PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN THÀNH PHẨM,
TIÊU THỤ THÀNH PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ
TIÊU THỤ TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I. Ý NGHĨA VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA HẠCH TOÁN THÀNH PHẨM,
TIÊU THỤ THÀNH PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ
TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT.
1. Thành phẩm và yêu cầu quản lý thành phẩm.
Theo quy luật tái sản xuất quá trình hoạt động trong doanh nghiệp sản
xuất bao gồm: cung ứng, sản xuất, tiêu thụ, các giai đoạn này diễn ra một cách
thường xuyên liên tục. Sản phẩm của giai đoạn sản xuất đó chính là thành
phẩm và bán thành phẩm, trong đó thành phẩm chiếm tỷ lệ cao. Thành phẩm
trong doanh nghiệp là những sản phẩm được gia công chế biến xong ở bước
công nghệ cuối cùng của quy trình công nghệ sản xuất, sản phẩm được kiểm
tra. Néu sản phẩm đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật quy định, được nhập kho hoặc
tiêu thụ ngay. Bán thành phẩm là những sản phẩm mới kết thúc một hoặc một
số công đoạn trong quy trình công nghệ sản xuất (trừ công đoạn cuối cùng)
được nhập kho hoặc chuyển giao để tiếp tục chế biến hoặc có thể bán ra
ngoàivới ý nghĩa như thành phẩm. Như vậy, khái niệm giữa bán thành phẩm
và thành phẩm là những khái niệm mang tính tương đối trong phạm vi một
doanh nghiệp bởi thành phẩm của doanh nghiệp này có thể là bán thành phẩm
của doanh nghiệp khác và ngược lại. Do đó, việc xác định đúng thành phẩm
trong từng doanh nghiệp là vấn đề hết sức cần thiết, phản ánh toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp về quy mô, trình độ tổ chức
sản xuất và quản lý.
Bất kỳ loại thành phẩm nào cũng biểu hiện trên hai mặt: số lượng và
chất lựơng. Mặt số lượng phản ánh quy mô, thành phần mà đơn vị tạo ra nó và
được đo bằng đơn vị kg, mét...Chất lượng của thành phẩm phản ánh giá trị sử
dụng của thành phẩm và được xác định bằng tỷ lệ tốt, xấu hoặc phẩm cấp của
sản phẩm. Đây là hai mặt độc lập của một thể thống nhất và có quan hệ biện
1
chứng với nhau. Đó là nguyên nhân giải thích tại sao khi nghiên cứu, quản lý
và hạch toán thành phẩm ta luôn phải đề cập tới hai mặt này.
Quản lý chặt chẽ thành phẩm là việc làm cần thiết bởi ý nghĩa quan
trọng của nó đối với nền kinh tế nói chung và chính doanh nghiệp nói riêng.
Thành phẩm là kết quả lao động sáng tạo của toàn bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp, mọi tổn thất của thành phẩm đều ảnh hưởng đến thu nhập của
các cá nhân trong doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Hơn
nữa, khi sự phân công lao động ngày càng phát triển thì các ngành sản xuất,
các đơn vị có liên quan chặt chẽ, bổ xung hỗ trợ cho nhau, thành phẩm của đơn
vị này là nguyên liệu đầu vào cho đơn vị khác. Việc hoàn thành và hoàn thành
vượt mức kế hoạch sản xuất thành phẩm của đơn vị cả về số lượng, chất lượng,
thời gian sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp khác cũng như việc đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trưòng.
Công tác quản lý thành phẩm đòi hỏi phải phản ánh, giám đốc tình hình
thực hiện kế hoạch sản xuất, nhập, xuất, tồn kho thành phẩm một cách thường
xuyên về mặt số lượng cũng như phải làm tốt công tác kiểm tra, phân cấp và
có chế độ bảo quản thích hợp đối với từng loại thành phẩm. Phải thường
xuyên cải tiến mẫu mã sản phẩm, không ngừng nâng cao chất lượng, kích thích
nhu cầu tiêu dùng của xã hội tránh tình trạng ứ đọng sản phẩm vì hàng kém
chất lượng
2. Tiêu thụ và yêu cầu của việc tiêu thụ thành phẩm.
Sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra muốn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của xã hội phải thông qua khâu tiêu thụ. Do đó các doanh nghiệp không những
có nhiệm vụ sản xuất sản phẩm mà còn có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, công tác tiêu thụ thành phẩm và tổ chức
tiêu thụ thành phẩm đã được xem là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Cơ
chế thị trường đã tạo ra một nền kinh tế tự do cạnh tranh. Vì vậy, mỗi doanh
nghiệp phải tự chủ trong việc tổ chức tiêu thụ thành phẩm bao gồm các khâu từ
nghiên cứu thị trường, xây dựng chiến lược, kế hoạch tiêu thụ, thực hiện
nguyên tắc tự chịu trách nhiệm nhằm mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh
có hiệu quả.
2
Tiêu thụ thành phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất và là
giai đoạn cuối cùng của vòng tuần hoàn vốn trong doanh nghiệp. Đây chính là
quá trình thực hiện quan hệ trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán để
thực hiện giá trị của sản phẩm, hàng hoá trong đó doanh nghiệp chuyển giao
sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng, được khách hàng trả tiền hoặc
chấp nhận trả. Quá trình tiêu thụ kết thúc khi cả hai điều kiện được bảo đảm:
- Doanh nghiệp chuyển giao sản phẩm cho người mua.
- Đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả.
Điều đó có nghĩa là trong quá trình tiêu thụ phải có sự thoả thuận giữa
hai người mua và bán, phải có sự thay đổi quyền sở hữu về sản phẩm và cả hai
bên đều thực hiện quá trình chuyển đổi giữa hàng và tiền.
Trong nền kinh tế thị trường, điều quan tâm hàng đầu của các doanh
nghiệp là làm thế nào để sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của mình tiêu thụ trên thị
trường, được thị trường chấp nhận về các phương diện chất lượng, giá cả, mẫu
mã... Đó là nhân tố ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp. Sau quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp không những bù đắp được chi phí
liên quan đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mà còn thực hiện được giá trị
thặng dư. Đây là tiền đề để mở rộng quy mô sản xuất, tăng thu nhập cho doanh
nghiệp, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên và ngân sách nhà nước.
