Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

bác và những năm tháng tại Pháp ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.54 KB, 17 trang )

1
Lời mở đầu
Lịch sử cách mạng của nước ta ở thế kỷ XX gắn liền với
tên tuổi ,sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức Nguyễn Ái Quốc-Hồ
Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc
của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh, con người mang tầm vóc
thời đại, được cả thế giới ca ngợi, có một không hai trong lịch
sử dân tộc Việt Nam.
Nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chìm dưới
ách đô hộ của thực dân Pháp. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là
người thiếu niên 15 tuổi, người thiếu niên ấy đã chứng kiến nỗi
khổ cực của đồng bào, những phong trào đấu tranh chống thực
dân và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy
giờ, Người đã có chí đuổi thực dân Pháp, giành độc lập cho đất
nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Mãi đến 2/6/1911, Bác bàn với một số người bạn thân về
giúp đồng bào chúng ta… Khi người bạn hỏi lấy đâu ra tiền mà
đi, bác vừa nói vừa giơ hai bàn tay! Đây tiền đây, chúng ta làm
việc, chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. 3/6/1911,
Bác nhận thẻ nhân viên lên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin của
Pháp với cái tên là Văn Ba. Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành
từ cảng Nhà Rồng rời Tổ quốc và bắt đầu sự nghiệp cứu quốc từ
đây. Vì vậy, với tấm lòng tôn kính, biết ơn, chúng tôi đã chọn đề
tài “ Bác và những năm của Bác tại Pháp”.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, không thể tránh khỏi
những sai sót. Mong cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài viết
được hoàn thiện hơn.
Xin cảm ơn!
2
1. Tiểu sử của Bác
Họ và tên thường dùng: Hồ Chí Minh


Họ và tên khai sinh: Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất Thành
Bí danh: Nguyễn Ái Quốc, Lin, Lý Thụy, Hồ Chí Minh… trong tổng số 169
tên gọi, bí danh và bút danh
Ngày tháng năm sinh: 19/05/1890
Nơi sinh: Làng Hoàng Trù , xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
Quê quán: Xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
Nơi thường trú: Hà Nội
Tham gia cách mạng: Năm 1911 (ngày Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu
nước)
Quá trình công tác: Từ năm 1911 đến năm 1969
Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lần thứ nhất: 28/08/1945 (ngày
thành lập Chính phủ lâm thời) đến ngày 02/03/1946 (ngày thành lập Chính
phủ Liên hiệp Kháng chiến).
Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lần thứ hai: 03/11/1946 (ngày
thành lập Chính phủ mới) đến tháng 03/1947
3
Cấp bậc trong Đảng khi Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao:
Uỷ viên Ban thường vụ Trung ương Đảng
Quá trình hoạt động:
-Từ bến Nhà Rồng, Sài Gòn, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước (cuối
năm 1911).
Bến Nhà Rồng - Nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước
- Nhân danh những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh gửi
"Bản yêu sách của nhân dân An Nam" tới Hội nghị quốc tế ở Véc-xây, đòi
quốc tế công nhận các quyền tự do, dân chủ, bình quyền cho người Việt Nam.
Đây được coi là hoạt động đối ngoại tiêu biểu đầu tiên của Hồ Chí Minh
(tháng 06/1919);
- Tại Đại hội Tua, Hồ Chí Minh tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp (1920);
- Tham gia thành lập "Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp" (1921);

- Xuất bản tờ báo "Người cùng khổ" (1922) và được bầu vào Ban chấp hành
"Quốc tế Nông dân" (1923);
4
- Tham dự Đại hội V "Quốc tế Cộng sản" và được chỉ định là Uỷ viên thường
trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam (1924);
- Tham gia thành lập "Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Châu Á", xuất bản
hai cuốn sách nổi tiếng là "Bản án chế độ thực dân Pháp" và " Đường Cách
mệnh"; Thành lập "Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội" ở Quảng
Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản Đoàn" làm nòng cốt cho tổ chức
này (1925);
Được Ban chấp hành Trung ương Quốc tế Cộng sản uỷ nhiệm, Hồ Chí Minh
triệu tập Hội nghị hợp nhất để thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương,
tiền thân của "Đảng Lao động Việt Nam" rồi "Đảng Cộng sản Việt Nam"
ngày nay (03/02/1930);
Ngày qua đời: 02/9/1969 tại Hà Nội.
Năm 1990, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổ chức
Văn hoá và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đã công nhận Người là "Vị
Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là một nhà văn hóa lớn" và
kiến nghị các nước thành viên tổ chức kỷ niệm và tuyên truyền, giới thiệu về
cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của Người.
2. Bến nhà rồng
Toà nhà có đôi rồng gắn trên nóc, kiểu "lưỡng long chầu nguyệt" nên
thường được gọi là "Nhà Rồng", do vậy bến cảng thuộc khu vực này cũng
mang tên Bến Nhà Rồng.
Nơi đây, ngày 05/06/1911, người thanh niên Việt
Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm
đường cứu nước. Sau hơn 30 năm bôn ba ở nước
ngoài Nguyễn Tất Thành trở thành nhà cách mạng
lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên làm cuộc

