Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.08 KB, 23 trang )

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở Việt Nam

Phạm Anh Bình

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn Thạc sĩ ngành: Kinh tế Chính trị; Mã số: 60.31.01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Danh Tốn
Năm bảo vệ: 2008

Abstract: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội và mối quan hệ giữa chúng. Nghiên cứu kinh nghiệm về giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước trên thế giới.
Khái quát sự hình thành và hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng về kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội trong tiến trình đổi mới. Phân tích tình
hình tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam từ năm 1986 đến
nay. Đánh giá những thành tựu, hạn chế về giải quyết mối quan hệ tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới. Đề xuất một số giải pháp: giữ vững sự chỉ
đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhà nước; tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN; hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế và hệ thống chính
sách xã hội; mở rộng và phát huy dân chủ; phòng chống tham nhũng và lãng phí; cải
thiện và bảo vệ môi trường nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và
công bằng xã hội ở Việt Nam

Keywords: Công bằng xã hội; Phát triển kinh tế; Tăng trưởng kinh tế; Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thế giới ngày nay, thì sự tiến bộ mỗi quốc gia trong khoảng thời gian nhất định


thường được đánh giá ở hai mặt là sự tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Thực hiện sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Đảng và nhà nước ta rất
chú trọng gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân.
Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện tiến bộ xã hội và công
bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển là quan điểm lớn của Đảng.
Chúng ta nhấn mạnh tính chất bền vững của phát triển, với ba chiều cạnh: tăng trưởng kinh
tế, công bằng xã hội, giữ gìn môi trường, đó cũng là cái đích hướng tới của thế giới ngày nay.
Hiện nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội. Một số nước đi theo quan điểm tăng trưởng trước thực hiện công bằng
xã hội sau; một số nước lại đi theo quan điểm ngược lại. Thực tế cho thấy cả hai xu hướng
trên đều vấp phải những trở ngại lớn. Do đó, quan điểm kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và

2
công bằng xã hội đã hình thành đang trở thành sự quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu và
hoạch định chính sách ở tất cả các quốc gia. Điều này càng trở nên cần thiết đối với Việt
Nam.
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua thời kỳ khủng
hoảng và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nền kinh tế
hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới…
Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đã đạt được Việt Nam còn có rất nhiều vấn đề phức
tạp và nan giải: vấn đề phân hóa giầu nghèo, sự chênh lệch về phát triển giữa thành thị và
nông thôn, đồng bằng và miền núi, bất bình đẳng trong thu nhập, còn hàng triệu hộ trong diện
đói nghèo, sự gia tăng của các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, tham nhũng … Từ những thực tế
trên thì việc nghiên cứu để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng và thiết thực cả về lý luận lẫn thực tiễn. Chính vì
vậy, tôi chọn vấn đề “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt
Nam ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2.Tình hình nghiên cứu
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đã được nghiên cứu rất nhiều qua các giai
đoạn và góc độ khác nhau. Trong thời gian qua, có nhiều công trình của các tác giả khác nhau

nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể đến như:
- Dương Bá Phượng (chủ biên): “ Tổng Luận Phát triển kinh tế và công bằng xã hội” ,
Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Kinh tế học, năm 1995.
- Lê Bộ Lĩnh (chủ biên): “ Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước
Châu Á và Việt Nam”, NXB Chính trị Quốc Gia, năm 1998.
- Lê Văn Sang, Kim Ngọc (đồng chủ biên): “ Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội ở Nhật Bản giai đoạn “Thần kỳ” và Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, NXB Chính trị
Quốc Gia, 1999.
- Phạm Hảo, Võ Xuân Tiên, Mai Đức Lộc (đồng chủ biên): “Tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung”, Học viện
chính trị Quốc Gia, năm 2001.
- Chuyên đề của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: “ Kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội bền vững ở Việt
Nam”, CIEM - FES, thông tin chuyên đề số 7, 2004.
- Đinh Văn Ân (chủ biên) “Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội tốc độ
nhanh, biền vững và chất lượng cao ở Việt Nam”, NXB Thống kê Hà Nội, 2005.
- Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) : “20 năm đổi mới thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và phát triển văn hóa”, NXB Chính trị Quốc gia, 2008.
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh về tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội, vấn đề thu nhập, mức sống của các tầng lớp xã hội, sự phân hóa giầu
nghèo của dân cư, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần tạo ra sự công bằng trong xã
hội.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách hệ
thống từ góc độ của khoa học kinh tế chính trị vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam ở Việt Nam trong những năm gần đây
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:

3
Nghiên cứu thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam hiện

nay, mối quan hệ của hai vấn đề này, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm giải
quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam trong
thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được những mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn là:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội và mối quan hệ giữa chúng.
- Nghiên cứu kinh nghiệm về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở một số nước trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong những năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết
hợp sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, lôgíc kết hợp với lịch sử để
giải quyết các nhiệm vụ của đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá và góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
- Phân tích và làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội ở Việt Nam.
- Đưa ra các giải pháp nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế

và công bằng xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội -Một số vấn đề lý luận chung và
kinh nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.

4
Chương 1
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1 Lý luận chung về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1.1.1 Tăng trưởng kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm
Việc nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế đã được bắt đầu ngay từ khi khoa học kinh tế
chính trị mới hình thành. Việc nghiên cứu về chủ đề này đã được đặt nền móng từ những nhà
kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh như A. Smith (1723 - 1790) và D. Recardo (1772 -
1823). Tăng trưởng kinh tế được hiểu một cách phổ quát theo quan điểm kinh tế học là sự gia
tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian (thường là một năm). Điều đó
cũng có nghĩa là: tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về số lượng,chất lượng các hàng hoá
dịch vụ.
Tăng trưởng kinh tế là khái niệm phản ánh về sự gia tăng về lượng của một nền kinh
tế, nó chưa nói lên bản chất xã hội của nền kinh tế đó. Đây là kinh tế “tự thân”, kinh tế vì
kinh tế. Để khắc phục tình trạng này các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm Phát triển kinh tế để
phản ánh cả mặt “chất” và mặt “lượng” của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế là khái niệm có nội hàm rộng hơn Tăng trưởng kinh tế, bao gồm cả
sự tăng trưởng kinh tế (sự tăng trưởng về lượng) và sự đạt được các chỉ tiêu về chất - trước

hết là chất lượng cuộc sống (mức tiêu dùng vật chất; mức hưởng thụ về tiêu dùng dịch vụ và
phúc lợi xã hội; sự bình đẳng của con người )
1.1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế:
* Các nguồn lực kinh tế
- Vốn (tư bản)
- Tài nguyên thiên nhiên
- Khoa học - công nghệ
- Tài nguyên con người
* Vai trò của chính phủ đối với sự tăng trưởng kinh tế
* Đặc điểm dân tộc, tôn giáo, văn hóa của quốc gia
* Quan hệ kinh tế quốc tế
1.1.1.3 Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế
 Tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc dân
thuần tuý
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP
- Tổng sản phẩm quốc dân thuần túy (NNP)
 Thu nhập bình quân tính theo đầu người
Chỉ số thu nhập bình quân/ đầu người phản ánh mức sống và thu nhập của dân cư, được
tính bằng GNP, GDP thực tế chia cho tổng số dân của một quốc gia.