Với các đối tác có quan hệ sản xuất trực tiếp với doanh nghiệp, việc
cung cấp sản phẩm kịp thời, đúng hạn, đúng quy cách phẩm chất, đúng yêu cầu
số lượng sẽ giúp doanh nghiệp hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất đề ra trên cơ
sở đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Như vậy, xét trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện tốt khâu tiêu
thụ thành phẩm là cơ sở cho sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, tiền và hàng
đồng thời cũng đảm bảo sự cân đối sản xuất trong từng ngành. Mặt khác, trong
điều kiện hiện nay khi quan hệ kinh tế đối ngoại đang phát triển mạnh mẽ thì
việc tiêu thụ thành phẩm của mỗi doanh nghiệp có thể tạo vị thế của đất nước
trên thị trường thế giới cũng như mở rộng thị trường. Chính vì tiêu thụ có ý
nghĩa quan trọng như vậy nên đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ quá
trình này, cụ thể:
3
-Quản lý quá trình tiêu thụ là quản lý về kế hoạch và mức độ hoàn thành
kế hoạch tiêu thụ cả về số lượng, chất lượng, giá trị sản phẩm... trong quá trình
vận động từ khâu xuất bán cho đến khi thu được tiền bán hàng. Công tác quản
lý đòi hỏi phải thường xuyên theo dõi, chỉ đạo quá trình bán hàng theo kế
hoạch đã lập, kịp thời phát hiện những biến động của thị trường để điều chỉnh
kinh doanh sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
- Quản lý về giá cả từ khâu xây dựng giá đến khâu thực hiện giá,
doanh nghiệp phải xây dựng một biểu giá hợp lý cho từng mặt hàng, từng
phương thức bán hàng và từng địa điểm kinh doanh.
-Theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, thanh toán, thu hồi đầy
đủ và kịp thời tiền vốn, tính toán xác định đúng kết quả tiêu thụ của từng loại
thành phẩm.
Thực tế ở nước ta hiện nay cho thấy các doanh nghiệp không những
phải cạnh tranh với các sản phẩm trong nước mà cả với những sản phẩm, hàng
hoá của nước ngoài nhập về. Thị trường Việt Nam đã đang được các công ty,
tập đoàn sản xuất trên thế giới tìm đến và xâm nhập một cách mạnh mẽ. Do
vậy, các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế mở này thì đều
phải tìm hiểu khách hàng và nhu cầu của họ, có biện pháp kích thích họ mua
hàng đồng thời phải tìm kiếm những thị trường có tiềm năng lớn để tiêu thụ
thành phẩm của mình, có khả năng dự báo tình hình thị trường trong tương lai.
Có như vậy các doanh nghiệp mới có thể duy trì và mở rộng thiịi trường của
mình.
3. Xác định kết quả tiêu thụ.
Các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh đều nhằm đạt được
mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Quá trình tiêu thụ là một quá trình kinh doanh
chủ yếu của doanh nghiệp, nó trực tiếp mang lại thu nhập cho doanh nghiệp và
thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Thu nhập từ tiêu thụ thành phẩm trang
trải các chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Một doanh nghiệp có các kênh tiêu thụ
phong phú với các chính sách khuyến khích việc tiêu thụ thành phẩm, hàng hoá
tốt sẽ giúp doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều, thu hồi vốn nhanh, tăng nhanh
tốc độ vòng quay của vốn, tiết kiệm vốn lưu động, hiện đại hoá sản xuất cả về
4
tốc độ lẫn trình độ kỹ thuật... từ đó giúp doanh nghiệp dễ dàng thực hiện được
các mục tiêu tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá lợi nhuận.
Để biết được trong kỳ kinh doanh của mình có đạt được các mục tiêu đó
không doanh nghiệp cần phải có những thống kê về các khoản doanh thu, các
khoản chi phí và tính toán kết quả của các hoạt động kinh doanh trong kỳ. Kết
quả của quá trình tiêu thụ đánh giá một cách chính xác hiệu quả của toàn bộ
quá trình sản xuất kinh doanh, có vai trò quyết định đến sự tồn tại, phát triển
hay suy thoái của doanh nghiệp . Dựa vào kết quả tiêu thụ, doanh nghiệp có thể
phân tích được mặt hàng nào, sản phẩm nào có kết quả cao và xu hướng như
thế nào để từ đó có thể đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc chuyển
hướng sang sản xuất kinh doanh mặt hàng khác.
Như vậy xác định kết quả tiêu thụ của doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Nó giúp cho chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị, các cơ quan chủ
quản, quản lý tài chính, thuế... nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh,
tình hình tài chính của doanh nghiệp để từ đó lựa chọn phương án kinh doanh
có hiệu quả, giám sát việc chấp hành chính sách, chế độ kinh tế tài chính.
Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa của nó, việc xác định kết quả tiêu thụ
phải thực hiện yêu cầu sau:
- Thường xuyên kiểm tra công việc và tình hình thực hiện hợp đồng bán
hàng, tính toán xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phân tích những nguyên nhân, xác định mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đến tình hình biến động lợi nhuận.
-Tổ chức phân tích báo cáo kết quả kinh doanh, tư vấn cho chủ doanh
nghiệp và giám đốc lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả.
4. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác hạch toán thành phẩm, tiêu thụ
thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ trong doanh nghiệp sản xuất.
Đối với doanh nghiệp, tổ chức tốt công tác hạch toán thành phẩm sẽ tạo
điều kiện cho sản xuất phát triển, từng bước hạn chế sự thất thoát của thành
phẩm, phát hiện ra những thành phẩm chậm luân chuyển để có biện pháp xử lý
thích hợp, thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn.
