Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " QUÁ TRRÌNH SẢN NGHIỆP HÓA NÔNG NGHIỆP Ở TRUNG QUỐC " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.45 KB, 9 trang )

Quá trình phát triển sản nghiệp hóa

7







Nguyễn Xuân Cờng*

Tóm tắt: Sản nghiệp hoá nông nghiệp là bớc thử nghiệm của Trung Quốc trong việc giải
quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ và thị trờng lớn, là sự gắn kết nông nghiệp với công
nghiệp, nông thôn với thành thị. Bài viết khái quát quá trình hình thành và phát triển sản
nghiệp hoá nông nghiệp ở Trung Quốc và kinh nghiệm đối với Việt Nam .

Từ khoá:
Sản nghiệp hoá, nông nghiệp
rung Quốc là nớc nông
nghiệp lớn, hiện đang trong
quá trình chuyển biến từ nền
nông nghiệp lạc hậu sang nông nghiệp
hiện đại. Từ cải cách mở cửa đến nay,
nông nghiệp Trung Quốc gặt hái đợc
những thành tựu to lớn. Sản nghiệp hoá
đợc xem là con đờng có hiệu quả để đi
tới hiện đại hoá nông nghiệp. Quá trình
hình thành, nội dung cơ bản, thành tựu
và tồn tại của sản nghiệp hoá nông
nghiệp Trung Quốc là những kinh


nghiệm quí, khi chúng ta đang đẩy
nhanh tiến trình CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn.
1. Quá trình hình thành
Cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 thế kỷ
XX, một số tỉnh nông nghiệp ở Trung
Quốc nh Hà Nam, Sơn Đông, Hồ
Namtích cực tìm kiếm lối thoát cho
nông nghiệp, nông thôn. Đầu những năm
90, Gia Thành của tỉnh Sơn Đông đa ra
chiến lợc nhất thể hoá nông nghiệp-công
nghiệp-thơng nghiệp. Thọ Quang của
Sơn Đông cũng gặt hái đợc thành công
trong phát triển sản xuất rau xanh dựa
vào nhu cầu của thị trờng. Duy Phờng
tỉnh Sơn Đông tiến hành tổng kết kinh
nghiệm của Gia Thành và Thọ Quang,
tiếp đó tổ chức đoàn đi tham quan khảo
sát kinh nghiệm kinh doanh nông nghiệp
của Nhật Bản, Pháp và Mỹ. Sau khi tổng
kết những kinh nghiệm trong và ngoài
nớc, chính quyền Duy Phờng trên cơ sở
nhất thể hoá nông-công-mậu (nông nghiệp
- công nghiệp - mậu dịch) đã thúc đẩy thực
hiện chiến lợc sản nghiệp hoá nông
nghiệp trong phạm vi toàn thành phố và
gặt hái đợc thành quả lớn. Sản nghiệp
hoá nông nghiệp ở Duy Phờng đợc tổng
kết là: lập ngành nghề chủ đạo, thực hiện
* Thạc sỹ. Viện Nghiên cứu Trung Quốc

phân bố vùng, dựa vào các xí nghiệp đầu
tàu lôi kéo, phát triển kinh doanh quy

(1)
. Chính quyền tỉnh Sơn Đông đã
khẳng định kinh nghiệm của Duy
T


nghiên cứu trung quốc số 6(65) - 2005


8

Phờng, và năm 1993 đã quyết định tiến
hành sản nghiệp hoá nông nghiệp từng
bớc vững chắc trên phạm vi toàn tỉnh.
Kinh nghiệm của Sơn Đông đợc tổng
kết và nhân rộng ra nhiều tỉnh của
Trung Quốc.
Việc thực hiện chế độ khoán đã phát
huy tính tích cực, sáng tạo của ngời
nông dân, thay đổi bộ mặt nông thôn.
Tuy nhiên, chế độ khoán cha phát triển
mạnh mẽ sức sản xuất. Cùng với sự xác
lập và vận hành của thể chế kinh tế thị
trờng XHCN ở Trung Quốc, mâu thuẫn
giữa các cá thể nông dân phân tán và
sản xuất nông nghiệp xã hội hoá ngày
càng tăng. Những mâu thuẫn chủ yếu