5
1.1.2. Công bằng xã hội
1.1.2.1 Quan niệm về công bằng xã hội
Theo nghĩa rộng, công bằng xã hội là công bằng về các quyền của con người và về
điều kiện thực hiện các quyền đó của các cá nhân - con người ( hay rộng hơn, của các chủ
thể xã hội).
Trong kinh tế học người ta chia công bằng xã hội thành hai dạng là công bằng theo
chiều dọc và công công bằng theo chiều ngang. Công bằng theo chiều ngang có nghĩa là đối
xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau và công bằng theo chiều dọc là

nghĩa là đối xử khác nhau đối với những người có khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện
xã hội khác nhau. Nếu như công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường
thì công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của chính phủ. Việc nhận định và kết hợp
công bằng theo chiều dọc và theo chiều ngang sẽ đảm bảo công bằng thực sự. Như vậy, công
bằng xã hội là khái niệm rất rộng, bao gồm cả yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, và văn hóa.
Xét một cách tổng thể công bằng xã hội gắn với phát triển toàn diện con người và là kết quả
của sự phát triển đó.
1.1.2.2. Các thước đo đánh giá sự bất bình đẳng và công bằng xã hội
 Chỉ số phát triển con người (HDI)
 Thước đo bình đẳng về phân phối thu nhập
- Đường cong Lorenz
- Hệ số Gini:
- Cơ cấu thu nhập tính theo nhóm
- Tiêu chuẩn “40” của Word Bank
 Mức độ nghèo khổ
1.2. Quan điểm lý thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1.2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Có nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội và việc giải quyết mối quan hệ này.
Quan điểm thứ nhất (Simon Kuznets - 1995) đã đưa ra quan điểm lý thuyết “chữ U
ngược” về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng, nghĩa là mức độ bất bình
đẳng về thu nhập có xu hướng tăng trong các giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, sau đó sẽ
giảm bớt đi, khi nền kinh tế đạt tới một trình độ phát triển cao hơn.
Giống như Simon Kuznets, sau này nhà kinh tế học W. Arthur Lewis trong tác phẩm
kinh tế học :“Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế” đã cho rằng tăng trưởng không chỉ đem lại bất
công mà khi tăng trưởng kinh tế đạt đến một trình độ nhất định thì nó lại là điều kiện để thực
hiện công bằng xã hội vì tăng trưởng kinh tế làm tăng của cải xã hội từ đó mở rộng phạm vi
chọn của con người.
Quan điểm thứ hai (Deumnger và Squire, 1988) cho rằng không có bằng chứng chứng
minh mối quan hệ theo mô hình “chữ U ngược” trong quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất

bình đẳng về thu nhập khi xem xét các nước riêng lẻ, nghĩa là tăng trưởng kinh tế không làm
bất bình đẳng gia tăng ngay cả trong giai đoạn đầu của phát triển ở các nước kém phát triển.
Các công trình nghiên cứu của Ngân hàng thế giới trong thập kỷ 90 cũng xác nhận quan
điểm này. Công trình nghiên cứu mới nhất của Adams (2002) dựa trên số liệu của “Khoảng

6
thời gian quan sát” (mỗi khoảng thời gian quan sát được tính là hai lần điều tra mức sống cấp
quốc gia được nghiên cứu) của 50 nước trong thời kỳ 1988 đến 1999. Kết quả nghiên cứu này
cũng khẳng định tăng trưởng kinh tế có lợi cho việc xóa đói giảm nghèo, vì tăng trưởng kinh
tế không có ảnh hưởng nhiều đến bất bình đẳng.
Mỗi một giả thuyết, hay quan niệm nói trên là xuất phát từ sự phân tích quá trình tăng
trưởng và sự công bằng xã hội đã diễn ra ở một số nước nhất định ở những thời kỳ khác nhau
mà khái quát lên, cho nên tính đúng đắn có thể mang tính phiến diện, song chúng ta cũng
không thể phủ nhận hoàn toàn.
Giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt của một quá trình phát triển biện
chứng khách quan, vừa mâu thuẫn đối kháng nhau, nhưng lại liên hệ tác động qua lại rất chặt
chẽ, cái nọ làm tiền đề cho cái kia, cùng vận động phát triển theo chiều hướng tiến bộ không
ngừng.
1.2.2. Quan điểm lý thuyết về việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
thực hiện công bằng xã hội
1.2.2.1 Quan điểm “tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, coi các vấn
đề xã hội nảy sinh là cái giá phải trả của kinh tế thị trường”
1.2.2.2 Quan điểm “Ưu tiên công bằng xã hội hơn tăng trưởng kinh tế”
1.2.2.3 Quan điểm “Thực hiện đồng thời tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội”
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội
1.3.1 Kinh nghiệm của các nước ASEAN
Việc xoá bỏ nghèo, đói, bệnh tật và nạn mù chữ là mối quan tâm chủ yếu của các quốc
gia thành viên ASEAN. Các nước do đó luôn tăng cường hợp tác trong phát triển kinh tế và
xã hội, trong đó đặc biệt nhấn mạnh nâng cao công bằng xã hội và cải thiện chất lượng cuộc

sống của người dân nước mình.
- Kinh nghiệm của Singapore
- Kinh nghiệm của Malaixia
- Kinh nghiệm của Inđônêxia
1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Ngay từ khi cải cách nền kinh tế thì việc thực hiện công bằng xã hội bên cạnh sự tăng
trưởng kinh tế cũng được quan tâm giải quyết từng bước thông qua hàng loạt mục tiêu và
chính sách của Nhà nước như: đặt mục tiêu cơ bản, hàng đầu của quá trình cải cách đó là cải
thiện đời sống, mức thu nhập của nhân dân; công nghiệp hóa nông thôn, lấy công nghiệp
phục vụ nông nghiệp; tận dụng tối đa sức ảnh hưởng lan tỏa của các khu vực phát triển đối
với các khu vực kém phát triển để từ đó phát triển những khu vực kinh tế trọng điểm; chính
sách giải quyết việc làm đặc biệt là lao động ở nông thôn; chính sách bảo đảm xã hội…
Chính vì thế mà Trung Quốc thu được những thành tựu đáng kể trong việc giải quyết
hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Thu nhập bình
quân đầu người tăng từ 378 nhân dân tệ năm 1978 lên 6279,9 nhân dân tệ vào năm 2000,
tăng lên 16 lần. Năm 1978 thì 30,7% dân số Trung Quốc thuộc diện đói nghèo, thì đến năm
1985 tỷ lệ này chỉ còn là 11,8% và năm 1995 là 5,4%. Mạng lưới đào tạo nghề được thiết lập
trong cả nước, mỗi năm có từ 70% đến 80% lao động được đào tạo và đào tạo lại. Giải quyết