Từ số liệu của kế toán thành phẩm và tiêu thụ cung cấp, chủ doanh
nghiệp có thể đánh giá được mức độ hoàn thành kế hoạch về sản xuất, giá tiêu
5
thụ và lợi nhuận. Dựa vào đó, chủ doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp tối
ưu đảm bảo duy trì sự cân đối giữa các yếu tố đầu vào-sản xuất- đầu ra. Cũng
dựa vào đó, nhà nước có thể nắm bắt được tình hình tài chính, kết quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp từ đó thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát
vĩ mô nền kinh tế, đồng thời nhà nước có thể kiểm soát việc chấp hành luật
pháp về kinh tế tài chính nói chung và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với ngân
sách nhà nước, nghĩa vụ tài chính với các bên có quan hệ kinh tế nói riêng.
Trong nền kinh tế mở, các doanh nghiệp ngoài mối quan hệ với nhà
nước còn có thể liên doanh liên kết với đơn vị bạn hoặc các công ty nước ngoài
để thu hút vốn đầu tư, cải tiến quy trình công nghệ... Khi đó kế toán không chỉ
là công cụ điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh mà còn là phương tiện để
kiểm tra, giám sát chủ sở hữu doanh nghiệp, các cá nhân, tổ chức có quan hệ
kinh tế với doanh nghiệp như các nhà đầu tư, những người cho vay, các bạn
hàng... Với những số liệu của kế toán thành phẩm và tiêu thụ, các đối tác có thể
biết được khả năng sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng của doanh nghiệp để từ
đó ra các quyết định đầu tư, cho vay hoặc có quan hệ làm ăn với doanh nghiệp.
Vì sản xuất là cơ sở của tiêu thụ nên có thể nói rằng kế toán thành phẩm
và tiêu thụ có mối quan hệ mật thiết với nhau và bổ sung cho nhau. Kế toán
thành phẩm có chính xác, đầy đủ và kịp thời, phản ánh rõ tình hình nhập, xuất
thì kế toán tiêu thụ mới phản ánh và giám đốc kịp thời kế hoạch, thực hiện tiêu
thụ về số lượng, doanh thu tiêu thụ, tình hình thanh toán tiền hàng, thanh toán
với ngân sách nhà nước và xác định được chính xác kết quả tiêu thụ. Ngược lại
tổ chức tốt kế toán tiêu thụ sẽ tạo điều kiện cho kế toán thành phẩm thực hiện
tốt nhiệm vụ của mình. Do vậy hoàn thiện quá trình hạch toán nghiệp vụ thành
phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ là một vấn đề rất cần
thiết và có ý nghĩa quan trọng. Để làm tốt nghiệp vụ này, kế toán thành phẩm
và tiêu thụ thành phẩm cần thực hịên các yêu cầu sau:
-Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời, giám sát chặt
chẽ về tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm trên cả hai
mặt số lượng và giá trị.
-Theo dõi, phản ánh và giám sát chặt chẽ quá trình tiêu thụ, ghi chép kịp
thời, đầy đủ chi phí liên quan đến việc bán hàng, thu nhập bán hàng.
6
- Xác định chính xác kết quả của từng loại hoạt động trong doanh
nghiệp, phản ánh và giám đốc tình hình phân phối kết quả, đôn đốc thực hiện
nghĩa vụ với nhà nước.
Thực hiện tốt các yêu cầu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
quản lý chặt chẽ thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ.
Tuy nhiên để phát huy được vai trò và thực hiện tốt các yêu cầu đó đòi hỏi phải
tổ chức kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ
thật khoa học hợp lý, đồng thời cán bộ kế toán phải nắm vững nội dung của
việc tổ chức công tác kế toán đó.
II.NỘI DUNG KẾ TOÁN THÀNH PHẨM.
1. Yêu cầu của công tác kế toán thành phẩm:
Thành phẩm của các doanh nghiệp thường rất đa dạng và phong phú về
chủng loại, mẫu mã, việc tổ chức một cách khoa học công tác kế toán thành
phẩm là việc làm rất cần thiết và không thể thiếu được đối với một doanh
nghiệp sản xuất. Để đảm bảo được điều đó kế toán cần phải thực hiện các yêu
cầu sau:
- Tổ chức kế toán thành phẩm theo từng loại, từng thứ thành phẩm, theo
từng đơn vị sản xuất theo đúng số lượng và chất lượng thành phẩm.Từ đó làm
cơ sở để xác định kết quả kinh doanh của từng đơn vị, từng phân xưởng...và có
số liệu để so sánh với các chỉ tiêu kế hoạch.
- Phải có sự phân công và kết hợp trong việc ghi chép thành phẩm giữa
phòng kế toán và nhân viên hạch toán phân xưởng, giữa kế toán với thủ kho
thành phẩm đảm bảo cho số liệu kế toán thành phẩm được chính xác kịp thời.
- Kế toán nhập, xuất, tồn kho thành phẩm có thể được đánh giá tuỳ theo
đặc điểm của từng doanh nghiệp. Thành phẩm trong kho thường luôn biến
động, do đó cần tổ chức công tác ghi chép ban đầu thật khoa học hợp lý.
2. Tính giá thành phẩm:
Tính giá thành phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị thành phẩm theo
nguyên tắc nhất định.Trong kế toán có thể sử dụng một trong hai cách đánh giá
thành phẩm:
7
2.1. Giá thực tế
• Thành phẩm nhập kho:
Đối với thành phẩm do các bộ phận sản xuất kinh doanh chính và phụ
hoàn thành nhập kho, giá thành thực tế chính là giá thành công xưởng thực tế
(bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi
phí sản xuất chung).
Trường hợp thành phẩm thuê ngoài gia công, giá thành thực tế bao gồm
toàn bộ các chi phí liên quan đến việc gia công (chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí thuê gia công và các chi phí khác: vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt...)
• Thành phẩm xuất kho:
Đối với thành phẩm xuất kho tuỳ từng điều kiện cụ thể doanh nghiệp có
thể sử dụng một trong các phương pháp sau:
2.1.1. Giá đơn vị bình quân
Theo phương pháp này giá thực tế thành phẩm xuất kho được tính theo
giá trị bình quân (bình quân cả kỳ dự trữ, bình quân cuối kỳ trước hoặc bình
quân sau mỗi lần nhập).
Trong đó:
Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ tuy đơn giản, dễ làm
nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa, công việc tính toán dồn vào cuối
tháng gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán nói chung.
