh, có ưu thế
tiếp cận thò trường tiêu thụ lớn là Bangkok, hạ tầng thuận lợi, lao động vừa đông
vừa có trình độ; vành đai thứ hai gồm 10 tỉnh bao xung quanh vành đai thứ nhất,
lợi thế kém hơn; vành đai cuối cùng gồm 60 tỉnh còn lại, kém lợi thế nhất.

− Chính phủ Thái Lan có chủ trương phát triển cân đối lãnh thổ nhằm
khắc phục thế đơn cực trước kia, bằng cách thực hiện chính sách ưu đãi tài
chính hoàn toàn khác nhau ở 3 vành đai phát triển khu công nghiệp. Chẳng
hạn, thuế nhập khẩu thiết bò – máy móc: vành đai 1, 2 được giảm 50%, vành
đai 3 được miễn hoàn toàn; thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất: vành đai 1,
2 được miễn trong vòng 3 năm, vành đai 3 được miễn 5 năm; thuế thu nhập
công ty: vành đai 1 được miễn 3 năm, vành đai 2 được miễn 7 năm, vành đai
3-8 năm và được giảm 50% trong 5 năm tiếp theo.
− Bộ máy quản lý thống nhất theo cơ chế “một cửa”. Các hoạt động từ
điều tra, thiết kế ban đầu, đến những quy đònh giá cả bất động sản, thủ tục
cấp giấy phép,... đều tập trung vào Cục quản lý các khu công nghiệp Thái
Lan (IEAT). Hình thức quản lý này đã đảm bảo các dòch vụ hành chính khu
công nghiệp trở nên nhanh chóng, hiệu quả. Thường các nhà đầu tư chỉ mất
một ngày là làm xong mọi thủ tục, và chỉ sau một tuần có thể nhận được giấy
phép bước vào xây dựng.
− Các khu công nghiệp Thái lan là điển hình của quản lý môi trường có
hiệu quả. Bên cạnh quản lý môi trường bằng luật pháp và chính sách, Thái
Lan còn mạnh dạn áp dụng các công cụ kinh tế theo nguyên tắc PPP (người
gây ô nhiễm phải trả tiền). Các chất thải đều được xử lý thỏa đáng và doanh
nghiệp có trách nhiệm chi trả những chi phí ấy.
3. Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp ở Malaysia
:
Cũng bắt đầu xây dựng các khu công nghiệp từ đầu những năm 70 như

Thái Lan, và tuy diện tích Malaysia nhỏ hơn Thái Lan, nhỏ hơn cả Việt Nam,
nhưng có số lượng khu công nghiệp nhiều nhất trong khu vực Đông Nam Á,
đạt đến 166 khu (1997). Có thể rút ra một số nhận xét trong mô hình phát
triển khu công nghiệp ở Malaysia như sau:
− Malaysia đã mạnh dạn mở ra nhiều khu thương mại tự do (50 khu), có
nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, nhà đầu tư được tự
do chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, không bò quốc hữu hóa tài sản, thời hạn
thuê đất kéo dài đến 99 năm.

− Phát triển nhiều doanh nghiệp chế xuất nằm ngoài khu chế xuất. Hình
thức này đã lôi cuốn được nhiều doanh nghiệp trong nước tạo ra nhiều nguồn
hàng xuất khẩu mà không phải tăng đầu tư mở rộng hạ tầng và diện tích các
khu chế xuất.
Có chính sách hỗ trợ vốn tích cực từ phía Nhà nước. Nguồn vốn từ ngân
sách các bang và liên bang chủ yếu dành cho xây dựng cơ sở hạ tầng.
Hầu hết các khu công nghiệp đều có vò trí thích hợp, giao thông thuận
lợi, mặt bằng mở rộng, giá đất không cao, phần lớn nằm ở ngoại vi thành phố
có thể tránh ô nhiễm môi trường cho những trung tâm dân cư đông đúc, mà
vẫn tiếp cận nơi cung cấp lao động.
Quan tâm thích đáng đến hạ tầng xã hội như nhà ở cho người lao động,
chợ, trường học, trạm xá, khu vui chơi; nhất là những điều kiện sinh hoạt cho
chuyên gia nước ngoài.
Bên cạnh những ưu điểm trên đây, Malaysia có cơ chế quản lý các khu
công nghiệp chưa được thích hợp lắm. Bộ máy quản lý các khu công nghiệp
tương đối cồng kềnh, mỗi tiểu bang đều có một ban quản lý riêng nhưng
không được phép giải quyết sự việc, họ chỉ tập hợp các vấn đề rồi kiến nghò
lên ban quản lý trung ương xử lý. Mặc dù các nhà đầu tư chỉ cần tiếp xúc với
Phòng Xúc Tiến được thành lập ở các ban quản lý đòa phương (không phải
liên hệ với tất cả các bộ phận khác nhau), nhưng do không được phân cấp
quyết đònh, phải qua một số khâu trung gian, nên nhiều vụ việc không được

giải quyết kòp thời.
IV. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG VÀ PHÂN BỐ LAO ĐỘNG
:
1. Khái niệm về nguồn nhân lực và các đặc trưng cơ bản
:
1.1. Theo nghóa rộng
:
Nguồn nhân lực của một quốc gia hay một vùng, một khu vực, một đòa
phương là tổng hợp những tiềm năng lao động của con người trong một thời
điểm xác đònh. Tiềm năng đó bao hàm thế lực, trí lực và tâm lực (đạo đức, lối

sống, nhân cách và truyền thống lòch sử văn hóa dân tộc) của bộ phân dân số
có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế-xã hội.
Theo nghóa rộng, nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số
và chất lượng con người với tất cả đặc điểm, tiềm năng và sức mạnh của nó
trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Do vậy các đặc trưng cơ bản của
nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ mang tính nhân quả đối với các đặc trưng
của dân số ở mỗi giai đoạn phát triển.
Các đặc trưng bao gồm:
− Qui mô về số lượng.
− Phân bố theo vùng đòa lý - kinh tế, khu vực thành thò - nông thôn.
− Cơ cấu giới tính.
− Cơ cấu độ tuổi – tình trạng sức khỏe.
− Cơ cấu học vấn.
− Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật.
1.2. Theo nghóa hẹp
:
Ở một không gian và thời gian xác đònh, xét về khả năng có thể sử
dụng Bộ Luật Lao Động thì khái niệm nguồn nhân lực đồng nghóa với nguồn
lao động. Nếu xét về tình trạng hoạt động thì khái niệm nguồn nhân lực đồng

nghóa với lực lượng lao động.
1.2.1. Nguồn lao động
:
− Theo từ điển thuật ngữ trong lónh vực lao động của Liên Xô
(Matxcơva tái bản năm 1997 bản tiếng Nga), nguồn lao động là toàn bộ những
người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm năng (có
khả năng lao động nhưng chưa có tham gia lao động).
− Theo từ điển thuật ngữ Pháp (1977 – 1985 bản tiếng Pháp), nguồn lao
động không gồm những người có khả năng nhưng không có nhu cầu làm việc.

×