Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghiên cứu triết học " PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ VỚI TÍNH CÁCH MỘT MỤC TIÊU TOÀN CẦU CỦA NHÂN LOẠI " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.45 KB, 7 trang )

PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ VỚI TÍNH CÁCH MỘT MỤC TIÊU TOÀN CẦU
CỦA NHÂN LOẠI



EVANDRO AGAZZI(*)
Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng để làm rõ rằng, quan niệm cũ về phát
triển được hiểu trùng khít với phát triển kinh tế. Cách hiểu như vậy về phát triển
đã bộc lộ những khiếm khuyết và nó cần được bổ sung bằng những đặc trưng
mang bản chất phi kinh tế – phát triển văn hoá. Theo tác giả, phát triển là một
khái niệm đa chiều, phương diện kinh tế rất quan trọng nhưng phương diện văn
hoá cũng quan trọng không kém và do vậy, phải phát triển cả hai chứ không phải
chỉ riêng một phương diện nào.
Gần đây, khi UNESCO công bố thập niên thế giới phát triển văn hoá, tổ chức này
đã không đưa ra một khái niệm thực sự rõ ràng theo hai nghĩa: trước đây nó chưa
từng được phổ biến (tức không có một ý nghĩa xác định) và ngay cả trong những
văn kiện của UNESCO, nó cũng chưa được định nghĩa tường minh (một yêu cầu
thường thấy đối với những khái niệm mới khi chúng được đưa vào từ vựng hiện
có). Tuy nhiên, điều này không ngăn cản chúng ta cố gắng phác hoạ ít nhất một
số đặc điểm trong ý nghĩa của khái niệm này bằng cách xem xét bối cảnh trong
đó nó xuất hiện và những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của nó. Việc xem
xét này cũng sẽ tính đến những gì còn mơ hồ bao quanh khái niệm ấy.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự mơ hồ của khái niệm này chính là việc nó được
đề ra trong bối cảnh mà một khái niệm tương tự đã được biết đến một cách chính
thức từ rất lâu, khái niệm “phát triển”. Vậy giờ đây, khái niệm “phát triển văn
hoá” có nghĩa là gì? Việc thêm vào đó tính từ “văn hoá” có ý nghĩa hay ám chỉ
điều gì? Phải hiểu nó như một sự thay thế khái niệm cũ hay là được phát triển chi
tiết hơn? Việc trả lời những câu hỏi này không dễ dàng. Trên thực tế, việc đưa ra
tư tưởng phát triển văn hoá là hậu quả của những bất thành hiển nhiên trong lịch
sử của những nỗ lực xuất hiện trong ba thập niên đề xuất “phát triển” (theo nghĩa
thứ nhất) trong cái gọi là các nước thế giới thứ ba. Điều này, theo nghĩa nào đó,