8
Giá thực tế
th nh phà ẩm
xuất kho
=
Số lượng
th nh phà ẩm
xuất kho
x
Giá đơn vị
bình quân
Giá đơn vị bình
quân cả kỳ
dự trữ
Giá trị thực tế tồn đầu kỳ v nhà ập trong kỳ
Số lượng thực tế th nh phà ẩm v nhà ập trong
kỳ
=
Phương pháp này tuy khá đơn giản và phản ánh kịp thời tình hình biến
động thành phẩm trong kỳ nhưng không chính xác vì không tính đến sự biến
động của giá thành thành phẩm nhập kho.
Phương pháp giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập khắc phục được
nhược điểm của cả hai phương pháp trên: vừa chính xác, vừa cập nhật. Nhưng
nó có nhược điểm là mất nhiều c ông sức, tính toán nhiều lần, thường chỉ áp
dụng ở doanh nghiệp số lần nhập kho trong tháng ít, số lượng nhập lớn.
2.1.2. Giá thực tế nhập trước, xuất trước (FIFO).
Theo phương pháp này doanh nghiệp giả định rằng số thành phẩm nào
nhập trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá
thành thực tế của từng số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp
này là giá thực tế của thành phẩm nhập trước sẽ được dùng làm giá để tính giá
thực tế thành phẩm xuất trước và do vậy giá trị thành phẩm tồn kho sẽ là giá
thực tế của số thành phẩm nhập vào sau cùng. Phương pháp này thích hợp
trong trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.
2.1.3. Giá thực tế nhập sau, xuất trước (LIFO)
Phương pháp này giả định những thành phẩm nào nhập kho sau cùng sẽ
được xuất trước tiên, ngược lại với phương pháp nhập trước xuất trước ở trên.
Giả thuyết nhập sau xuất trước là tính tới thời điểm xuất kho thành phẩm chứ
không phải cuối kỳ hạch toán mới xác định. Phương pháp nhập sau xuất trước
thích hợp trong trường hợp lạm phát.
2.1.4. Giá thực tế đích danh:
9
Giá đơn
vị bình
quân sau
mỗi lần
nhập
=
Trị giá thực tế
TP nhập
Số lượng
nhập
Trị giá thực tế TP
tồn trước khi nhập
Số lượng TP tồn
trước khi nhập
+
+
Giá đơn vị
bình quân
cuốikỳ trước
Giá thực tế TP tồn kho đầu kỳ(hay cuối kỳ trước )
Số lượngthực tế TP tồn kho đ u kà ỳ (hay
cuốikỳtrước)
=
Theo phương pháp này thành phẩm nhập kho theo giá nào thì xuất kho
theo giá đó và không quan tâm đến thời gian nhập xuất. Phương pháp này
thường sử dụng đối với những thành phẩm có giá trị cao và có tính tách biệt.
2.1.5.Xác định trị giá thành phẩm tồn cuối kỳ để tính trị giá thành phẩm xuất
trong kỳ.
Ở những doanh nghiệp có thành phẩm cồng kềnh, điều kiện cân, đong,
đo, đếm, nhập, xuất không chính xác, hạch toán thành phẩm theo phương pháp
kiểm kê định kỳ thì cuối mỗi kỳ hạch toán tiến hành kiểm kê để xác định trị giá
thực tế thành phẩm tồn kho. Căn cứ vào trị giá thành phẩm tồn kho đầu kỳ,
cuối kỳ và trị giá thành phẩm nhập trong kỳ để xác định trị giá thành phẩm
xuất trong kỳ:
Phương pháp này có ưu điểm là tính toán nhanh chóng, đơn giản nhưng
lại không chính xác vì khó phát hiện phần mất mát thiếu hụt.
2.2. Giá hạch toán:
Giá hạch toán là giá do doanh nghiệp quy định, nó có tính chất ổn định
và lâu dài. Giá hạch toán chỉ dùng để ghi sổ kế toán thành phẩm hàng ngày chứ
không có tác dụng giao dịch với bên ngoài, có thể lấy giá kế hoạch hoặc một
loại giá ổn định trong kỳ và nó quy định cụ thể cho từng loại thành phẩm. Mục
đích của việc sử dụng giá hạch toán là nhằm làm đơn giản cho công tác kế
toán trong doanh nghiệp có các nghiệp vụ nhập, xuất kho thành phẩm nhiều,
thường xuyên, giá thành thực tế biến động lớn.
Theo phương pháp này thành phẩm nhập kho được ghi theo giá hạch
toán và thực tế, thành phẩm xuất kho trong kỳ ghi theo giá hạch toán cuối kỳ
tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán về giá thực tế thông qua hệ số giá thành
phẩm. Hệ số này được tính cho từng loại hoặc từng nhóm TP.
10
Giá trị
th nh à
phẩm
xuất kho
Giá trị
th nh à
phẩm tồn
đầu kỳ
Giá trị
th nh à
phẩm nhập
trong kỳ
Giá trị
th nh à
phẩm tồn
cuối kỳ
= + -
Trị giá
th nh phà ẩm xuất kho
Số lượng
th nh phà ẩm
xuất kho
Đơn gía
hạch toán
= x
11
Hệ số giá
=
Trị giá thực
tế TP tồn
đầu kỳ
Trị giá thực
tế TP nhập
trong kỳ
Trị giá hạch
toán TP nhập
trong kỳ
Trị giá hạch
toán TP tồn
đầu kỳ
+
+
Khi dùng phương pháp giá hạch toán việc hạch toán chi tiết thành phẩm
trên các chứng từ nhập, xuất, các sổ (thẻ) kế toán chi tiết thành phẩm được ghi
theo giá hạch toán, còn việc hạch toán tổng hợp thành phẩm nhất thiết phải ghi
theo giá thực tế.