Cách mạng Tháng 8, lập ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Người thanh niên ra đi tìm đường cứu nước năm xưa chính là
Bến Nhà Rồng
5
Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này.
Bến Nhà Rồng hiện nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí
Minh, là một chi nhánh nằm trong hệ thống các Bảo tàng và di tích lưu niệm
về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước.
Nơi đây, trước ngày 30.4.1975 là trụ sở của Tổng Công ty Vận tải
Hoàng Đế (Messageries Impériales) - một trong những công trình đầu tiên do
thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Ngôi nhà được xây
dựng từ giữa nǎm 1862 đến cuối nǎm 1863 hoàn thành với lối kiến trúc
phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trǎng theo
mô típ "lưỡng long chầu nguyệt", một kiểu trang trí quen thuộc của đền chùa
Việt Nam. Với kiến trúc độc đáo đó nên Tổng Công ty Vận tải Hoàng Đế
được gọi là Nhà Rồng và bến cảng mang tên Bến Cảng Nhà Rồng. Nǎm 1955,
sau khi thực dân Pháp thất bại, thương cảng Sài Gòn được chuyển giao cho
chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý, họ đã tu sửa lại mái ngói ngôi nhà
và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng mới với tư thế quay đầu ra
ngoài.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, với 03 phòng trưng bày
(250m2), sau hai lần chỉnh lý (1990, 1995) lúc này đã có 09 phòng với
1482,62 m2 diện tích trưng bày; 02 phòng kho chứa 10.927 tài liệu, hiện vật
và 450 hiện vật trưng bày ngoài trời. Trong 09 phòng trưng bày hiện tại, có 06
phòng trưng bày những chuyên đề cố định bao gồm những tư liệu, hiện vật,
hình ảnh liên quan tới tiểu sử, sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh; 03 phòng trưng bày chuyên đề thời sự, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ chính trị tuyên truyền trong từng thời gian nhất định.
Từ nǎm 1995 đến nay, đơn vị đã tổ chức trưng bày
20 chuyên đềmang tính thời sự tại Bảo tàng và 16

cuộc trưng bày lưu động tại các vùng sâu vùng xa,
các quận huyện ngoại thành. Tất cả các phòng
trưng bày sau những lần chỉnh lý đều được nâng
6
lên cả về nội dung và hình thức, phối hợp nhiều yếu tố trong khâu trưng bày
tạo tính hấp dẫn đối với người xem. Ngoài những hoạt động chính, Bảo tàng
còn tiến hành những hoạt động tuyên truyền giáo dục rộng rãi như tổ chức các
Hội nghị khoa học, các cuộc tọa đàm giữa các thế hệ, nói chuyện chuyên đề
về Chủ tịch Hồ Chí Minh, giới thiệu và chiếu phim, tư liệu, hồi ký, các ấn
phẩm về Chủ tịch Hồ Chí Minh và về Bảo tàng, in lịch, tổ chức kết nạp Đảng,
Đoàn, Đội; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về tiểu sử, sự nghiệp cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh , Bảo tàng còn là nơi hội họp, gặp gỡ lý tưởng của
các tổ chức, đoàn thể đến sinh hoạt truyền thống, học tập, vui chơi; là nơi ra
quân của nhiều phong trào cách mạng sôi nổi của Thành phố
Trong hơn 20 nǎm hoạt động, Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí
Minh đã đón tiếp gần 20 triệu lượt khách từ khắp nơi trong nước và nước
ngoài đến tham quan. Đặc biệt có hàng trǎm đoàn nguyên thủ quốc gia và
đoàn cao cấp các nước đến thǎm viếng tìm hiểu, nghiên cứu về Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Từ 400 tư liệu, hiện vật (nǎm 1980) đến nay đã có 11.372 tư liệu,
hiện vật và 3300 đầu sách chuyên đề về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ riêng từ
đầu nǎm đến nay, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng vận động
nhân dân hiến tặng 2093 tư liệu.
Với sự nỗ lực phấn đấu vươn lên không mệt
mỏi và lòng mến khách, yêu nghề của CB.CNV
Bảo tàng đã để lại những tình cảm tốt đẹp trong
lòng khách tham quan và nhân dân miền Nam. Với
những thành tích như trên, liên tục từ nǎm 1992
đến nay, Bảo tàng luôn nhận được bằng khen của
Bộ Vǎn hóa Thông tin; của UBND TP. Hồ Chí
Minh, đặc biệt 5 nǎm liền từ 1992 - 1996, Bảo tàng vinh dự được Chủ tịch