là: (1) Mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ của
nông dân cá thể với sự thay đổi nhanh
chóng khó lờng của thị trờng. Ngời
nông dân đối mặt với những rủi ro về
thiên tai, kỹ thuật, chính sách và đặc
biệt là thị trờng. (2) Mâu thuẫn giữa
quy mô sản xuất bé nhỏ của nông dân cá
thể với mục tiêu hiện đại hoá nông
nghiệp, diện tích canh tác bình quân các
nông hộ ít, năng suất lao động nông
nghiệp thấp. (3) Mâu thuẫn giữa phơng
thức sản xuất truyền thống của nông
dân cá thể với sản xuất nông nghiệp
chuyên môn hoá Nh vậy, mâu thuẫn
giữa sản xuất nhỏ và thị trờng lớn trở
thành vấn đề bức xúc cần giải quyết.
Sản nghiệp hoá nông nghiệp trở thành
bớc thử nghiệm và sự lựa chọn mới.
2. Khái niệm, đặc trng của sản
nghiệp hoá nông nghiệp
Sản nghiệp hoá nông nghiệp có nhiều
cách biểu đạt nh kinh doanh nhất thể
hoá nông nghiệp (Agricultural
integration), kinh doanh tổng hợp nông
nghiệp (Agribusiness), đa dạng hoá
ngành nghề nông nghiệp
(2)
hoặc kinh
doanh ngành nghề hoá nông nghiệp
(3)

.
Sản nghiệp hoá nông nghiệp ở Trung
Quốc là việc các tổ chức kết hợp giữa
nông hộ với công ty, hoặc nông hộ kết
hợp với tập thể, nông hộ cùng với các tổ
chức kinh tế v.v tiến hành liên kết sản
xuất, tiêu thụ các sản phẩm nông
nghiệp; kết hợp giữa nông nghiệp-công
nghiệp và thơng nghiệp, kết nối các
khâu thành một dây chuyền.
Ngày 11 tháng 12 năm 1995, Nhân
dân Nhật báo đã đa ra khái niệm sản
nghiệp hóa nông nghiệp: Lấy thị trờng
trong và ngoài nớc làm phơng hớng,
lấy nâng cao hiệu quả kinh tế làm trung
tâm, tiến hành phân bố khu vực hoá, sản
xuất chuyên nghiệp hoá, kinh doanh
nhất thể hoá, dịch vụ xã hội hoá, quản lí
xí nghiệp hoá đối với ngành nghề trụ cột
và sản phẩm chủ đạo của nông nghiêp
địa phơng. Kết hợp chặt chẽ giữa sản
xuất-cung ứng và tiêu thụ, giữa mậu
dịch-công nghiệp-nông nghiệp, giữa kinh
doanh-khoa học-giáo dục, hình thành cơ
chế kinh doanh chuỗi.
Giới nghiên cứu cho rằng, sản nghiệp
hoá nông nghiệp là quá trình phát triển
xã hội hoá, nhất thể hoá nông nghiệp với
các ngành nghề liên quan, tức nhất thể
hoá nông nghiệp-công nghiệp-thơng

mại, khâu chuỗi sản xuất-giai công-tiêu
thụ. Nhà nghiên cứu Bạch Thế Việt cho
Quá trình phát triển sản nghiệp hóa

9

rằng: Sản nghiệp hoá là lấy định hớng
thị trờng, lấy nông hộ làm cơ sở, lấy xí
nghiệp đầu tầu làm chỗ dựa, lấy lợi ích
kinh tế làm trung tâm, lấy dịch vụ làm
biện pháp, thông qua sản xuất-cung
ứng-tiêu thụ, nuôi trồng, gia công, liên
kết các khâu trớc, trong và sau quá
trình tái sản xuất nông nghiệp trở thành
một hệ thống ngành nghề hoàn chỉnh
(4)
.
Một số học giả diễn đạt ngắn gọn hơn,
gọi sản nghiệp hoá nông nghiệp là quá
trình phát triển xã hội hoá, nhất thể hoá
nông nghiệp với các ngành nghề liên
quan, tức nhất thể hoá nông nghiệp -
công nghiệp - thơng mại, khâu chuỗi
sản xuất - gia công - tiêu thụ. Các học
giả cha nhất trí cao về khái niệm sản
nghiệp hoá nông nghiệp, nhng lại có
nhận thức chung về nội hàm cơ bản sau:
(1) Lấy thị trờng làm phơng hớng.
Sản nghiệp hoá nông nghiệp là sản
phẩm của kinh tế thị trờng. Các sản