3. Chứng từ kế toán sử dụng:
Việc nhập và xuất kho thành phẩm diễn ra thường xuyên liên tục do đó,
thành phẩm trong doanh nghiệp luôn luôn biến động. Để quản lý chặt chẽ
thành phẩm, các nghiệp vụ nhập, xuất kho thành phẩm phải được lập chứng từ
kế toán một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác theo quy định cụ thể trong chế
độ kế toán. Bởi vì những chứng từ kế toán này là cơ sở pháp lý để tiến hành
hạch toán nhập - xuất kho thành phẩm, là căn cứ để kiểm tra tính chính xác
trong quá trình ghi sổ, đảm bảo ghi chép các nội dung cần thiết. Căn cứ vào nội
dung các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến thành phẩm để xác định các chứng
từ kế toán cần sử dụng ở các doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp vận
dụng chế độ chứng từ kế toán theo quyết định 1141 -TC- QĐ- CĐKT ngày
1/11/1995 của Bộ tài chính phải sử dụng các chứng từ bắt buộc sau:
Phiếu nhập kho: Mẫu số 01 -VT
Phiếu xuất kho: Mẫu số 02-VT
Thẻ kho: Mẫu số 06- VT
Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm, hàng hoá: Mẫu số 08-VT /////
4. Hạch toán chi tiết thành phẩm.
Hạch toán chi tiết thành phẩm là việc ghi chép kịp thời chính xác tình
hình biến động nhập, xuất, tồn cả về hiện vật và giá trị cho từng loại thành
phẩm và được thực hiện ở cả kho và ở phòng kế toán, thường là công việc ghi
chép tốn nhiều thời gian và công sức. Trong thực tế hiện nay có ba phươ
4.1.Phương pháp thẻ song song:
+ Nguyên tắc: ng pháp hạch toán chi tiết thành phẩm sau:
12
Trị giá thực
tế th nh à
phẩm xuất
trong kỳ
Trị giá hạch
toán th nh à
phẩm xuất
kho
Hệ số
giá
=
=
=
=
=
x
-Ở kho: Thủ kho ghi chép sự biến động nhập, xuất, tồn của thành phẩm
về hiện vật trên thẻ kho.
-Ở phòng kế toán: Kế toán thành phẩm ghi chép sự biến động nhập, xuất,
tồn của thành phẩm cả về hiện vật và giá trị trên sổ chi tiết thành phẩm.
+ Trình tự ghi sổ (Sơ đồ số 1)
SƠ ĐỒ 1: SƠ ĐỒ HẠCH TOÁN CHI TIẾT THÀNH PHẨM
THEO PHƯƠNG PHÁP THẺ SONG SONG.
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
* Ưu, nhược điểm của phương pháp ghi thẻ song song.
+ Ưu điểm: - Đơn giản, dễ làm, dễ hiểu, dễ đối chiếu.
- Cung cấp thông tin thường xuyên, kịp thời cho người quản lý
- Dễ dàng vận dụng kế toán máytrong việc hạch toán
+ Nhược điểm: -Ghi chép trùng lặp giữa kho và phòng kế toán.
-Không thích hợp với doanh nghiệp có quá nhiều thành phẩm.
-Không nên ghi chép bằng tay mà ghi bằng máy.
4.2. Phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển:
+ Nguyên tắc hạch toán:
- Ở kho: Thủ kho ghi chép sự biến động Nhập- Xuất- Tồn của thành
phẩm về hiện vật trên thẻ kho (giống phương pháp thẻ song song).
- Ở phòng kế toán: Kế toán thành phẩm ghi chép sự biến động nhập -xuất
- tồn cả về hiện vật và giá trị trên sổ đối chiếu luân chuyển. Sổ này sử dụng cho
cả năm, mỗi loại thành phẩm ghi một dòng.
+ Trình tự ghi sổ(Sơ đồ số 2).
13
Thẻ kho
Sổ
(thẻ)
chi
tiết
th nh à
phẩm
Bảng
tổng
hợp
NXT
kho
th nh à
phẩm
Kế
toán
tổng
hợp
Phiếu nhập kho
Phiếu xuất kho
Sơ đồ 2: Sơ đồ hạch toán chi tiết thành phẩm theophương pháp
ghi sổ đối chiếu luân chuyển
* Ưu, nhược điểm của phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển:
+ Ưu điểm: -Tránh được việc ghi chép trùng lặp giữa kho và phòng kế toán
-Cung cấp được đầy đủ thông tin cho người quản lý.
+ Nhược điểm: - Công việc kế toán dồn vào cuối tháng do đó thường lập báo
cáo kế toán chậm.
4.3. Phương pháp sổ số dư.
+ Nguyên tắc hạch toán.
- Ở kho: Thủ kho chỉ theo dõi biến động Nhập - Xuất - Tồn của thành
phẩm về hiện vật. Cuối tháng trên cơ sở số liệu tồn kho của thẻ kho vào " Sổ số
dư" ở cột số lượng.
- Ở phòng kế toán: Kế toán thành phẩm chỉ theo dõi sự biến động Nhập -
Xuất - Tồn về giá trị trên bảng kê luỹ kế Nhập - Xuất - Tồn
14
Phiếu nhập
kho
Bảng kê
nhập
Thẻ kho
Phiếu xuất
kho
Sổ đối chiếu
luân chuyển
Kế toán
tổng hợp
Bảng kê
xuất
Ghi h ng ng yà à
Ghi cuối tháng
Ghi đối chiếu
+ Trình tự ghi sổ(Sơ đồ số 3).
SƠ ĐỒ 3: SƠ ĐỒ HẠCH TOÁN CHI TIẾT THÀNH PHẨM
THEO PHƯƠNG PHÁP SỔ SỐ DƯ
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu
* Ưu, nhược điểm của phương pháp:
+ Ưu điểm:
-Tránh được việc ghi trùng lặp giữa kho và phòng kế toán.
-Cung cấp thông tin tổng giá trị nhập - xuất - tồn theo định kỳ.
+ Nhược điểm:
- Nếu có nhầm lẫm sai sót thì khó phát hiện, khó kiểm tra do đó chỉ
thích hợp ở doanh nghiệp nhân viên kế toán và thủ kho có trình độ và tay nghề
thành thạo.