có thể bị coi như một sự lạ lùng, bởi người ta không thể hiểu ngay được tại sao
những bất thành thực tế trong việc vận dụng một khái niệm lại tác động đến ý
nghĩa của nó và dẫn đến sự thay đổi hay từ bỏ nó. Tuy nhiên, từ một góc nhìn
khác, điều này là hợp lý. Trên thực tế, khi một khái niệm được đề xuất như cơ sở
hướng dẫn hành động, tức như sự mô tả cho một mục tiêu hợp lý (và điều này
đúng với trường hợp khái niệm “phát triển”) mà những hoạt động được thực hiện
không thành công thì, về mặt phương pháp luận, ta sẽ đúng khi đặt câu hỏi phải
chăng thất bại của chúng là do việc áp dụng những bước đi cụ thể không thích
đáng hay do việc cụ thể hoá khái niệm mục tiêu không thoả đáng. Trong trường
hợp chính sách “phát triển” thất bại theo nguyên nghĩa, những nguyên nhân đã
được xác định, ít nhất trong một phạm vi nào đó, là ở tính không đầy đủ của sự
đặc trưng hoá khái niệm phát triển. Nói một cách cụ thể, cho dù nó có tính chất
“chung chung”, người ta cũng sẽ sớm nhận ra rằng, tư tưởng cũ về phát triển đã
được xét đến dưới dạng những đặc điểm rất giới hạn và cụ thể, tức là dưới dạng
những đặc điểm kinh tế nghiêm ngặt: phát triển đã được ngầm hiểu là trùng khít
với phát triển kinh tế. Dù sao, nhận thức đơn giản này cũng không dẫn chúng ta
đi quá xa.
Quả thực, những khả năng khác nhau đều có thể xảy ra. Khả năng thứ nhất nằm
trong nhận thức, tức là sự thừa nhận tư tưởng phát triển không bao giờ có thể
được sử dụng theo một nghĩa chung chung, mà phải luôn đi kèm với chỉ báo về
một phương diện xác định cần phát triển. Điều này chứng minh cho việc thêm
vào ý nghĩa cụ thể hoá cho tư tưởng phát triển, tức là thêm vào một tính từ bổ
nghĩa, kiểu như “kinh tế” hay “văn hoá”. Sự bổ sung này lại dẫn đến câu hỏi, liệu
cái lĩnh vực được lựa chọn có có đủ “đại diện” cho phát triển toàn cầu mà người
ta hướng đến? Thứ nữa, ta phải đặt câu hỏi liệu phương diện ấy có đủ độc lập để
phát triển vì chính mình hay nó không thể phát triển được nếu không có sự liên
hệ với những phương diện khác. Trong trường hợp của chúng ta, câu hỏi kép này
trở thành vấn đề - đặt ra ngay trước sự bất thành của phát triển “kinh tế” (vốn
được coi là “đại diện” cho phát triển) – liệu thất bại ấy có phải do phát triển kinh
tế không thực sự là một tiêu chí đủ để “khái quát hoá” tư tưởng phát triển nói

chung (tức là nó không đủ vững chắc và toàn diện cho tư tưởng ấy), hay phải
chăng nó đã không ở vào cái vị trí bị xuyên tạc nếu không xét đến những phương
diện khác. Thực ra, hai tình huống này không giống nhau. Trường hợp thứ nhất,
người ta sẵn sàng thừa nhận rằng cái “mô hình phát triển” vạch ra dưới góc độ
kinh tế trong tự thân nó đã không thoả đáng và phải được bổ sung bằng những
đặc trưng khác mang bản chất phi kinh tế. Trường hợp thứ hai, người ta tin rằng
mô hình kinh tế là mô hình tốt và thừa nhận những đặc trưng phi kinh tế phải
được tính đến để bổ sung vào sự thành công của nó.
Khi xem xét “phát triển văn hoá” và giả định nó được đưa ra để bù lại những
khiếm khuyết của khái niệm “phát triển kinh tế”, người ta có thể đứng trước
những lựa chọn: 1/ Thừa nhận rằng, không thể nói đến “phát triển” mà không xác
định thực chất nó là gì; rằng, những đặc điểm kinh tế không đủ để mô tả sự phát
triển theo đúng nghĩa của từ, cho nên phải tìm kiếm một mô tả đầy đủ trong “văn
hoá”. Thay cho “phát triển kinh tế”, chúng ta có “phát triển kinh tế” với tính cách
một chính sách thành công và hợp lý. 2/ Chúng ta tiếp tục thừa nhận rằng, về bản
chất, phát triển phải được hiểu dưới góc độ kinh tế; đồng thời thừa nhận sự phát
triển ấy không thể được thúc đẩy một cách đúng đắn nếu không chú ý đầy đủ đến
bối cảnh “văn hoá” chung. Do đó, “phát triển văn hoá” được coi như một phần
bù không thể thiếu cho những thành tựu trong phát triển kinh tế. 3/ Chúng ta thừa
nhận phát triển là một khái niệm đa chiều, trong đó có những phương diện về bản
chất là tương tự nhau: phương diện kinh tế rất quan trọng nhưng phương diện
văn hoá cũng quan trọng không kém; do đó, chúng ta phải phát triển cả hai và
vấn đề là ở chỗ, càng thành công, chúng ta càng phải chú ý đến cả hai chứ không
chỉ một phương diện nào.
Những nhận xét trên đã đủ để nói lên rằng, tư tưởng phát triển văn hoá, trong
chừng mực mà nó được đề xuất như một phương thuốc cho thất bại của chính
sách phát triển từ góc độ kinh tế, không xuất hiện từ sự mô tả đầy đủ, như ta
thường thấy với mọi khái niệm được đưa ra dưới hình thức phủ định hay chống
lại cái gì đó. Chúng ta cần nhiều hơn thế để biết thực chất phát triển văn hoá là gì
và có lẽ chúng ta sẽ thừa nhận rằng, việc hiểu được phát triển văn hoá còn khó