phẩm nông nghiệp phải sản xuất, gia
công và tiêu thụ theo nhu cầu của thị
trờng mới có thể tồn tại và phát triển.
(2) Lấy các xí nghiệp đầu tầu làm
trung tâm. Các xí nghiệp đầu tầu là
các doanh nghiệp đóng vai trò liên kết
các khâu trớc và sau sản xuất, giữa các
nông hộ sản xuất quy mô nhỏ, phân tán
với thị trờng rộng lớn trong và ngoài
nớc;
(3) Lấy các vùng chuyên doanh làm cơ
sở. Đây là các nơi sản xuất nông sản cấu
thành bởi các nông hộ. Thực hiện chuyên
doanh vùng trồng trọt, chuyên môn hoá
sản xuất, thơng phẩm hoá hàng hoá,
nh vậy mới có thể tạo các sản phẩm
nông nghiệp với số lợng lớn, chất lợng
cao cho các xí nghiệp đầu tầu;
(4) Dây chuyền nông - công - thơng,
tức kết hợp hữu cơ giữa các ngành sản
xuất nông nghiệp-các ngành gia công và
các ngành tiêu thụ các sản phẩm nông
nghiệp;
(5) Hình thành cơ chế rủi ro cùng chịu,
lợi ích cùng chia.
Những đặc trng cơ bản
(1). Nhất thể hoá ngành nghề: Sản
nghiệp hoá nông nghiệp là liên kết hữu
cơ giữa các ngành nông nghiệp trớc sản
xuất, trong sản xuất và sau khi sản

xuất, thực hiện nhất thể hoá thơng
mại, gia công và sản xuất nông nghiệp.
Nh vậy có nghĩa là liên kết nhiều nông
hộ nhỏ, sản xuất nhỏ với thị trờng
lớn và nhu cầu lớn, liên kết giữa công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp lạc hậu,
nối liền giữa thành thị với nông thôn,
thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất, dịch
vụ xã hội hoá, kết nối các khâu sản xuất-
gia công-vận chuyển-tiêu thụ các sản
phẩm nông nghiệp thành một dây
chuyền, cùng thúc đẩy và phối hợp phát
triển;
(2). Chuyên môn hoá sản xuất: Tiến
hành chuyên môn hoá các khâu trong
dây chuyển sản nghiệp hoá. Chuyên
môn hoá sản xuất mới có thể nâng cao
hiệu quả kinh tế và hiệu quả tổng thể
của sản nghiệp hoá;
(3). Thơng phẩm hoá: Hàng hoá sản
xuất là để trao đổi trên thị trờng, lấy
thị trờng làm đích cuối cùng;

nghiên cứu trung quốc số 6(65) - 2005


10

(4) Quản lí xí nghiệp hoá: Sản nghiệp
hoá nông nghiệp là dùng biện pháp quản

lí xí nghiệp, công ty công nghiệp để quản
lí nông nghiệp, làm cho sản xuất phân
tán và các sản phẩm của các nông hộ
đợc chuẩn hoá. Tổ chức sản xuất, tiêu
thụ một cách khoa học, làm tối đa hoá lợi
nhuận. Mô hình tổ chức hớng tới giống
nh các tổng công ty.
(5). Xã hội hoá dịch vụ: Thúc đẩy kết
hợp chặt chẽ các yếu tố sản xuất, cung
cấp dịch vụ toàn diện cho các khâu trong
dây chuyền sản nghiệp hoá.
3. Các loại hình tổ chức chủ yếu của
sản nghiệp hoá nông nghiệp:
(1) Loại hình xí nghiệp đầu tầu và
các nông hộ: Các công ty, xí nghiệp đóng
vai trò chủ đạo, kết hợp cùng với các
nông hộ tiến hành sản xuất, gia công và
tiêu thụ một hay vài loại sản phẩm. Các
công ty, xí nghiệp ký hợp đồng với nơi
sản xuất hoặc các nông hộ sản xuất các
mặt hàng theo hợp đồng, sau đó công ty
phụ trách gia công, tiêu thụ.
Tiêu biểu của mô hình này là các công
ty xí nghiệp nh: Tập đoàn công ty mậu
dịch đối ngoại Gia Thành Sơn Đông, tập
đoàn Đại Giang Thợng Hải, tập đoàn
Nh ý-Liên Vận Cảng của Giang Tô, tập
đoàn Long Phát của Hồ Bắc, tập đoàn
Hng Phát của khu Nội Mông, công ty
Đức Đại tỉnh Cát Lâm Đến cuối những