7
việc làm cho hàng trăm triệu lao động đặc biệt là trong khu vực nông thôn, ví dụ như các xí
nghiệp công - nông Hương Trấn năm 1978 chỉ mới thu hút được 28,3 triệu lao động thì đến
năm 1995 đã giải quyết được việc làm cho 128,6 triệu lao động.
Nhưng những năm gần đây do tập trung cao độ cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
Trung Quốc đã có phần xem nhẹ các mục tiêu xã hội. Hệ quả là kể từ những năm 1990 trở đi,
tiến bộ và phát triển xã hội của Trung Quốc đã chậm lại một cách đáng kể so với thời kỳ
trước đó, và trên thực tế, nhiều thách thức mới xuất hiện cùng với quá trình cải cách.
Tuy nhiên, bên cạnh duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì "phát triển một xã hội cân
bằng là mục tiêu trên hết” của Trung Quốc. Từ năm 2005, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
định hướng đến năm 2020 Trung Quốc sẽ thu hẹp khoảng cách phân hóa giàu nghèo trong xã

hội và sẽ giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp.
Để thực hiện được những mục tiêu này, Trung Quốc đang thực hiện hàng loạt các
chính sách phát triển kinh tế mới như trợ cấp nông nghiệp , trợ cấp thuế cho nông dân, xây
dựng hạ tầng nông thôn và cải thiện điều kiện y tế, giáo dục cho các vùng kém phát triển hơn
ở miền Tây, thực hiện chiến lược “Đại khai phá miền Tây” để phân phối sự thịnh vượng ra cả
nước.
Hiện nay, Chính phủ Trung Quốc đang đầu tư công nghệ chế tạo năng lượng sạch,
xây dựng hạ tầng nông thôn và cải thiện điều kiện y tế, giáo dục cho các vùng kém phát triển
hơn ở miền Tây, thực hiện chiến lược “Đại khai phá miền Tây” để phân phối sự thịnh vượng
ra cả nước.
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Nhà nước có vai trò quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công
bằng xã hội.
- Đa dạng hóa các loại hình sở hữu, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp.
- Chủ động tích cực tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
- Đẩy mạnh tạo việc làm đầy đủ, hạn chế thấp nghiệp là giải pháp quan trọng ngay
trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa hiện đại hóa.
- Giáo dục phải được tăng cường đầu tư .
- Hình thành hệ thống pháp luật cụ thể, rõ ràng về phòng, chống tham nhũng.

8
Chương 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Sự hình thành và hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế
với thực hiện công bằng xã hội trong tiến trình đổi mới
Bước vào Đổi mới, cùng với đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, Việt Nam đã

chuyển đổi mạnh mẽ mô hình phát triển kinh tế để phát triển xã hội. Những bước chuyển đổi
về mô hình, cơ chế, chính sách và cả thể chế luật pháp, thiết chế tổ chức bộ máy đã diễn ra
như một quá trình suốt hơn hai thập kỷ qua không hề đơn giản, dễ dàng.
Tiến trình đổi mới được thực hiện ở những bước chuyển căn bản sau đây:
- Từ sở hữu đơn nhất, thuần nhất (công hữu) sang đa dạng sở hữu và đa dạng thành
phần kinh tế, phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh có sở hữu hỗn hợp; trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Từ từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp và bình quân sang áp
dụng cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
- Từ cơ chế thị trường với cạnh tranh phân hóa vượt trội sang xây dựng đồng bộ thể
chế kinh tế thị trường và giờ đây là phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, coi tất cả các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư nhân gồm nhiều loại đều nằm
trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân thống nhất, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, cùng phát
triển lâu dài.
- Từ cách hiểu không đúng về công bằng xã hội là bình quân chia đều sang cách hiểu
đúng, xác thực, phải phân phối lợi ích theo kết quả lao động, đồng thời phải đa dạng các hình
thức phân phối lợi ích, có cạnh tranh và vượt trội, thấy đúng thực chất của công bằng trước
hết là công bằng về cơ hội phát triển.
- Từ chỗ chưa gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, nhận thức
chưa đầy đủ vai trò của đầu tư về mặt xã hội, đến nhận thức rõ đầu tư về mặt xã hội chính là
đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển,
Đại hội VI của Đảng lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ “chính sách xã hội”, đặt đúng vị trí
và vai trò của chính sách xã hội: “chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con
người; điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai
cấp, quan hệ dân tộc”.
Tuy nhiên, phải đến năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH, được Đại hội VII của Đảng thông qua, vấn đề kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội mới được đặt trong nội dung, phương hướng của chính sách
xã hội. Cương lĩnh ghi rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động
lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH

Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở
đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân; kết hợp tốt giữa tăng

9
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần; giữa đáp ứng
các nhu cấu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã
hội. Chính sách xã hội đảm bảo và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành
viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh, và nâng cao thể chất”.
Văn kiện Đại hội VII đã nhấn mạnh thêm: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất
với mục tiêu phát triển kinh tế, nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con
người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần của nhân dân. Coi
phát triển kinh tế là tiền đề và là cơ sở và là cơ sở thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện
tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.”
Đại hội VIII đánh dấu một bước phát triển mới trong nhận thức lý luận và chỉ đạo thực
tiễn về tăng trưởng kinh tế kết hợp với thực hiện công bằng xã hội được thể hiện rõ trong các
quan điểm để hoạch định hệ thống chính sách xã hội.
Tiếp tục tinh thần ấy, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, quan điểm kết hợp tăng trưởng kinh
tế với thực hiện công bằng xã hội được nêu rõ: “Đường lối kinh tế của Đảng ta là: đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta thành nước
công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường, kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh - quốc phòng”
Đại hội Đảng lần thứ X, đã nêu rõ mục tiêu, phương hướng tổng quát của 5 năm 2006
- 2010 là : “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng

xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.” Đại hội tiếp tục khẳng định: “ Thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển văn hóa, y tế, giáo dục… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con
người.”

2.2. Tình hình tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam từ năm
1986 đến nay
2.2.1. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế
2.2.1.1. Những thành tựu đạt được
- Về tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu người:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá của Việt Nam những năm vừa qua là do các ngành kinh
tế đều có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao.
Bảng 1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997 - 2007 (%)

10
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007

GDP
8,15
5,76
4,77
6,79
6,89
7,08
7,34
7,79
8,44
8,17
8,44
NLTS
4,33
3,53
5,53
4,63
2,89
4,17
3,62
4,36
4,02
3,3
3,0
CNXD
12,62
8,33
7,68
10,07
10,39

9,48
10,48
10,22
10,69
10,37
10,4
DV
7,14
5,08
2,25
5,32
6,10
6,54
6,45
7,26
8,48
8,29
8,5

Theo Báo cáo phát triển con người 2007/2008 của Liên hợp quốc thì GDP bình quân
trên đầu người của Việt Nam năm 2005 là 631 USD, tốc độ tăng trưởng GDP trên đều người
ở Việt Nam khoảng 5,9%/năm trong giai đoạn 1990 - 2005 . Năm 2007 thì GDP bình quân
đầu người đạt 835 USD. Theo Báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ tư, Quốc Hội khóa XII
(tháng 10-11/2008) thì Việt Nam có thể đạt GDP/người năm 2008 là từ 1050 - 1100 USD
- Về cơ cấu kinh tế:
+ Cơ cấu ngành kinh tế nước ta trong những năm qua đã có bước chuyển dịch tích cực,
với tỷ trọng các lĩnh vực kinh tế có giá trị gia tăng ngày càng tăng.
+ Cơ cấu kinh tế vùng chuyển dịch theo hướng phát huy các lợi thế so sánh.
- Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh
- Kinh tế đối ngoại: Ngày 07/11/2006 Việt Nam chính thức là thành viên của WTO.

Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, số vốn FDI, ODA đăng ký đầu tư vào Việt Nam tăng
nhanh
Nhìn chung, sau hơn 20 thực hiện công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã đạt được
những thành tựu trên nhiều mặt về tăng trưởng kinh tế: tốc độ tăng trưởng GDP luôn duy trì ở
mức cao, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển đổi theo xu hướng hiện đại và và đạt được những
kết quả nhất định, hoạt động kinh tế đối ngoại tiếp tục có những tiến mới rất quan trọng. Đây
chính là những tiền đề và là cơ sở vật chất cho việc thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời
sống của nhân dân.
2.2.1.2 Những hạn chế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới là rất khả quan.
Nhưng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế, thiếu ổn định,
thiếu tính đồng bộ và độ bền vững.
- Tốc độ tăng trưởng chưa ổn định
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm
- Lạm phát cao trong thời gian gần đây
- Chất lượng tăng trưởng còn thiếu các yếu tố bền vững
- Năng lực cạnh tranh quốc gia còn kém
2.2.2. Thực hiện công bằng xã hội
2.2.2.1. Phát triển kinh tế nhiều thành phần và đa dạng hóa các hình thức phân phối
Quá trình đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ tạo sự
tăng trưởng kinh tế mà còn tạo nhiều điều kiện thực hiện công bằng xã hội nhìn từ góc nhìn
phân phối, thực hiện đa dạng hóa các loại hình sở hữu, để mỗi người có thể tham làm kinh tế
theo điều kiện và khả năng có thể của mình, Đảng và Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các
thành phần kinh tế phát triển bình đẳng.

11
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hoá loại hình sở hữu,
các thành phần kinh tế, tạo nhiều cơ hội để mọi người có thể tham gia làm kinh tế tuỳ theo
điều kiện và khả năng có thể của mình.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng ghi rõ: "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế". Trong phân phối
không chỉ cần chú ý đến sự đóng góp của lao động sống, mà còn phải chú ý tới mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh, đây là một nét mới trong quá trình đổi
mới. Đó cũng là hình thức hiện thực công bằng xã hội từ góc nhìn đóng góp và hưởng thụ.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn đòi hỏi phải chú ý đến việc phân
phối thông qua phúc lợi xã hội như: thực hiện chính sách người có công với nước, với dân,
chính sách bảo trợ những người già cả, cô đơn không nơi nương tựa, chính sách đối với trẻ
em lang thang có hoàn cảnh khó khăn, chính sách bảo trợ phát triển xã hội ở vùng sâu, vùng
xa, chính sách xóa đói giảm nghèo… Ba hình thức phân phối cơ bản này đã được thể hiện
trong các văn bản lớn của Đảng và Nhà nước. Trong những năm đổi mới vừa qua, việc thực
hiện chế độ phân phối theo hiệu quả lao động, các nguồn lực đóng góp, phúc lợi xã hội đã thật
sự kích thích người lao động.
2.2.2.2. Xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam và triển khai thành
phong trào xoá đói giảm nghèo.
Chính thức được khởi xướng vào năm 1998 bằng chương trình 133 (Chương trình Mục
tiêu xóa đói giảm nghèo) có mục tiêu hỗ trợ các hộ nghèo trên toàn quốc, Chương trình đã
huy động khoảng 19. 000 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương và địa phương.
Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo ban đầu gồm 6 chính sách liên
quan đến các lĩnh vực hỗ trợ miễn giảm phí khám chữa bệnh; miễn giảm học phí; hỗ trợ đồng
bào dân tộc; hỗ trợ những người dân yếu thế, dễ bị tổn thương; hỗ trợ nhà ở và công cụ sản
xuất. Ở Việt Nam, phương pháp lồng ghép đã trở thành giải pháp hữu hiệu nhất để xóa đói,
giảm nghèo.
2.2.2.3 Tạo việc làm
Nhà nước đã thực hiện nhiều Chương trình quốc gia về việc làm song song đồng thời
với các Chương trình xóa đói giảm nghèo.
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định phê duyệt Chương trình quốc gia về việc làm đến
năm 2010. Mục tiêu của Chương trình này là tạo được 2 đến 2,2 triệu việc làm trong giai
đoạn 2006 – 2010
2.2.2.4 Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn

Trong giai đoạn hiện nay, nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh của nông thôn và khắc
phục sự chênh lệch ngày càng tăng giữa nông thôn và thành thị, Đảng và Nhà nước đã xây
dựng thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trong đó các chương
trình trọng điểm là; xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, mở rộng các hình thức thu hút việc
làm, đầu tư cho giáo dục và y tế nông thôn. Đặc biệt là thông qua một số Chương trình quốc
gia, như:
- Chương trình 327, phủ xanh đất trống đồi núi trọc
- Chương trình mục tiêu Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn .

12
- Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn
Ngoài ra, Nhà nước còn rất nhiều chính sách ưu đãi cho khu vực này như đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng, vệ sinh môi trường, chính sách tạo việc làm, ưu đãi về tín dụng, đặt biệt
là đối với các hộ nghèo.
2.2.2.5 Văn hóa, giáo dục, y tế.
- Văn hóa: Các hoạt động văn hóa thông tin trong thời kỳ đổi mới phát triển đúng với
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Công tác bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc ít người
được coi trọng và phát triển.
- Giáo dục: Việt Nam luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất
lượng dạy và học; huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế trong sự nghiệp phát triển
giáo dục và đào tạo theo định hướng xã hội hóa.
- Y tế: Đảng và Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác
Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân (CS&BVSKND). Hệ thống y tế từ Trung ương xuống
huyện, xã bắt đầu được củng cố và tăng cường đầu tư để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe
nhân dân.
2.2.2.6 Vấn đề môi trường sinh thái
Chính phủ đã có những cam kết rõ rệt về môi trường và coi đây là một trong những

mục tiêu chính của Chính phủ, bên cạnh các mục tiêu về kinh tế và xã hội như trước đây.
Được bắt đầu bằng "Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn
1991-2000" (Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991)
2.3 Đánh giá chung về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội trong thời kỳ đổi mới
2.3.1 Những thành tựu đã đạt được
- Xóa đói giảm nghèo: Tỷ lệ người nghèo theo chuẩn quốc tế giảm từ 58,1% năm
1993 xuống 24,1% năm 2004 tương đương với 60% hộ nghèo. Việt Nam đã hoàn thành sớm
hơn so với Kế hoạch Thiên nhiên kỷ là giảm hơn một nửa tỷ lệ đói nghèo vào năm 2005.
Năm 2007 tỷ lệ người nghèo trên toàn quốc là 14,75 % (khoảng 13 triệu người).
Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt: Thu nhập bình quân đầu người nước ta từ
220USD/người/năm đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã tăng lên 400USD/người/năm
(2000), tăng 1,8 lần, 483 USD/người/năm (2003), 580 USD/người/năm (2004); 631
USD/người/năm (2005) và 729 USD/người/năm (2006) và 809 USD/người/năm vào năm
2007. Tốc độ tăng trưởng GDP trên đầu người ở Việt Nam khoảng 5,9%/năm trong giai đoạn
1990 - 2005 .
- Giải quyết việc làm: Tổng số việc làm hàng năm tăng liên tục. Số lao động được tạo
việc làm mới trong giai đoạn 1986 - 1990 là 4,2 triệu lao động, giai đoạn 1991 - 1995 là 5
triệu lao động, giai đoạn là 2001 -2005 là 7,54 triệu lao động, năm 2006 là 1,65 triệu lao
động và năm 2007 là 1,6 triệu lao động.
- Giảm bất bình đẳng về giới: Việt Nam cũng đã đạt được được những thành tựu đáng
ghi nhận trong lĩnh vực bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ. Tỷ lệ nữ chiếm 51%