khăn hơn việc hiểu phát triển kinh tế. Trên thực tế, khó khăn đầu tiên xuất phát từ
những mơ hồ xung quanh khái niệm văn hoá, những điều này đã được biết đến
khá nhiều và chúng ta không cần nhắc lại ở đây. Sự tồn tại của những khác biệt
sâu sắc trong cách thức lĩnh hội khái niệm văn hoá rõ ràng sẽ in dấu vào chính
cách thức nắm bắt sự phát triển văn hoá và những chính sách thúc đẩy nó; trong
khi đó, dường như người ta không tranh luận nhiều lắm về thực chất của phát
triển kinh tế.
Khó khăn thứ hai nảy sinh từ bản chất bên trong của “phát triển”. Đây không
phải là “sự thay đổi” thuần tuý (như chúng ta đã cố gắng xác định ở đâu đó, mà
là sự tăng trưởng, tiến bộ và đồng thời, điều này hàm nghĩa những đánh giá về số
lượng và chất lượng. Những đánh giá về mặt chất lượng là cần thiết để xác định
giá trị hay tập hợp giá trị cần được phát triển (trong tư tưởng phát triển, khi nó
được áp dụng cho những thực tại người, có một nội dung quy chuẩn đặc trưng,
tức chỉ báo về cái tự thân có giá trị và đáng để thúc đẩy). Những đánh giá về số
lượng thì ẩn trong cái sự thực theo đó việc tìm kiếm sự phát triển có nghĩa là tìm
kiếm sự tiến bộ trong khi hiện thực hoá những giá trị trên đây và chúng ta cần có
những tiêu chuẩn để đánh giá tiến bộ ấy, để biết có sự tiến bộ hay không và “tiến
bộ” đến mức nào. Do đó, chúng ta cần biết “có giá trị về mặt văn hoá” nghĩa là gì
nếu ta muốn thúc đẩy phát triển văn hoá. Tương tự như thế, chúng ta cần biết thế
nào là có giá trị về kinh tế, về khoa học, về công nghệ, về nghệ thuật, v.v. nếu
muốn thúc đẩy các lĩnh vực tương ứng. Cách xác định đó có khả dĩ không? Hay
ít nhất thì nó có khả dĩ hay không trong chừng mực đem lại cho chúng ta những
định hướng thực tế?
Câu trả lời là rất không chắc chắn. Điều này dẫn đến một nguy cơ nghiêm trọng
là chúng ta lặp lại trong phát triển văn hoá cái sai lầm đã mắc phải trong phát
triển kinh tế khi mà, để tạo nên cái gọi là “có giá trị” về kinh tế, một mô hình hay
“kiểu mẫu” kinh tế đặc thù đã được coi như hiển nhiên, tức là cái mô hình công
nghiệp hoá của các nước giàu có phương Tây. Theo cách thức đó, việc thúc đẩy
phát triển kinh tế ở các nước thuộc thế giới thứ ba đã được hiểu như việc buộc họ
chấp nhận và bắt chước mô hình kinh tế phương Tây. Phải chăng giờ đây chúng