nước tặng huân chương lao động hạng III; nǎm 1998 nhân dịp kỷ niệm 300
nǎm Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh, Nhà Rồng đã được chọn làm biểu tượng của
Thành phố, đồng thời UBND Thành phố đã phối hợp với Hiệp hội LYON của
Bến nhà rồng_nơi bác ra đi
tìm đường cứu nước
7
Pháp đầu tư trang thiết bị hệ thống chiếu sáng nghệ thuật cho Bảo tàng, công
trình đã khánh thành vào ngày 21/11/1998, làm nổi bật một cách hài hòa các
khối kiến trúc đem lại sức sống, nǎng động cho ngôi Nhà Rồng về đêm.
Nǎm 2001, nhân kỷ niệm 90 nǎm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu
nước (5/6/1911 - 5/6/2001), UBND TP. Hồ Chí Minh đã đầu tư việc xây dựng
mở rộng Bảo tàng; và xây dựng tượng Nguyễn Tất Thành, chỉnh trang nhà
Rồng. Trong đề án chương trình mục tiêu phát triển từ nay đến nǎm 2005,
ngoài các hoạt động thường xuyên, đơn vị tập trung cải tạo nâng cấp mở rộng
diện tích trưng bày; chỉnh lý lớn các phòng trưng bày cố định, tập trung xây
dựng những chuyên đề mang đặc trưng của một Bảo tàng Chi nhánh phía
Nam như chủ đề "Bác Hồ với miền Nam - miền Nam với Bác Hồ".
Trong thời gian trước mắt (2001 - 2005) thực hiện hoàn chỉnh công tác
tin học hóa công tác trưng bày và quản lý kho tư liệu, hiện vật. Đẩy mạnh việc
triển khai công nghệ thông tin trong các hoạt động nghiệp vụ, thực hiện nối
mạng với Sở Vǎn hóa Thông tin, tiến tới nối mạng trao đổi thông tin tư liệu
với Cục Bảo tồn Bảo tàng, với các Bảo tàng và di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng đề án "Mô hình khung
cảnh khu vực Cảng Sài Gòn những nǎm 1911" (ngoài trời) cùng việc phục
chế chiếc tàu AMIRAL LATOUCH TREVILL mà ngày 5/6/1911 Bác Hồ đã
ra đi tìm đường cứu nước nhằm làm sinh động, phong phú hơn hình thức
trưng bày của Bảo tàng và tạo ấn tượng cảm xúc trực quan gây sự hấp dẫn
khách vào tham quan, định hướng phát triển và phối hợp với ngành Du lịch,
tạo sự thu hút đối với khách du lịch trong và ngoài nước.
3. Hoàn cảnh lịch sử

Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm
chiếm Sài Gòn. Năm 1862, Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông
cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành
8
một lãnh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ). Từ năm 1873 đến năm 1886,
Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến
phức tạp ở miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa
người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm
soát nổi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc
tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp
đã chiến thắng.
Quân Pháp tấn công quân Thanh tại Lạng Sơn năm 1885
Pháp tuyên bố là họ sẽ bảo hộ Bắc kỳ (Tonkin) và Trung kỳ (Annam), nơi họ
tiếp tục duy trì các hoàng đế bù nhìn cho đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến
1945 và quốc trưởng từ 1949 đến 1956). Năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ
chức phong trào kháng chiến Cần Vương chống Pháp nhưng thất bại.
Vào năm 1887, hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức
ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở
trung ương là Phủ toàn quyền Đông Dương (ban đầu thủ phủ ở Sài Gòn, năm
1902 đặt ở Hà Nội). Đứng đầu Phủ toàn quyền gọi là Toàn quyền Đông
Dương, là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên
toàn cõi Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Đứng đầu ở 3 kỳ là: Thống
đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ, cả ba đều nằm dưới
quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực
9
thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1893 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông
Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao.
Những năm tháng của bác tại pháp
1912_1917
Từ năm 1912 - 1917, Nguyễn Tất Thành đến nhiều nước ở châu Á,

châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao động, Người
thông cảm sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc
thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Người sớm nhận thức
được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ
phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới. Người đã hoạt động
tích cực nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc giành tự do, độc lập.
Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp hoạt động trong phong trào Việt
kiều, phong trào công nhân Pháp.
Năm 1917 Nguyễn Tất Thành nghỉ việc ở khách sạn Carlton và qua eo
biển Anh tới Pháp.Các hoạt động chính trị của Nguyễn Tất Thành trong
10
những năm tháng ở London vẫn còn chưa được biết đến. Phải khi trở lại Pháp,
Nguyễn Tất Thành bắt đầu tham dự các cuộc họp của Đảng Xã hội Pháp.
Nguyễn Tất Thành định thành lập cơ quan liên lạc với các nhóm công nhân
giữa Anh Quốc và Pháp. Các hoạt động công đoàn của Nguyễn Tất Thành
nhanh chóng đưa ông liên hệ với các chính trị gia cánh tả và các nhà văn. Tại
cuộc họp hàng tuần của họ, Nguyễn Tất Thành thỉnh thoảng được mời phát
biểu để nói về điều kiện ở Đông Dương. Khi đứng lên giữa cuộc họp, Nguyễn
Tất Thành không phải là một con người bình thường, ông được chú ý bởi “đôi
mắt đen bừng sáng mỗi khi ông nói và dường như xuyên thấu tâm hồn của
người quan sát”.Giới chức Pháp ở Đông Dương ngày càng để ý tới hoạt động
của Thành. Vào tháng 6/1917, toàn quyền Đông Dương đã thành lập một cơ
quan tình báo để theo dõi tất cả các cá nhân được xem là mối nguy hiểm an
ninh cho thuộc địa châu Á này cũng như trong lòng nước Pháp. Họ đã tuyển
những người Việt Nam biết nói tiếng Pháp làm điệp viên để theo dõi các hoạt
động hàng ngày của Thành.Mùa đông năm 1918, ngay sau Chiến tranh Thế
giới thứ nhất, là một mùa đông vô cùng khắc nghiệt, thiếu nhiên liệu, chất đốt
nghiêm trọng trên toàn nước Pháp. Vào ban đêm người ta phải mang rèm cửa
ra để ủ ấm thêm. Nạn thất nghiệp lan tràn khắp nơi. Thành lúc đó đang sống
với cụ Phan Chu Trinh và đã giúp đỡ cụ trong studio phục chế ảnh.Vào đầu

năm 1919 Nguyễn Tất Thành biết được tin về Hội nghị Hoà bình Quốc tế
được tổ chức ở Versailles. Bác đã chuẩn bị một đơn kiến nghị gửi đến Ngoại
trưởng Mỹ với hi vọng có sự can thiệp để giải phóng Việt Nam khỏi chế độ
thuộc địa. Và đây chính là lúc Bác lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, tức Nguyễn
Yêu Nước, trong bản kiến nghị.Giữa năm 1919, người Pháp đã “liệt” Nguyễn
Ái Quốc là “người nổi loạn nguy hiểm nhất”, đe doạ đến an ninh Pháp ở
Đông Dương.
11
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu
nước, Bác phổ biến "Yêu sách của nhân dân An Nam", gồm tám điểm và
được viết bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), ký tên
Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles, đòi chính phủ Pháp
ân xá chính trị phạm, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng
của dân tộc Việt
Nam. Bác còn gửi
thư riêng kèm theo
bản yêu sách cho
các đoàn đại biểu
Đồng Minh dự hội
nghị, nhưng không
gây được sự chú ý.
Từ đó Bác dùng tên
Nguyễn Ái Quốc.
Bản yêu sách tám điểm của nhân dân An Nam ký tên Nguyễn Ái
Quốc xuất hiện tại Thủ đô Pari của nước Pháp, với những nội dung cơ bản
được nêu ra: "1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính
trị; 2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ
cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu
châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố
và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam; 3. Tự do báo