13
dân số và 48,2% lực lượng lao động xã hội, đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và
trong công cuộc phát triển đất nước.
- Giáo dục: Hệ thống giáo dục quốc dân khá hoàn chỉnh được hình thành, bao gồm đầy
đủ các cấp học bậc học và các loại hình nhà trường như công lập, dân lập và tư thục. Tỷ lệ
học sinh tiểu học nhập học đúng độ tuổi quy định tăng từ 90% trong những năm 1990 lên
94,4% năm học 2003 - 2004, Việt Nam gần đạt được các mục tiêu MDG cho giáo dục toàn

cầu.
- Văn hóa - thông tin: Phát triển văn hóa thông tin, nâng cao đời sống nhân dân. Số hộ
đạt chuẩn gia đình văn hóa cả nước đạt 8,2 triệu hộ (45,7% số hộ) năm 2001 đã tăng lên 12
triệu hộ (67,1% số hộ) năm 2004. Đến nay đã có 100% các Trung tâm cụm xã có đường ô tô,
có điểm Bưu điện văn hóa, có Trung tâm thương mại. Đến cuối năm 2004, cả nước đã xây
dựng mới và nâng cấp 4.416 nhà văn hóa cấp xã, trong đó có nhiều nhà văn hóa cho đồng bào
dân tộc ít người.
- Y tế: Chính phủ đã chú trọng phát triển hệ thống y tế, tăng cường bảo vệ sức khỏe
cho nhân dân, đặc biệt là bảo vệ sức khỏe trẻ em và sức khỏe bà mẹ, cũng như phòng chống
HIV/AIDS và các bệnh nguy hiểm khác.
- Môi trường, sinh thái: Vấn đề môi trường của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến
đáng kể. Tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch tăng từ 26,2% năm 1993 lên 70% năm
2004. Riêng tỷ lệ này ở nông thôn đã tăng mạnh, từ 18% năm 1993 lên 58% năm 2004, 71%
vào năm 2007.
- An sinh xã hội: Năm 2005, có tổng số 16% dân số được bảo hiểm. Năm 2007 có
37,85 người tham gia bảo hiểm xã hội. Số người được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đã
tăng từ trên 175.000 người năm 2000 lên 578.000 người năm 2007, kinh phí trợ cấp cũng
tăng từ 123 tỷ đồng năm 2000 lên 590 tỷ đồng năm 2007.
- Phát triển con người: Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục
tăng trong bảng xếp hạng của Liên hợp quốc; năm 1990 HDI của Việt Nam là 0,608 tăng lên
0,682 vào năm 2001; 0,688 năm 2002 và 0,733 vào năm 2005.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Những hạn chế
- Bất bình đẳng trong thu nhập tăng lên
- Bất bình đẳng giới: Tình trạng bất bình đẳng về giới vẫn còn tồn tại, nhất là bất bình
đẳng về các cơ hội kinh tế, thu nhập và phân bổ lao động và thời gian lao động.
- Thành tựu xóa đói giảm nghèo chưa vững chắc
- Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm diễn ra nghiêm trọng
- Các lĩnh vực văn hóa - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục
- Ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng

- Hệ thống an sinh xã hội chưa hiệu quả
- Giá trị chỉ số HDI: Thứ hạng HDI của nước ta so với các nước trên thế giới và trong
khu vực còn ở mức thấp, tăng chậm
2.3.2.2 Nguyên nhân
- Mô hình tăng trưởng kinh tế và cơ chế phân bổ nguồn lực chủ yếu là yếu tố có ảnh
hưởng trực tiếp mạnh nhất và lâu dài đến việc tạo lập công bằng xã hội. Trong những năm

14
qua, Việt Nam tuyên bố theo đuổi mô hình tăng trưởng “thị trường - hướng về xuất khẩu”.
Tuy nhiên, mô hình triển khai thực tế lại lệch sang xu hướng “thị trường- thay thế nhập
khẩu”. Việc áp dụng mô hình tăng trưởng và xác định hướng phân bổ nguồn lực như vậy có
những hệ quả tất yếu rõ rệt đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội,
đáng chú ý là:
Thứ nhất, Tăng trưởng cao nhưng không mở rộng cơ hội việc làm tương ứng, chi phí
đào tạo ra một chỗ làm việc cao.
Thứ hai, Phân phối thu nhập không thực hiện một cách đồng đều.
Thứ ba, Có một nhóm người giầu nhanh nhờ đặc quyền đặc lợi tiếp cận với các nguồn
lực phát triển.
- Để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo vẫn còn không ít khó khăn và thách thức:
Thứ nhất, tình trạng thu nhập của khu vực sản xuất nông nghiệp thấp và tăng chậm,
trong khi người nghèo lại tập trung chủ yếu ở khu vực này.
Thứ hai, nguồn lực huy động cho chương trình xóa đói, giảm nghèo còn khiêm tốn.
Thứ ba, một số cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ xóa đói giảm nghèo chưa thật
phù hợp, việc tổ chức thực hiện còn bất cập, còn mang tính bao cấp, nên không tạo được động
lực để người nghèo chủ động vượt nghèo.
Thứ tư, việc tổ chức thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo không đồng đều ở
một số địa phương.
- Hiệu năng quản lý của Nhà nước còn thấp.
Nhìn nhận ở khía cạnh khác, tình trạng chênh lệch thu nhập và phân hóa giầu nghèo
cũng như bất bình đẳng có phần gia tăng trong thời gian qua ở nước ta phản ánh xu hướng

tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và nhìn chung, những sự chênh lệch này
vẫn nằm trong giới hạn hợp lý của sự “ đánh đổi”. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ những nguy cơ
và thách thức đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Thực tế này đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết trong chủ trương và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong
thời gian tới.
2.3.3. Những vấn đề đặt ra
- Trong thời gian qua, chênh lệch giầu nghèo tăng tương đối nhanh
- Nếu xét tỷ lệ nghèo của Việt Nam theo chuẩn quốc tế, thì tỷ nghèo thực tế còn cao
(khoảng 30%), đặc biệt là trong khu vực nông thôn. Do đó để tăng được thu nhập (lên trên
mức 200.000 đồng/người/tháng), giảm được nghèo cho hơn 90% người nghèo, tương đương
hơn 4 triệu hộ gia đình với khoảng gần 20 triệu người hiện đang sống trong khu vực nông
thôn sẽ là một thách thức rất lớn trong giai đoạn mới.
- Mặc dù tình trạng bất bình đẳng giới đã được cải thiện một cách rõ rệt nhưng vẫn
còn tồn tại sự bất bình đẳng về lao động giữa nữ giới và nam giới.
- Việc gia nhập WTO cũng sẽ có tác động không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội của Việt Nam trong thời gian tới.

15
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT HIỆU QUẢ MỐI QUAN HỆ GIỮA
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI.

3.1 Bối cảnh mới và tác động của nó đến việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
3.1.1 Bối cảnh quốc tế
Chỉ tính từ 1995-2000, số tài sản của 200 người giàu nhất thế giới đã tăng gấp đôi
(lên hơn 1000 tỷ USD). Trong khi đó, số người sống dưới mức nghèo khổ vẫn là 1,3 tỷ người.
Trên 90% số người nghèo khổ hiện nay đang sống ở các nước đang phát triển. Từ năm 1971
đến nay, số nước nghèo vì chậm phát triển không giảm đi mà còn tăng từ 25 đến 48 nước.