năm 90, số công ty xí nghiệp mô hình này
có khoảng 5400, chiếm 45% tổng số các tổ
chức sản nghiệp hoá nông nghiệp
(5)
.
(2) Loại hình tổ chức hợp tác kinh tế
và nông hộ: Các tổ chức hợp tác nh các
hợp tác, các hiệp hộiđứng ra tổ chức
sản xuất, chỉ đạo kỹ thuật, phục vụ
cây(con) giống, thu mua sản phẩm, gia
công và tiêu thụ. Các nông hộ tiến hành
sản xuất theo yêu cầu của các tổ chức
hay hiệp hội. Mô hình này tới cuối thập
kỷ 90 có 3384 tổ chức, chiếm 29% tổng số
các tổ chức sản nghiệp hoá nông
nghiệp
(6)
. Mô hình này đợc nông dân rất
hoan nghênh và có triển vọng phát triển
mạnh. Điển hình nh Hiệp hội rau quả
Lộc Bảo ở Gia Thành tỉnh Sơn Đông,
Hợp tác xã gia công rau quả Hồng Đạt-
Lai Dơng.
(3). Loại hình thị trờng chuyên
doanh và các nông hộ: Mô hình này lấy
thị trờng chuyên doanh hoặc trung tâm
giao dịch làm trung tâm, liên kết một
đầu là các nơi sản xuất, và đầu kia là các
nơi tiêu thụ. Mô hình này thích ứng cho
các sản phẩm không phải chế biến gia

công nhiều, chỉ cần xử lí đơn giản là có
thể đa vào tiêu thụ nh rau quả nông
sản.
Tiêu biểu cho mô hình này là Thọ
Quang của Sơn Đông. Thọ Quang khởi
nghiệp từ phát triển thị trờng bán buôn
rau quả. Nơi giao dịch thị trờng bán
buôn rau quả của Thọ Quang rộng 34
ha, mức tiêu thụ rau quả năm lên tới
100 triệu tấn, doanh số lên tới 1 tỷ NDT,
lôi kéo đợc vùng sản xuất rau quả rộng
tới 31 nghìn ha, sản phẩm bán đi 24 tỉnh
trong đó có 190 thành phố lớn và vừa,
mở chi nhánh tiêu thụ tại 180 thành phố
lớn và vừa. Mô hình này đến cuối thập
kỷ 90 có khoảng 1450 tổ chức, chiếm
13% tổng số tổ chức sản nghiệp hoá nông
nghiệp.
Quá trình phát triển sản nghiệp hóa

11

Ngoài ra, còn có các mô hình khác
nh các ngành chủ đạo và nông hộ. Các
địa phơng dựa vào u thế về ngành hay
sản phẩm điển hình phát triển thành
các dây chuyền. Mô hình khác nh các tổ
chức trung gian, các tổ chức khoa học
đứng ra kết nối các khâu sản xuất, tiêu
thụ các sản phẩm nông nghiệp.

4. Sản nghiệp hoá nông nghiệp tại
một số tỉnh của Trung Quốc
Sơn Đông là nơi khởi phát sản nghiệp
hoá nông nghiệp. Từ năm 2000 đến nay,
hơn 50% tổng số nông hộ tham gia vào
kinh doanh ngành nghề hoá nông
nghiệp, khoảng 350 xí nghiệp đợc liệt
vào xí nghiệp đầu tầu trọng điểm quốc
gia, hơn 200 xí nghiệp thuộc loại xí
nghiệp đầu tầu cấp tỉnh. Hiện nay, tỉnh
Sơn Đông có 21.000 xí nghiệp đầu tầu
gia công tiêu thụ các nông sản phẩm, giá
trị sản lợng hàng năm vợt 100 tỷ
NDT, lôi kéo hơn 8 triệu nông hộ, chiếm
41,2% tổng số nông hộ toàn tỉnh, thu hút
hơn 10 triệu lao động nông thôn, hơn
50% thu nhập của nông dân là từ phát
triển kinh doanh ngành nghề hoá nông
nghiệp
(7)
.
Hà Nam là một tỉnh nông nghiệp lớn
của Trung Quốc, dân số nông thôn chiếm
hơn 70% dân số của tỉnh. Thông qua
phát triển sản nghiệp hoá nông nghiệp,
Hà Nam đã trở thành tỉnh hàng đầu về
bột mì và các chế phẩm mỳ của Trung
Quốc, xúc xích Hà Nam chiếm 80%, sản
lợng mỳ ăn liền chiếm khoảng 30% thị
phần thị trờng Trung Quốc. Ngay từ