15
Phiếu
nhập kho
Phiếu giao nhận
chứng từ nhập
Thẻ kho
Phiếu
xuất kho
Phiếu giao nhận
chứng từ xuất
Bảng kê luỹ
kế NXT kho
TP
Kế toán
tổng hợp
Sổ số
dư
5. Hạch toán tổng hợp thành phẩm:
5.1. Hạch toán tổng hợp thành phẩm theo phương pháp kê khai thường
xuyên (KKTX):
Phương pháp KKTX là phương pháp theo dõi tình hình hiện có,biến
động tăng, giảm thành phẩm một cách thường xuyên liên tục. Giá trị thành
phẩm tồn kho có thể xác định ở bất cứ thời điểm nào.
-Tài khoản sử dụng:
- TK 155- Thành phẩm: TK này phản ánh sự biến động nhập - xuất -tồn kho
thành phẩm theo giá thực tế.
Bên Nợ: Giá thực tế thành phẩm nhập kho.
Bên Có: Giá thực tế thành phẩm xuất kho.
Dư Nợ: Giá thực tế thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
Tuỳ theo yêu cầu quản lý TK 155 có thể được mở chi tiết theo từng kho,
từng loại thành phẩm. TK này chỉ sử dụng ở những doanh nghiệp thành phẩm
có thể nhập kho được.
- Các tài khoản khác có liên quan như TK 154, TK 157...
Trình tự hạch toán nhập- xuất thành phẩm (Sơ đồ số 4).
SƠ ĐỒ 4: TRÌNH TỰ HẠCH TOÁN THÀNH PHẨM THEO
PHƯƠNG PHÁP KÊ KHAI THƯỜNG XUYÊN
TK 154 TK 155 TK 632
Sx hoặc thuê ngoài gia Xuất bán, trả lương, thưởng
công, chế biến nhập kho biếu tặng
TK 157,632 TK 157
Thành phẩm gửi bán, ký gửi Xuất gửi bán,ký gửi
hoặc hàng đã bán bị trả lại
TK 642,3381 TK 642,1381
Thành phẩm thừa khi Thành phẩm thiếu khi
kiểm kê kiểm kê
16
TK 412 TK128,222
Đánh giá tăng Xuất thành phẩm đi góp vốn LD
Chênh (trị giá vốn góp) Chênh
Đánh giá giảm lệch TK 412 lệch
giảm tăng
5.2. Hạch toán tổng hợp thành phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách
thường xuyên liên tục tình hình biến động của các loại thành phẩm mà chỉ phản
ánh trị giá tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác
định lượng thành phẩm tồn kho thực tế từ đó tính ra giá trị thành phẩm xuất
trong kỳ.
-Tài khoản sử dụng:
- TK 155 "Thành phẩm": TK này phản ánh giá thực tế thành phẩm tồn kho.
Bên Nợ: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
Bên Có: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm tồn kho đầu kỳ.
Dư Nợ: Giá thực tế thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
Tài khoản này mở chi tiết cho từng loại thành phẩm.
- TK 157 " Hàng gửi bán": TK này chỉ phản ánh giá thực tế hàng gửi bán tồn
cuối kỳ.
Bên Nợ: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm gửi bán tồn cuối kỳ.
Bên Có: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm gửi bán tồn đầu kỳ.
Dư Nợ: Giá thực tế thành phẩm gửi bán tồn cuối kỳ.
- TK 632 " Giá vốn hàng bán": TK này phản ánh giá thực tế thành phẩm
nhập - xuất kho trong kỳ.
Bên Nợ: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm tồn kho và gửi bán tồn đầu
kỳ Giá thực tế thành phẩm hoàn thành trong kỳ.
Bên Có: Kết chuyển giá thực tế thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
Kết chuyển giá thực tế thành phẩm gửi bán tồn cuối kỳ.
Giá thực tế thành phẩm xuất tiêu thụ trong kỳ.
17
Tài khoản này cuối kỳ không có số dư.
Trình tự hạch toán:(Trang sau)
SƠ ĐỒ 5: HẠCH TOÁN THÀNH PHẨM THEO PHƯƠNG PHÁP KIỂM
KÊ ĐỊNH KỲ
TK 155 TK632 TK 155
Kết chuyển giá thực tế TP Kết chuyển giá thực tế
tồn kho đầu kỳ TP tồn kho cuối kỳ
TK 157 TK 157
Kết chuyển giá thực tế TP Kết chuyển giá thực tế TP
gửi bán tồn đầu kỳ gửi bán tồn cuối kỳ
TK 631 TK 911
Giá thực tế TP hoàn thành Giá thực tế TP xuất tiêu
nhập kho thụ trong kỳ
III. NỘI DUNG KẾ TOÁN TIÊU THỤ THÀNH PHẨM.
1. Các khái niệm liên quan đến tiêu thụ thành phẩm:
Tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế GTGT, nội dung của các chỉ tiêu
liên quan đến chi phí, doanh thu và kết quả có sự khác nhau. Đối với các doanh
nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ trong chi phí không bao
gồm số thuế GTGT đầu vào. Tương tự chỉ tiêu doanh thu bán hàng, chiết khấu,
giảm giá, doanh thu hàng bán bị trả lại là giá bán hoặc thu nhập chưa có thuế
GTGT(kể cả các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán- nếu có). Ngược
lại đối với các cơ sở tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc đối với
18
các đối tượng không chịu thuế GTGT, trong chi phí bao gồm cả thuế GTGT
đầu vào và các khoản khác. Các chỉ tiêu liên quan đến tiêu thụ thành phẩm
được xác định như sau:
- Doanh thu bán hàng: là tổng giá trị được thực hiện do việc bán hàng
hoá, sản phẩm, cung cấp lao vụ dịch vụ cho khách hàng. Tổng số doanh thu là
số tiền ghi trên hoá đơn bán hàng, trên hợp đồng cung cấp lao vụ, dịch vụ.
Doanh thu bán hàng sẽ được ghi tại thời điểm sản phẩm, hàng hoá được xác
định là đã tiêu thụ, tức là tại thời điểm chuyển quyền sở hữu về sản phẩm, hàng
hoá.
- Chiết khấu bán hàng: là số tiền tính trên tổng số doanh thu trả cho
khách hàng do đã thanh toán tiền hàng trước thời hạn qui định (chiết khấu
thanh toán).