Các nước công nghiệp phát triển chỉ có 1,2 tỷ người (20% dân số thế giới) nhưng chiếm tới
86% GDP toàn cầu và 4/5 thị trường xuất khẩu. Trong khi đó, các nước nghèo nhất cũng với
một số lượng dân tương tự chỉ chiếm 1% GDP toàn cầu, 0,4% kim ngạch xuất khẩu và 0,6%
kim ngạch nhập khẩu của thế giới. Tỷ lệ khoảng cách GDP theo đầu người giữa các nước
giàu nhất và nghèo nhất tăng từ 31/1 (vào những năm 1960) lên 60/1 vào những thập niên
cuối cùng của thế kỷ XX và 74/1 vào những năm đầu của thế kỷ XXI.
Nhìn chung, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hóa , dịch vụ, lao
động và vốn ngày càng mở rộng. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục phát triển theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến cơ
cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, trong đó có Việt Nam, mở ra triển vọng mới cho mỗi
nền kinh tế tham gia phân công lao động toàn cầu. Đây cũng là những nhân tố tích cực ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp khó
lường; các tranh chấp xung đột cục bộ, cùng với hoạt động khủng bố quốc tế có thể gây mất
ổn định khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt và tìm cách áp
đặt rào cản thương mại đối với các nước nghèo và đang phát triển. Thị trường tài chính, tiền
tệ và giá cả thế giới còn diễn biến phức tạp. Các vấn đề toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi
trường, khan hiếm năng lượng và nguyên vật liệu, khoảng cách giầu nghèo … sẽ càng trở nên
gay gắt. Những vấn đề trên có ảnh hưởng sâu sắc đến tăng trưởng kinh tế, cũng như việc thực
hiện công bằng xã hội ở Việt Nam trong thời gian sắp tới.
3.1.2 Bối cảnh trong nước
Sau hơn 20 năm đổi mới, tình hình kinh tế xã hội Việt Nam đã có nhiều chuyển biến
với những đặc điểm như sau:
- Định hình cơ chế phát triển kinh tế mới: cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa - như một tất yếu không thể đảo ngược.
- Tiềm lực và phát triển kinh tế được nâng cao một bước quan trọng
- Việc gia nhập WTO cũng ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế, tiến bộ và công
bằng xã hội ở Việt Nam:
- Bên cạnh đó còn tồn tại những yếu kém và bất lợi nội tại đối với sự phát triển của

Việt Nam. Mức độ gay gắt của nguy cơ tụt hậu phát triển ngày càng rõ nét. Những yếu kém
này có thể quy về ba đặc trưng cơ bản của nền kinh tế nước ta hiện nay: chậm phát triển và

16
lạc hậu (trình độ phát triển thấp kém); mặc dù đã trải qua hơn 20 năm đổi mới nhưng nhiều
mặt của nền kinh tế vẫn đang trong quá trình chuyển đổi (từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang kinh tế thị trường đúng nghĩa); Việc giải quyết công bằng xã hội để phát triển bền
vững đang nẩy sinh những vấn đề gay gắt, như: an sinh xã hội thấp, chênh lệch giầu nghèo,
thất nghiệp, đô thị hóa, tham nhũng, văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường…
Tóm lại, bối cảnh quốc tế cũng như trong nước hiện đang tạo ra rất nhiều điều kiện
thuận lợi cũng như thách thức cho quá trình tăng trưởng cũng như thực hiện công bằng xã hội
xã hôi ở Việt Nam hiện nay. Nó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những quan điểm, định
hướng, cũng như những giải pháp đúng đắn để kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và
thực hiện công bằng xã hội nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
3.2 Quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
Việt Nam trong giai đoạn mới
Một là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội có thể và cần phải làm tiền đề và điều kiện cho nhau.
Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi tăng trưởng kinh tế
đến đâu phải thực hiện ngay công bằng xã hội đến đấy.
Ba là, thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần, đa sở hữu phải triệt để khắc phục những tàn dư của chế độ phân phối bình
quân, "cào bằng", chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất chấp chất lượng, hiệu quả của
sản xuất, kinh doanh và sự đóng góp công sức, trí tuệ, tài sản của mỗi người cho sự phát triển
chung của đất nước.
Bốn là, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời với phát triển văn hóa.
Năm là, để thực hiện được tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô
của Nhà nước là hết sức quan trọng.

3.3 Các giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội
3.3.1. Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Nhà nước là điều kiện tiên
quyết nhằm quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng
xã hội
Việc gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
tất yếu cần đến sự can thiệp của các nhân tố chủ quan. Trong điều kiện nước ta hiện nay, điều
tiên quyết phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng cần nghiêm túc phê và tự phê để vượt lên chính mình trong nhận thức; Đẩy
mạnh công cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thờ ơ, vô trách nhiệm
trong chính đội ngũ cán bộ đảng viên; Đoàn kết trong nội bộ Đảng và thực sự trở thành hạt
nhân trong khối đoàn kết dân tộc… Làm được như vậy sẽ nâng cao được năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Nhà nước với vai trò quản lý kinh tế - xã hội của mình phải có những chính sách
khuyến khích làm giàu chính đáng, tạo điều kiện cho mọi đối tượng có cơ hội ngang nhau
trong lao động, trong tổ chức sản xuất, trong kinh doanh… tuỳ theo khả năng của từng đối
tượng; Nhà nước tạo môi trường, điều kiện cho phát triển sản xuất, thu hút lao động, giải
quyết việc làm. Hơn nữa, Nhà nước cũng cần có những chính sách phân phối thu nhập phù
hợp theo lao động, theo đóng góp (vốn, tài sản, công sức…) và chính sách phân phối lại thu
nhập thông qua nhiều chính sách kinh tế để điều tiết hợp lý thu nhập của các tầng lớp dân cư

17
(chính sách thuế thu nhập…) Đồng thời Nhà nước cần có các biện pháp, chính sách ưu tiên
cho phát triển nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa để hạn chế bớt khoảng cách phân hóa
giầu nghèo.
3.3.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thứ nhất, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu tăng

trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội .
Thứ ba, Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ
bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, trong đó có thị trường hàng hóa dịch vụ và thị trường
các yếu tố đầu vào (thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường sức lao động, thị
trường khoa học – công nghệ).
3.3.3 Hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế và hệ thống chính sách xã hội.
3.3.3.1 Hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế
- Chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn:
Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
- Chính sách tài chính - tiền tệ:
Tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, động
viên hợp lý và phân phối có hiệu quả mọi nguồn lực.
- Chính sách đầu tư
Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xoá bỏ các hình thức phân biệt đối
xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các
thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài.
- Chính sách kinh tế đối ngoại
Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá;
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm
thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương
3.3.3.2 Hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội
- Chính sách xóa đói giảm nghèo
Để thực hiện tốt hơn nữa công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay và khắc
phục những hạn chế trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, việc hoàn thiện thể chế chính sách
cho lĩnh vực này phải đảm bảo các nội dung sau:
- Thúc đẩy phát triển kinh tế ngành, kinh tế vùng và các thành phần kinh tế tạo cơ hội
cho người nghèo tăng thêm thu nhập
- Tạo cơ hội cho người nghèo được tiếp cận các dịch vụ sản xuất và các dịch vụ xã hội
cơ bản khác