năm 1996, tỉnh Hà Nam đã đi đầu cả
nớc trong việc tổ chức hội nghị công tác
sản nghiệp hoá nông nghiệp, ra sức
phát triển và trợ giúp sản nghiệp hoá
nông nghiệp. Năm 2004, Hà Nam có
2284 xí nghiệp đầu tàu, trong đó có 23 xí
nghiệp đầu tàu trọng điểm quốc gia, mức
doanh thu đạt hơn 1 tỷ NDT có 12 xí
nghiệp
(8)
. Năm 2004 doanh thu của tập
đoàn Song Hội lên tới 1,6 tỷ NDT. Xí
nghiệp đầu tầu trọng điểm cấp tỉnh có
27 công ty. Các tổ chức kinh doanh
ngành nghề hoá nông nghiệp của tỉnh có
3059, lôi kéo 5,61 triệu hộ nông dân
tham gia, chiếm 29,2% tổng nông hộ
toàn tỉnh.
Hồ Nam cũng là tỉnh nông nghiệp lớn,
từ năm 1996 chính quyền tỉnh đã công
bố ý kiến về việc đẩy nhanh sản nghiệp
hoá nông nghiệp. Năm 2003, Hồ Nam
có hơn 60 xí nghiệp đầu tầu cấp tỉnh,
hơn 300 xí nghiệp đầu tầu cấp thành
phố trở lên
(9)
. Ngành nghề kinh doanh
của các xí nghiệp từ lơng thực, thịt lợn
những năm 90 thế kỷ XX, đến nay đã mở
rộng kinh doanh hơn 20 ngành nghề nh

trồng trọt, chăn nuôi, gia công, rau quả,
thức ăn gia súc, giày da, dệt may, dợc
liệucác công ty đầu tầu ngày một lớn
mạnh. Ví nh công ty hữu hạn phát
triển khoa học kỹ thuật Chính Hồng của
Hồ Nam, hiện có 5 xởng sản xuất, 8
công ty con, nhiều chi nhánh hoặc tham
gia cổ phần với công ty của tỉnh khác, có
32 dây chuyển sản xuất điều khiển bằng
máy tính, năng lực sản xuất thức ăn gia
súc hàng năm là 1,2 triệu tấn, đứng vào
hàng ngũ 500 công ty lớn sản xuất thức
ăn gia súc của Trung Quốc. Ví nh tập
đoàn Đờng Nhân Thần có tài sản lên

nghiên cứu trung quốc số 6(65) - 2005


12

tới 550 triệu NDT, doanh thu năm lên
tới 1,6 tỷ NDT, có 35 công ty con, đứng
hàng thứ 11 trong 50 công ty lớn về hàng
thịt của Trung Quốc.
Sản nghiệp hoá nông nghiệp ở Tứ
Xuyên cũng phát triển tơng đối mạnh,
hiện có hơn 4000 xí nghiệp đầu tầu, thực
hiện doanh thu lên tới 27 tỷ NDT, lôi kéo
5,48 triệu hộ nông dân chiếm 28,7% tổng
số nông hộ toàn tỉnh tham gia. Nhiều

chợ bán buôn lớn hình thành, ví nh thị
trờng bán buôn rau quả Bành Châu,
qua nhiều năm phát triển đã trở thành
thị trờng bán buôn hàng nông sản lớn
nhất vùng Tây Nam, mức giao dịch rau
quả hàng năm vợt 1 triệu tấn, mức giao
dịch vợt 1,3 tỷ NDT.
5. Thành tựu, vấn đề tồn tại và triển
vọng
Sản nghiệp hoá nông nghiệp đã có
những thành quả rõ nét qua gần hai
thập kỷ. Năm 1997 Trung Quốc có 11834
tổ chức kinh doanh sản nghiệp hoá nông
nghiệp. Năm 2001 có hơn 66.000 tổ chức
kinh doanh sản nghiệp hoá nông nghiệp.
Loại hình các tổ chức ngày càng đa dạng,
các xí nghiệp đầu tầu có tới hơn 27000,
các tổ chức trung gian hơn 2200. Năm
2002 các tổ chức sản nghiệp hoá nông
nghiệp lên tới 94.000 trong đó có 42000
xí nghiệp đầu tầu, tăng 41,6% so với
năm 2000
(10)
. Về loại hình tổ chức sản
nghiệp hoá theo ngành nghề: Tổ chức
sản nghiệp hoá loại hình trồng trọt
chiếm 44,8%, chăn nuôi 24,1%, thuỷ sản
8,2%, lâm nghiệp, thổ sản 10,4%, các
loại hình khác 10,5%. Về loại hình liên
kết: Phơng thức hợp đồng chiếm 51,9%,