chí và tự do ngôn luận; 4. Tự do lập hội và hội họp; 5. Tự do cư trú ở nước
ngoài và tự do xuất dương; 6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật
và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ; 7. Thay chế độ ra các
sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; 8. Đoàn đại biểu thường trực của
người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho
Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ"3, đại diện cho
12
một dân tộc đã bị mất tên trên bản đồ thế giới, thực sự chỉ như một tiếng kêu
cứu của người dân thuộc địa tại một Hội nghị quốc tế. Về thực chất, Yêu sách
cũng chỉ dừng ở sự "đòi hỏi" thực dân Pháp "lỏng tay" hơn trong cai trị, và
"không có gì quá đáng", nhưng sự thức tỉnh của những lục địa chưa được gọi
là "văn minh" rồi đây cũng hẳn sẽ tìm thấy từ Yêu sách này "tiếng nói của dân
tộc mình".
Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin đăng trên báo
L'Humanité (tờ này là cơ quan phát ngôn của Đảng Cộng sản Pháp), từ đó
Người đi theo chủ nghĩa cộng sản. Người tham dự Đại hội lần thứ 18 của
Đảng Xã hội Pháp tại Tours với tư cách là đại biểu Đông Dương, trở thành
một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp. Sau này, Bác thừa
nhận: "Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ không phải chủ nghĩa cộng
sản đã làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”
13
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống
trị của thực dân Pháp
Năm 1921, Bác cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập
ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes
de toutes les colonies). Năm 1922, Bác cùng một số nhà cách mạng thuộc địa
ra báo Le Paria (Người cùng khổ) Tờ này ra được 38 số với mỗi số bán được
quãng 1000 tới 5000 bản, một con số thuyết phục vào lúc bấy giờ.Ngoài ra,
Bác viết bài cho hàng loạt báo khác.

Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès
de la colonisation française) do Bác viết được
xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực
dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào
đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Bác là
trưởng Tiểu ban Đông Dương của Đảng Cộng
sản Pháp.
Năm 1923, với tư cách đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Bác ra tranh cử
vào Hạ viện Pháp, nhưng thất bại. Trong lần đầu tiên tham gia bầu cử Quốc
hội đó, Đảng Cộng sản Pháp giành được tất cả 1,2 triệu phiếu ủng hộ trên
tổng số 5 triệu phiếu cử tri, nhưng Nguyễn Ái Quốc trượt chân dân biểu Quốc
hộ
14
Trong toàn bộ thời gian sống trên đất Pháp, Bác trang trải cuộc sống bằng
cách làm việc nửa ngày. Thoạt đầu, Bác làm thuê tại một tiệm rửa ảnh và
được Phan Văn Trường nhượng quyền cho thuê lại một căn phòng. Sau đó,
Bác đi vẽ khoán cho một xưởng vẽ truyền thần và thuê một phòng tại căn nhà
số 9 ngõ Compoint, Quận 17, Paris .Ông theo học dự thính tại Đại học
Sorbonne và được coi là mọt sách tại Thư viện Quốc gia Pháp.
Dòng chữ khắc trên đó: "Tại nơi đây, từ năm 1921 đến năm 1923,
Nguyễn Ái Quốc, người thường được biết tới với tên Hồ Chí Minh, đã sống và
chiến đấu vì quyền độc lập và tự do cho nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị
áp bức khác."
 Các tác phẩm của Bác thời gian 1917 – 1923
Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp,
Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4-1922, Hội xuất
bản báo “Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn
15
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, tờ này ra được 38 số
với mỗi số bán được khoảng 1000 tới 5000 bản, một con số thuyết phục vào

lúc bấy giờ. Ngoài ra, ông còn viết bài cho hàng loạt báo khác.
Nhiều bài báo của Người đã được đưa vào tác phẩm “Bản án chế độ thực dân
Pháp”, xuất bản năm 1925. Tác phẩm đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo
của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các thuộc địa. Ông là trưởng
tiểu ban Đông Dương của Đảng Cộng Sản Pháp.
Tác phẩm tiêu biểu của Bác trong thời kì 1917-1923:
- Con rồng tre (năm 1922, nhằm đả kích vua khải định)
- Truyện ngắn:
+ Pari (năm 1922, nhân đạo)
+ Lời than vãn của bà trưng trắc (năm 1922, nhân đạo)
+ Con người biết mùi hun khói ( năm 1922, nhân đạo)
+ Vi hành (năm 1923, nhân đạo)
16
kết luận
17

×