- Tạo điều kiện hướng nghiệp, chuyển giao công nghệ và đào tạo nghề, giải quyết việc
làm cho người nghèo.
- Thúc đẩy xã hội hóa công tác xóa đói giảm nghèo, huy động các nguồn lực cho công
tác xóa đói giảm nghèo.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự tham gia của
các tổ chức đoàn thể xã hội trong công tác xóa đói giảm nghèo.
- Chính sách về giáo dục và đào tạo

18
Trong quá trình hoàn thiện và thực thi chính sách xã hội trong lĩnh vực giáo dục để
đảm bảo bình đẳng xã hội cần phải thực hiện những giải pháp cơ bản là:
Thứ nhất: Hoàn thiện những chính sách đầu tư cho giáo dục bao gồm cả trợ cấp, phụ
cấp cho giáo dục. Trợ cấp, phụ cấp cho giáo dục phải đặc biệt chú ý đến với các đối tượng đặc
biệt như: vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Thứ hai: Hoàn thiện và thực thi những chính sách xã hội liên quan đến việc hưởng lợi
từ giáo dục.
Thứ ba: Tiếp tục thực thi và hoàn thiện những chính sách liên quan đến xã hội hoá
giáo dục.
- Chính sách giải quyết việc làm
Để giải quyết tốt vấn đề việc làm, việc hoàn thiện chính sách cho vấn đề này phải hoàn
thiện các nội dung sau
- Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho
các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế.
- Xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động.
- Hoàn thiện luật pháp, chính sách cho hoạt động và phát triển thị trường lao động.
- Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả xuất khẩu lao động, bảo vệ quyền lợi và
uy tín của người lao động của Việt Nam ở nước ngoài.
- Giải quyết vấn đề lao động mất việc làm do doanh nghiệp không đứng vững được

trong quá trình cạnh tranh và nông dân bị thu hồi đất để phát triển công nghiệp và đô thị.
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về tiền lương, tiền công. Tiền lương phải
được coi là giá cả của sức lao động, được hình thành theo quy luật của thị trường, dựa trên
cung cầu về lao động, chất lượng, cường độ lao động va mức độ cạnh tranh việc làm.
- Chính sách an sinh xã hội
Thứ nhất, thực hiện hiệu quả và công bằng xã hội trong chính sách bảo trợ xã hội, vì
bảo trợ xã hội là một phần quan trọng của hệ thống an sinh xã hội
Thứ hai, mở rộng sự tham gia của các tổ chức tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ
trong việc phát triển hệ thống an sinh xã hội.
Thứ ba, khuyến kích hoạt động nhân đạo của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức
đoàn thể, các tổ chức xã hội tham gia phát triển mạng lưới an sinh xã hội, trợ giúp hiệu quả
các đối tượng yếu thế.
Cũng như vậy, chính sách ở lĩnh vực khác cũng cần được tính đến theo chiều hướng
này.
3.3.4. Mở rộng và phát huy dân chủ
Mở rộng, phát huy dân chủ trong kinh tế phải đi liền với dân chủ về chính trị, xã hội
với những nội dung cơ bản để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức được trách nhiệm xã hội và
tham gia vào các quá trình chính trị, xã hội với phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra". Cần tăng cường và cải tiến các hoạt động mang tính dân chủ cao như chất vấn
tại Quốc hội và Hội đồng nhân dân, đối thoại trực tiếp với nhân dân qua truyền hình và
Internet, thiết lập các đường dây nóng liên lạc với người dân, đổi mới các cuộc tiếp xúc với
cử tri… Thực tế cho thấy nơi nào phát huy tốt dân chủ cơ sở sẽ hạn chế được những hiện
tượng tiêu cực, những biểu hiện sai trái vi phạm kỷ cương, phép nước, những biểu hiện suy
thoái đạo đức của một số cán bộ có chức có quyền, các hiện tượng quan liêu, tham nhũng…

19
Việc mở rộng dân chủ hiện nay phải đi liền với kỷ cương pháp luật. Trên cơ sở đó
phát huy vai trò chủ động, tích cực của mọi tầng lớp dân cư tham gia và quản lý kinh tế - xã
hội, tham gia kiểm kê, kiểm soát lực lượng lao động, sản xuất và phân phối sản phẩm…
3.3.5. Phòng, chống tham nhũng và lãng phí

Nghiêm chỉnh thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí. Bổ sung, hoàn thiện Luật Khiếu nại và tố cáo.
Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng, hoàn thiện cơ chế dân
chủ.
Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, cán bộ
lãnh đạo, trước hết là cán bộ cấp cao, phải trực tiếp tham gia và đi đầu trong việc phòng,
chống tham nhũng, lãng phí.
3.3.6. Cải thiện và bảo vệ môi trường
Tổ chức và làm tốt quy hoạch và siết chặt kỷ luật thực hiện theo quy hoạch phát triển
công nghiệp.
Kiểm soát chặt chẽ việc tăng dân số cơ học tại các đô thị lớn, nhất là các thành phố
trực thuộc trung ương.
Có cơ chế chuyển mục đích sử đụng đất nông nghiệp ở các làng nghề sang đất công
nghiệp ,hạn chế và tiến tới xóa bỏ các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở các làng nghề xen kẽ với
khu dân cư.
Hình thành cho được ý thức giữ gìn môi trường chung và bảo vệ môi trường trong
dân cư cả ở đô thị và nông thôn. Tiến hành công tác giáo dục rộng rãi, bền bỉ, tạo thành dư
luận xã hội nghiêm khắc với mọi hành vi gây mất vệ sinh công cộng và ô nhiễm môi trường
sống, đi đôi với việc thiết lập chế tài, sử phạt nghiêm, đúng mức với mọi hành vi.

KẾT LUẬN

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng gắn bó chặt chẽ
với nhau. Quá chú trọng tới tăng trưởng, không quan tâm giải quyết vấn đề công bằng xã hội
sẽ để lại nhiều hậu quả về mặt xã hội, vấn đề đó tất yếu dẫn tới suy giảm tăng trưởng kinh tế.
Đó không chỉ là một nhận định có tính lý luận mà nó đã được minh chứng bằng thực tế ở
nhiều nước, hậu quả của nó không thể giải quyết ngày một ngày hai. Ngược lại, chỉ chú trọng
tới việc giải quyết các vấn đề xã hội sẽ triệt tiêu các động lực phát triển kinh tế mà suy cho
cùng đó lại là sự bình quân cào bằng và cũng lại là bất công bằng xã hội trên một khía cạnh
nào đó. Không thể nói đến một xã hội văn minh, phát triển khi giải quyết công bằng xã hội

trên một nền kinh tế tăng trưởng kém. Cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh
bền vững trong một xã hội mà đa số dân chúng thấp kém về trí tuệ, ốm yếu về thể chất, thất
nghiệp và nghèo đói. Như vậy tăng trưởng kinh tế có thể tạo điều kiện vật chất để thực hiện
công bằng xã hội và ngược lại công bằng xã hội cũng là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế.
Trong thời kỳ đổi mới, vấn đề này cũng được Đảng và Nhà nước quán triệt sâu sắc.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với công bằng xã hội trong từng bước đi và trong suốt quá
trình phát triển là quan điểm, định hướng cơ bản nhất quán xuyên suốt quá trình đổi mới.