hợp tác 12,6%, cổ phần 13,3%, các
phơng thức khác khoảng hơn 20%
(11)
.
Năm 2002, các tổ chức sản nghiệp hoá
nông nghiệp lôi kéo số nông hộ lên tới
hơn 7,2 triệu hộ, chiếm 30,5% tổng số
nông hộ toàn quốc. Năm 1997, các tổ
chức sản nghiệp hoá nông nghiệp miền
Đông có 6611, miền Trung có 4336, miền
Tây có 887, chiếm tổng số tổ chức sản
nghiệp hoá nông nghiệp trong toàn quốc
theo tỷ lệ lần lợt là 55,9%: 36,7%:7,4%.
Năm 2002, tổ chức sản nghiệp hoá nông
nghiệp miền Đông là 43000, chiếm 45%,
miền Trung là 29000, chiếm 31,2%, miền
Tây là 22000 tổ chức, chiếm 23,6%
(12)
.
Sản nghiệp hoá nông nghiệp miền Trung
và miền Tây Trung Quốc có tiềm năng
phát triển lớn và đã xuất hiện nhiều tổ
chức sản nghiệp hoá mạnh nh Cửu
Sơn, Du Tử, Song Hội, Mông Ngu. Hiện
nay, tổ chức kinh doanh sản nghiệp hoá
nông nghiệp đạt 114.000 đơn vị, tổng
mức tài sản cố định lên tới 809,9 tỷ NDT,
lôi kéo 84,54 triệu nông hộ tham gia
(13)
.

Các tổ chức này cũng mở rộng sang
nhiều ngành nghề, khu vực cũng rộng
khắp từ miền Đông sang miền Tây, hình
thức liên kết cũng đa dạng hơn. Một số
địa phơng đã hình thành các khu
chuyên doanh. Một số tỉnh đã xây dựng
quy hoạch phát triển sản nghiệp hoá
nông nghiệp. Nhiều ngời cho rằng sản
nghiệp hoá là cầu nối có hiệu quả để
hiện đại hoá nông nghiệp, là lối thoát
cho nông nghiệp, nông thôn, nông
dânTrung Quốc
(14)
.
Quá trình phát triển sản nghiệp hóa

13

Tuy nhiên, trình độ phát triển sản
nghiệp hoá nông nghiệp của Trung Quốc
còn thấp, số lợng các xí nghiệp đầu
tầu không lớn, quy mô nhỏ, sức cạnh
tranh yếu; sản nghiệp hoá nông nghiệp
mới ở giai đoạn đầu, giai đoạn tìm tòi và
bộc lộ nhiều hạn chế
(15)
. Hiện nay, sản
nghiệp hoá nông nghiệp mới chỉ lôi kéo
đợc 1/3 tổng số nông hộ trong toàn
quốc. Các xí nghiệp đầu tầu là kết nối

quan trọng giữa các nông hộ với thị
trờng, giữa các khâu sản xuất, giữa thị
trờng trong nớc và nớc ngoài. Song
hiện nay, quan hệ giữa các công ty đầu
tầu với các nông hộ, với các khâu sản
xuất, gia công, tiêu thụcòn lỏng lẻo,
môi trờng kinh doanh ngành nghề hoá
đòi hỏi trình độ phát triển nhất định của
sức sản xuất và đặc biệt hơn là mức độ
thị trờng hoá. Ngoài ra, các ngành và
sản phẩm chủ đạo cha rõ nét, cha
hình thành nhiều vùng chuyên doanh.
Hiện nay, nhiều tỉnh đã xây dựng quy
hoạch phát triển sản nghiệp hoá nông
nghiệp. Ví nh Quảng Tây, năm 2002, có
hơn 3000 tổ chức sản nghiệp hoá nông
nghiệp, bao phủ 1/3 nông thôn của
Quảng Tây. Cuối năm 2002, Quảng Tây
xây dựng Quy hoạch phát triển sản
nghiệp hoá nông nghiệp giai đoạn 2003-
2007, nêu ra mục tiêu đến năm 2007 xây
dựng 10 xí nghiệp đầu tầu trọng điểm có
mức doanh thu năm đạt 1 tỷ NDT, 150
xí nghiệp có doanh thu 100 triệu NDT;
xây dựng 10 thị trờng chuyên doanh
nông sản có mức giao dịch năm đạt 1 tỷ
trở lên; xây dựng 10 ngành nghề chủ đạo
nh gia súc, rau xanh, hoa quả, đờng,
dầu, thủy sản, dợc liệu, hoa, lôi kéo
40% tổng số nông hộ của tỉnh tham gia.