- Giảm giá hàng bán: là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn
hay hợp đồng cung cấp lao vụ dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng
kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao hàng không đúng thời hạn, địa
điểm trong hợp đồng...(do chủ quan của doanh nghiệp). Ngoài ra, tính vào các
khoản giảm giá hàng bán còn bao gồm khoản thưởng cho khách hàng do trong
một khoảng thời gian nhất định đã tiến hành mua một khối lượng lớn hàng hoá
(hồi khấu) và khoản giảm trừ trên giá bán thông thường vì mua khối lượng lớn
hàng hoá trong một đợt (bớt giá)- chiết khấu thương mại.
- Hàng bán bị trả lại: số hàng đã được coi là tiêu thụ (đã chuyển giao
quyền sở hữu, đã thu tiền hay được người mua chấp nhận) nhưng bị người mua
từ chối trả lại do người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký kết như
không phù hợp yêu cầu, tiêu chuẩn, quy cách kỹ thuật, hàng kém phẩm chất,
không đúng chủng loại... Tương ứng với hàng bán bị trả lại là giá vốn của hàng
bán bị trả lại, doanh thu của hàng bán bị trả lại và thuế GTGT đầu ra phải nộp
của hàng bán bị trả lại (nếu có) và đều được tính theo giá vốn, doanh thu, thuế
khi bán.
- Doanh thu thuần: là khoản doanh thu còn lại của doanh thu bán hàng
sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu (giảm giá hàng bán, doanh thu
hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu).
19
- Giá vốn hàng bán: là trị giá vốn của sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch
vụ đã tiêu thụ trong kỳ. Đối với thành phẩm đó là giá thành sản xuất (giá thành
công xưởng) hay chi phí sản xuất thực tế.
- Lợi nhuân gộp: là số chênh lệch giữa doanh thu thuần với giá vốn hàng
bán. Lợi nhuận gộp còn gọi là lãi thương mại hay lợi tức gộp hoặc lãi gộp.
- Chi phí bán hàng: là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh có liên quan
đến hoạt động tiêu thụ bao gồm chi phí nhân viên bán hàng (lương và các
khoản trích theo lương của nhân viên bán hàng) chi phí vận chuyển, bao bì
đóng gói, chi phí quảng cáo, bảo hành sản phẩm, chi phí khấu hao nhà cửa máy
móc thiết bị và các chi phí bằng tiền khác.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ các khoản chi phí có liên quan
đến quản lý doanh nghiệp, quản lý hành chính và chi phí chung khác phát sinh
trong toàn doanh nghiệp gồm lương và các khoản trích theo lương của nhân
viên quản lý, chi phí dụng cụ văn phòng, chi tiếp khách hội nghị, khấu hao nhà
cửa máy móc thiết bị, các chi phí dịch vụ mua ngoài liên quan đến quản lý
doanh nghiệp và các chi phí bằng tiền khác.
- Lợi nhuận trước thuế: là chỉ tiêu phản ánh số chênh lệch giữa lợi nhuận
gộp với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Lợi nhuận sau thuế: là chỉ tiêu phản ánh số chênh lệch giữa lợi nhuận
trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Có thể khái quát mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí và kết quả hoạt
động tiêu thụ qua sơ đồ sau: (Sơ đồ số 6).
SƠ ĐỒ 6: MỐI QUAN HỆ GIỮA DOANH THU-CHI PHÍ
Doanh thu bán hàng
- Giảm giá, bớt giá, hồi khấu, doanh
thu hàng bán bị trả lại
- Thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt
Doanh thu thuần
Giá vốn hàng bán Lợi nhuận gộp
20
CF bán hàng và
CF quản lý
DOANH
NGHIệP
Lợi nhuận trước thuế
Thuế thu
nhập DN
Lợi nhuận
sau thuế
2. Các phương thức tiêu thụ.
Muốn tiêu thụ được sản phẩm của mình trong cơ chế thị trường hiện
nay doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến
mẫu mã mặt hàng đồng thời phải đẩy mạnh chiến lược marketing của mình.
Bên cạnh đó việc lựa chọn và áp dụng linh hoạt các phương thức bán hàng
cũng góp phần không nhỏ vào việc thực hiện kế hoạch tiêu thụ của doanh
nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất thường sử dụng các phương thức
tiêu thụ sau:
2.1.Phương thức tiêu thụ trực tiếp:
Là phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho (hay trực tiếp
tại các phân xưởng không qua kho) của doanh nghiệp. Số hàng khi bàn giao
cho khách hàng được chính thức coi là tiêu thụ và người bán mất quyền sở hữu
về số hàng này. Người mua thanh toán hay chấp nhận thanh toán số hàng mà
người bán đã giao.Sơ đồ hạch toán :
SƠ ĐỒ 7: HẠCH TOÁN TIÊU THỤ THEO PHƯƠNG THƯC TIÊU THỤ
TRỰC TIẾP
TK 154,155 TK 632 TK 911 TK 3331 TK 111,112,131
(2a) (1b)
TK 157 (9) TK 511
(1a)
(2b) (2c) (8)
(4c)
TK 111,112,131 TK 532
(3) (6)
TK 531
21
(4a) (7)
(4) TK 3331
(4b)
TK 811 TK 911
(5) (10)
(1a): Doanh thu bán hàng của hàng đã tiêu thụ.
(1b): Thuế GTGT đầu ra của hàng đã tiêu thụ.
(2a): Giá vốn thành phẩm đã tiêu thụ .
(2b): Trị giá thành phẩm chuyển chờ chấp nhận.
(2c): Giá vốn hàng chờ chấp nhận đã tiêu thụ.
(3): Giảm giá cho khách hàng ( tính trên tổng giá thanh toán ).
(4): Hàng bán bị trả lại.
(4a): Doanh thu của hàng bán bị trả lại(tính trên giá bán không thuế).
(4b): Thuế GTGT của hàng bán bị trả lại.
(4c): Giá vốn của hàng bán bị trả lại.
(5): Chiết khấu dành cho khách hàng (tính trên tổng giá thanh toán).
(6): Kết chuyển giảm giá trừ vào doanh thu bán hàng.
(7): Kết chuyển doanh thu hàng bán bị trả lại trừ vào doanh thu bán hàng.