20
Việc kết hợp thực hiện hai mục tiêu trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta trên thực tế đã đạt được những kết quả đáng kể. Sự biến đổi khá toàn diện
về chất của nền kinh tế, đã đem lại những kết quả khả quan về mặt tăng trưởng - tạo cơ sở vật
chất để thực hiện từng bước công bằng xã hội.
Hiện nay, việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
Việt Nam còn rất nhiều bất cập. Chính vì vậy, trong thời gian tới vấn đề này cần phải có
được sự quan tâm sâu sắc hơn nữa của Đảng và Nhà nước, cũng như các tổ chức và đoàn thể
xã hội, cùng với các biện pháp kinh tế - xã hội hữu hiệu, phù hợp hơn với thực tế khách quan
hơn để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tốt hơn, hài hòa
hơn nữa.

References
[1] ADB (2006), Chương trình và chiến lược quốc gia Việt Nam 2007 - 2010, năm 2006.
[2] Đinh Văn Ân (chủ biên) (2005), Quan niện và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội, tốc
độ nhanh bền vững chất lượng cao ở Việt Nam, NXB Thống kê Hà Nội, Hà Nội.
[3] Báo cáo của Thủ tướng Phan Văn Khải (2005) trình bày trước Quốc hội khóa IX kỳ
họp thứ 8 ngày 18 tháng 10 năm 2005.
[4] Brian Van Arkadie& Raymond Mallon (2004), “Việt Nam con hổ đang chuyển mình ?”,
NXB TK, Hà Nội.
[5] David Begg(1992), Kinh tế học, tập 1,2 NXB Giáo dục, Hà Nội.

[6] Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội & UNDP(2004), Đánh giá Chương trình Mục
tiêu Quốc gia về giảm nghèo và Chương trình 135, Hà Nội.
[7] Bộ Lao động - thương binh và xã hội (2001), Số Liệu thống kê Lao động - Việc làm ở
Việt Nam 1996 - 2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
[8] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2007 và triển khai kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008, Báo cáo số 1225/BC -BKH, Hà Nội
[9] Bộ Lao động và thương binh xã hội (2001), Chiến lược xóa đói giảm nghèo 2001 -
2010, Hà Nội tháng 4 năm 2001, Hà Nội.
[10] CIEM, Chuyên đề số 7 (2004), Kết hợp tăng trưởng kinh với công bằng xã hội nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam, Hà Nội
[11] CIEM, Chuyên đề số 9 (2006), Thực hiện tiến bộ và công bằng trong chính sách phát
triển, Hà Nội.
[12] CIEM(2006), Kinh tế Việt Nam năm 2005, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội
[13] Nguyễn Thị Cành (2004), Các mô hình tăng trưởng và dự báo kinh tế lý thuyết và thực
nghiệm, NXB Đại học quốc gia TP HCM, Tp Hồ Chí Minh.
[14] Hải Châu, Việt Nam có độ công bằng xã hội tốt nhất Apec, Vietnamnet.vn

21
[15] Đỗ Đức Định (1997), Công bằng xã hội trong công nghiệp hóa ở Đông Á và Đông
Nam Á, Tạp chí Kinh tế thế giới.
[16] Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2008) ,“20 năm đổi mới thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội và phát triển văn hóa”, NXB Chính trị Quốc gia.
[17] ĐH Harvard (2008), “ Lựa chọn Thành công , Chương trình Việt Nam”.
[18] Đề tài cấp nhà nước mã số KX.01.01, Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
[19] Hội đồng lý luận Trung ương (2005), Đề tài KX.02.03, “Xu hướng phát triển của nền
kinh tế chi thức và tác động của nó đến sự phát triển và lựa chọn chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hoá của Việt Nam”, Hà Nội.
[20] Dương Phú Hiệp, Nguyễn Huy Dũng(đồng chủ biên) (2006), Một số vấn đề phúc lợi xã
hội của Nhật Bản và Việt Nam, trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, 1996

[21] Đinh Phi Hổ (chủ biên)(2006): Kinh tế phát triển, NXB Thống kê Tp Hồ Chí Minh, Tp
Hồ Chí Minh.
[22] Nước CHXHCN Việt Nam (2005), Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển thiên
nhiên kỷ, Hà Nội.
[23] Một số ý kiến nhằm đánh giá mức sống của dân cư nông thôn Việt Nam, đề tài KX
04.03, 1994
[24] Lê Bộ Lĩnh (chủ biên) (1998), Tăng trưởng Kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước
Châu á và Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[25] Hoàng Xuân Long (2006), Hướng tới tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, Tạp chí
khoa học công nghệ.
[26] Tổng cục Thống kê (2008), Niêm giám thống kê 2007, NXB Thống kê, Hà Nội.
[27] Tổng cục Thống kê (2000), Số liệu thống kê kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 1975 -
2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
[28] Nguyễn Quốc Thẩm (2005), Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội, Tạp chí Cộng sản, Hà Nội
[29] Trần Phúc Thăng (2006), Tìm hiểu về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội trong các nước Tư bản, Tạp chí Báo chí Tuyên truyền, Hà Nội.
[30] Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hoá, hiện đại hoá -
Kinh nghiệm Quốc tế và thực tiễn Việt Nam, NXB lao động - xã hội, Hà Nội.

[31] Lương Xuân Quỳ (chủ biên) (2006), Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ,NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội

22
[32] Lương Xuân Quỳ (chủ biên) (2006), Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ
nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam ,NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
[33] Cẩm Tú, Trung Quốc: Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội,
Vietnamnet.vn
[34] Lê Danh Tốn(2008), Thất nghiệp và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học : “Vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam”, ĐHQGHN
[35] Lê Văn Sang, Kim Ngọc (đồng chủ biên) (1999), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội ở Nhật Bản giai đoạn "thần kỳ" và Việt Nam thời kỳ "đổi mới". NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[36] UNDP ( 2005), An sinh xã hội Việt Nam lũy tiến đến mức nào?, Hà Nội.
[37] UNDP (2007), Báo cáo phát triển con người 2007/2008, Hà Nội.
[38] UNDP (2003), Đói nghèo và bất bình đảng ở Việt Nam: Các yếu tố về địa lý và không
gian, Hà Nội.
[39] UNDP (2005), MDGs trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 -2010 của
Việt Nam, Hà Nội.
[40] UNDP (2004 đẩy kinh tế phát triển nhanh bền vững và vì người nghèo nhằm mục tiêu
phát triển thiên nhiên kỷ ở Việt Nam, Hà Nội.
[41] UNDP (2004), Chính sách tăng trưởng vì người nghèo, Hà Nội.
[42] Ủy ban dân tộc (2005) “ Điều tra, đáng giá hiệu quả đầu tư của chương trình 135 và đề
xuất các chính sách và giải pháp hỗ trợ đầu tư phát triển các xã đặc biệt khó khăn giai
đoạn 2006 - 2010”, Hà Nội
[43] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,VI, VII, VIII, IX, X, NXB Chính trị
quốc gia.
[44] Vũ Quang Vinh(2008) :Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ, Kỷ yếu hội thảo khoa học : “Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, ĐHQGHN
[45] WB (2002), Báo cáo phát triển 2003: Việt Nam thực hiện cam kết, Hà Nội.
[46] WB (2002), Việt Nam chiến lược hỗ trợ quốc gia của Nhóm Ngân Hàng thế giới giai
đoạn 2003 - 2006, Hà Nội.
[47] WB (2002), Nhà nước trong một nền kinh tế đang chuyển đổi, báo cáo tình hình phát
triển thế giới năm 1997, Hà Nội

23

Các trang wedside:
: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
: Chương trình 135
: Chương trình Hỗ trợ quốc tế
: Tổng Cục Thống kê
: UNDP tại Việt Nam
: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
: Tổ chức minh bạch quốc tế

×