Ngày 23-4-2004, chính quyền Quảng Tây đã
ra Thông tri số 21 về đẩy nhanh kinh doanh
sản nghiệp hoá nông nghiệp
(16)
, trong đó đa
ra mục tiêu xây dựng 100 xí nghiệp đầu
tầu trọng điểm cấp tỉnh, 1000 xí nghiệp
nông nghiệp cốt cán khu vực, 10 hiệp hội
ngành nghề và 500 tổ chức hợp tác kinh
tế nông thôn, lôi kéo hơn 50% số nông hộ
của tỉnh tham gia.
Tháng 10 năm 2000, trong kế hoạch
5 năm lần thứ X, Trung ơng Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã nêu ra coi
kinh doanh sản nghiệp hoá nông nghiệp
là con đờng quan trọng thúc đẩy hiện
đại hoá nông nghiệp, khuyến khích, ủng
hộ các xí nghiệp gia công và tiêu thụ
nông sản, lôi kéo nông hộ tham gia thị
trờng, hình thành hình thức tổ chức, cơ
chế kinh doanh lợi ích cùng hởng, rủi ro
cùng chia. Tháng 11-2003, ĐCS Trung
Quốc đa ra Quyết định của Trung ơng
Đảng Cộng sản Trung Quốc về một số
vấn đề hoàn thiện kinh tế thị trờng
XHCN, qua đó Trung Quốc đang nỗ lực
xây dựng hệ thống thị trờng hoàn
thiện, thống nhất, tạo điều kiện phát
triển hơn nữa cho sản nghiệp hoá nông
nghiệp. Cùng với việc hoàn thiện thể chế

kinh tế thị trờng XHCN, sản nghiệp
hoá nông nghiệp sẽ gắn kết chặt chẽ hơn
quá trình hiện đại hoá nông nghiệp,
công nghiệp hoá nông thôn, đô thị hoá.
Văn kiện số 1 năm 2004 của Trung ơng
Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu ra đẩy
nhanh phát triển sản nghiệp hoá nông
nghiệp. Văn kiện số 1 năm 2005 nhấn

nghiên cứu trung quốc số 6(65) - 2005


14

mạnh tiếp tục đẩy nhanh phát triển
kinh doanh sản nghiệp hoá nông nghiệp.
Coi sản nghiệp hoá nông nghiệp là biện
pháp quan trọng để nâng cao năng suất
tổng hợp nông nghiệp, góp phần quan
trọng thực hiện hiện đại hoá nông
nghiệp, thúc đẩy công nghiệp hoá nông
thôn. Ngày 20-9-2005, Hội nghị công tác
sản nghiệp hoá nông nghiệp toàn Trung
Quốc, đa ra mục tiêu trong vòng 5 năm
tới lôi kéo 40% tổng số nông hộ toàn quốc
tham gia kinh doanh sản nghiệp hoá
nông nghiệp, mức gia công nông sản đạt
trên 50%, xây dựng hơn 100 thơng hiệu
nổi tiếng
(17)

.
6. Vai trò, ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm sản nghiệp hoá nông nghiệp
Trung Quốc
Vai trò và ý nghĩa
-Sản nghiệp hoá nông nghiệp là con
đờng giải quyết mâu thuẫn giữa sản
xuất nhỏ với thị trờng lớn. Chế độ
khoán đã làm cho các nông hộ trở thành
ngời sản xuất và kinh doanh hàng hoá,
tạo cơ sở cho các tổ chức kinh tế ở nông
thôn. Nhng các nông hộ sản xuất phân
tán không nắm bắt đợc tình hình và
diễn biến thị trờng, do vậy rất khó đối
phó với những rủi ro thị trờng. Tiếp
nữa, các hộ sản xuất phân tán có trình
độ tổ chức sản xuất thấp, đội giá thành
giao dịch lên cao, thu lợi thấp. Phát triển
sản nghiệp hoá nông nghiệp có thể thông
qua các xí nghiệp đầu tầu, các tổ chức
trung gian, kết nối các hộ sản xuất nhỏ,
các nơi sản xuất với thị trờng lớn, khắc
phục đợc nhợc điểm của sản xuất nhỏ,
nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao
năng lực cạnh tranh thị trờng.
-Phát triển sản nghiệp hoá nông
nghiệp là biện pháp hữu ích nâng cao
hiệu quả sản xuất nông nghiệp, tăng thu
nhập cho nông dân. Các nông sản đợc
tăng giá trị thông qua gia công, tiêu thụ,