(8): Kết chuyển doanh thu thuần vào TK xác định kết quả.
(9): Kết chuyển giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ.(10): Kết chuyển chiết khấu bán
hàng trừ vào kết quả trong kỳ.
2.2.Theo phương pháp gửi bán quản lý, đại lý, ký gửi
Theo phương thức này bên chủ hàng (bên giao đại lý) xuất hàng cho bên nhận
làm đại lý để bán. Bên đại lý sẽ được hưởng thù lao đại lý dưới hiiình thứ hoa
hồng hay chênh lệch giá. Sơ đồ hạch toán:
SƠ ĐỒ 8: HẠCH TOÁN TIÊU THỤ TẠI ĐƠN VỊ NHẬN ĐẠI LÝ,
KÝ GỬI
TK 911 TK 511 TK 111,112...
Kết chuyển doanh thu Hoa hồng đại
thuần lý được hưởng
22
TK 003 TK 331 Toàn bộ
tiền hàng
-Nhận -Bán Phải trả
-Trả lại chủ hàng
Thanh toán tiền hàng cho chủ hàng
2.3.Phương thức bán trả góp
Là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần. Người mua thanh toán
nhiều lần. Lần đầu thanh toán ngay tại thời điểm mua hàng. Các lần sau trả dần
với một tỷ lệ lãi suất nhất định. Thông thường các lần trả sua thừon bằng nhau
bao gồm một phần gốc doanh thu và một phần lãi trả chậm. Người mua sẽ
được sở hữu hoàn toàn số hàng mua chỉ khi trả hế số tiền mua số hàng đó. Khi
đó hàng bán mới chính thức coi là tiêu thụ.
Sơ đồ hạch toán:
SƠ ĐỒ 9: HẠCH TOÁN TIÊU THỤ THEO PHƯƠNG THỨC BÁN HÀNG
TRẢ GÓP
TK 154,155 TK 632 TK 911 TK 3331 TK 111,112
(1d)
(2) (4) TK 511 (1a)
(3) (1c)
TK 711 TK 131
(1b)
(1e)
(1a): Số tiền đã thanh toán lần đầu tại thời điểm mua.
23
(1b): Số tiền còn phải thu ở ngưởi mua.
(1c): Doanh thu chưa có thuế GTGT theo giá bán thu tiền ngay.
(1d): Thuế GTGT đầu ra của hàng đã tiêu thụ.
(1e): Lãi do bán trả góp.
(2): giá vốn thành phẩm đã tiêu thụ.
(3): Kết chuyển doanh thu thuần vào TK xác định kết quả.
(4): Kết chuyển giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ.
2.4.Phương thức hàng đổi hàng:
Để thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời giải quyết
lượng hàng tồn kho, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện việc trao đổi sản phẩm
hàng hoá của mình để nhận các loại vật tư, hàng hoá khác. Sản phẩm khi bàn
giao cho khách hàng được coi là chính thức tiêu thụ và đơn vị xác định doanh
thu.
Ngoài các phương thức tiêu thụ chủ yếu như trên trường hợp doanh
nghiệp dùng sản phẩm, hàng hoá để thanh toán tiền lương, tiền thưởng cho cán
bộ công nhân viên, để viện trợ, biếu tặng, tổ chức hội nghị khách hàng đều
được coi là tiêu thụ.
SƠ ĐỒ 10: HẠCH TOÁN THEO PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐỔI HÀNG
TK154,155 TK 632 TK 911 TK 511 TK 131 TK 152,153...
(1)
(5) (4) (2a) (3a)
TK 3331 TK 133
(2b) (3b)
(1): Xuất Thành phẩm đem trao đổi.
(2a): Doanh thu tiêu thụ của hàng đem đi trao đổi.
(2b): Thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng đem đi trao đổi.
(3a): Trị giá vật tư, hàng hoá nhận về.
24
(3b): Thuế GTGT đầu vào của hàng đem trao đổi
(4): Kết chuyển doanh thu thuần vào TK xác định kết quả.
(5): Kết chuyển giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ.
Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, để đưa sản phẩm, hàng hoá từ lĩnh
vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng một cách nhanh nhất với chi phí thấp nhất
thì quá trình tiêu thụ chia làm hai giai đoạn:
+ Bán buôn: Là quá trình bán hàng cho các doanh nghiệp thương mại,
các doanh nghiệp sản xuất và các tổ chức kinh tế khác mà kết thúc của quá
trình này sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp vẫn nằm trong lĩnh vực lưu
thông chưa đi vào tiêu dùng, giá trị sử dụng của sản phẩm, hàng hoá vẫn chưa
được thực hiện hoàn toàn. Đặc điểm của bán buôn là sản phẩm, hàng hoá được
bán với khối lượng lớn và thường tiến hành theo các hợp đồng kinh tế đã ký
kết.
+ Bán lẻ: Là việc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng và sản phẩm,
hàng hoá sẽ không tham gia vào khâu lưu thông, thực hiện hoàn toàn giá trị và
giá trị sử dụng của nó.
Cách phân chia này giúp doanh nghiệp cũng như nhà nước có thể thay
đổi được tỷ lệ tương quan giữa bán buôn, bán lẻ sản phẩm, hàng hoá, có biện
pháp điều chỉnh phù hợp theo hướng tăng cường bán lẻ, giảm tối đa việc luân
chuyển sản phẩm, hàng hoá qua nhiều khâu trung gian.
Như vậy, có nhiều phương thức tiêu thụ khác nhau, việc doanh nghiệp
vận dụng phương thức tiêu thụ nào còn tuỳ thuộc vào từng loại hình sản phẩm,
quy mô và khả năng của doanh nghiệp cũng như điều kiện thị trường sao cho
với chi phí là thấp nhất đạt được hiệu quả cao nhất
3. Chứng từ kế toán sử dụng:
Để phản ánh nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm, kế toán sử dụng các chứng
từ sau:
- Hoá đơn GTGT: sử dụng cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp
khấu trừ khi tính thuế GTGT. Hoá đơn này gồm 3 chỉ tiêu:
+ Giá bán chưa tính thuế GTGT.
+ Thuế GTGT.
25