thu nhập của nông dân cũng tăng nhờ
kết nối các khâu sản xuất-gia công-tiêu
thụ các sản phẩm nông nghiệp, qua đó
thúc đẩy mở rộng ngành nghề và tạo
việc làm cho nông dân.
-Sản nghiệp hoá nông nghiệp giúp
điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông thôn và
nông nghiệp, tạo phơng thức tăng
trởng mới. Sau những thành công của
chế độ khoán, phát triển xí nghiệp
hơng trấn, phát triển sản nghiệp hoá
nông nghiệp là thử nghiệm chứa đựng
những thành công mới của Trung Quốc.
- Sản nghiệp hoá nông nghiệp có lợi
cho chuyển dịch lao động dôi d của
nông thôn và đẩy nhanh tiến trình đô thị
hoá.
- Sản nghiệp hoá nông nghiệp thúc
đẩy nông nghiệp áp dụng khoa học kỹ
thuật hiện đại, đẩy nhanh bớc chuyển
biến từ nông nghiệp truyền thống sang
nông nghiệp hiện đại.
- Sản nghiệp hoá nông nghiệp giúp
Trung Quốc ứng biến tốt hơn với những
cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bài học kinh nghiệm
Trải qua hơn 20 cải cách và phát
triển, Trung Quốc đã giành đợc những
Quá trình phát triển sản nghiệp hóa


15

thành tựu to lớn, đời sống nhân dân đạt
mức khá giả. Tuy nhiên, chênh lệch giữa
các vùng, chênh lệch giữa thành thị và
nông thôn ngày càng lớn. Trung Quốc
đang đứng trớc sự phân cách thành thị-
nông thôn, công nghiệp - nông nghiệp
(nhị nguyên). Thu hẹp chênh lệch thành
thị nông thôn, phát triển hài hoà công
nghiệp, nông nghiệp là nhiệm vụ quan
trọng trong tiến trình hiện đại hoá. Sản
nghiệp hoá nông nghiệp phát huy tích
cực trong kết nối thành thị nông thôn,
công nghiệp và nông nghiệp. Nông
nghiệp muốn tiến nhanh tới nhà ga
hiện đại hoá thì phải có những đầu
tầu kết nối các khâu nông nghiệp sản
xuất nhỏ, liên kết sản xuất-gia công-tiêu
thụ, lôi kéo các ngành khoa học, thơng
mại, dịch vụ.
Việt Nam đã giành đợc những thành
tựu quan trọng trong công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Tuy nhiên, muốn đẩy nhanh triến trình
trên, chúng ta cần phát triển gắn kết
hơn nữa giữa công nghiệp với nông
nghiệp, thành thị và nông thôn. Xoá bỏ
những kỳ thị và rào cản phân cách

thành thị-nông thôn, công nghiệp-nông
nghiệp, tạo môi trờng và điều kiện phát
triển hơn nữa sức sản xuất nông thôn.
Phát huy sự chủ động, sáng tạo của
chính quyền các địa phơng trong đẩy
nhanh công nghiệp hoá, đô thị hoá nông
thôn.
Chú thích:
(1) Tạp chí Quan sát nông thôn Trung
Quốc, số 3-2005, tr.11.
(2) Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5-
1997.
(3) Nguyễn Minh Hằng: Một số vấn đề về
hiện đại hoá nông nghiệp Trung Quốc, Nxb
KHXH, Hà Nội 2003, tr.435.
(4) Bạch Việt Thế: Phân tích lựa chọn con
đờng hiện đại hoá nông nghiệp Trung
Quốc, Nxb KHXH Trung Quốc, Bắc Kinh
2004, tr.166.
(5), (6) Sử Vạn Lí: 20 năm cải cách nông
thôn Trung Quốc, Nxb Trung Châu cổ tịch,
năm 1998, tr. 171; 172. (Trung Quốc)
(7)
sf/
(8) www.hbagri.gov.cn/chanyehua/
(9)
/>.
htm
(10) Lu Bân chủ biên: Báo cáo vấn đề
tam nông Trung Quốc, Nxb phát triển Trung

Quốc, năm 2004.
(11) 10zhounian_
luntan/nycyh_luntan/01.htm
(12) Ngu Nhợc Phong, Lí Thành Quí,
Trình Hữu Quí: Nhìn lại và triển vọng vấn
đề tam nông của Trung Quốc, Nxb KHXH
Trung Quốc, năm 2004, tr.161.
(13)
976926.htm
(14) Kinh tế nhật báo Trung Quốc, ngày
14-11-2002.
(15) Nguyễn Minh Hằng: Một số vấn đề
về hiện đại hoá nông nghiệp Trung Quốc,
Sđd, tr.449.
(16) 2004/
12/01/7961.htm
(17) />76926.htm

×