ta đang sẵn sàng lặp lại kinh nghiệm ấy? Liệu chúng ta có lấy các nước phương
Tây như là hình mẫu của các nước “phát triển về văn hoá” và bắt buộc hay ít nhất
là khuyến khích những bộ phận còn lại của thế giới bắt chước mô hình ấy? Đây
không đơn thuần là câu hỏi tu từ. Chúng ta cần nhớ rằng, đã từng có một kiểu
biện hộ mang tính đạo đức cho chủ nghĩa thực dân trong những thế kỷ vừa qua:
chúng ta áp đặt cho những đất nước này sự thống trị của chúng ta và lấy đi của
họ vàng bạc, của cải, nguyên liệu thô cùng những hàng hoá vật chất; đổi lại,
chúng ta đem đến cho họ những giá trị văn hoá, chúng ta “văn minh hoá” họ và
giúp họ tham dự vào tiến bộ của nhân loại.
Tất nhiên, ngày nay không còn ai nhắc lại luận điệu đó. Nhưng vấn đề không
khác về bản chất, bởi thực chất là những đặc điểm nào sẽ xác định tiến bộ theo
nghĩa văn hoá. Chúng ta chỉ cần xem xét một thí dụ: rất nhiều trí thức đã tin rằng,
thực chất của tiến bộ văn hoá là sự thừa nhận một thái độ duy lý, về bản chất dựa
trên khoa học, trong tất cả những lĩnh vực của tồn tại người và do đó, niềm tin
tôn giáo phải bị phản đối hay quy về một yếu tố cảm xúc tối thiểu trong đời sống
riêng của mỗi người. Trái lại, một số khác thì cho rằng, chủ nghĩa duy lý và duy
khoa học thái quá đã dẫn đến cuộc khủng hoảng giá trị trong thời đại chúng ta và
do đó, coi sự tiến bộ văn hoá là sự phục hồi phương diện tôn giáo trong đời sống
con người. Phương diện nào trong hai cách tiếp cận đối lập này sẽ nằm trong
chương trình “phát triển văn hoá”?
Bên cạnh khó khăn khi xác định những đặc điểm của cái sẽ được phát triển trong
sự phát triển văn hoá, chúng ta còn gặp phải một khó khăn lớn hơn trong việc tìm
ra tiêu chuẩn về mặt định lượng để đánh giá tiến bộ ấy. Nguyên nhân là những
giá trị văn hoá tiêu biểu nhất và sâu sắc nhất về bản chất đều là định tính: làm thế
nào chúng ta có thể “đo” được sự sáng tạo khoa học, sự liêm khiết đạo đức, cảm
quan về cái đẹp, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm công dân, v.v Điều mà ta có thể
tưởng tượng chỉ là một dạng khuyến khích những giá trị ấy thông qua hành vi
giáo dục và việc tạo nên những cơ hội để phát triển chúng. Nhưng điều này thì
hoàn toàn khác với cách hiểu thông thường về những tiêu chuẩn định lượng.
Những khó khăn này có thể là lý do giải thích tại sao phát triển văn hoá đôi khi

được hiểu theo một nghĩa ít nghiêm ngặt hơn, tức không phải theo nghĩa trong đó
văn hoá (với tính cách một phạm trù phổ quát tương tự như khoa học, kinh tế,
dân chủ, v.v.) là cái phải được phát triển, mà theo nghĩa là sự phát triển phải “có
tính nhạy cảm văn hoá” hay, nếu ta muốn nói dễ hiểu hơn, phải thích hợp, hoà
hợp với những nền văn hoá khác (nơi mà “văn hoá” được hiểu theo nghĩa cơ bản
thứ hai của nó, tức theo nghĩa xã hội học). Với cách nhìn mới này, tư tưởng về
phát triển văn hoá trở thành cái gì đó giống như một quy tắc phương pháp luận
chung: bất kể quan niệm phát triển là gì (nghĩa là không phụ thuộc vào việc ta
định phát triển “cái gì”), nếu muốn thành công, chúng ta phải chú ý đến những
bối cảnh văn hoá khác nhau trong đó ta hoạt động.
Cách hiểu này phản ánh một cách rõ ràng sự tiến bộ trong khái niệm về phát
triển, mà vốn trước kia còn có những khiếm khuyết, thậm chí được đồng nhất với
phát triển kinh tế, bởi nó nhấn mạnh đến bản chất “toàn cầu” của phát triển theo
đúng nghĩa của từ. Tuy nhiên, nó vẫn chưa đầy đủ để là một giải pháp cho vấn
đề, ít nhất trong cái vai trò mà văn hoá được trông đợi. Trên thực tế, sự ám chỉ
“về mặt phương pháp luận” này đối với văn hoá, như chúng ta đã lưu ý trên đây,
hoàn toàn trùng với khái niệm phát triển mà theo đó, cái được phát triển là những
đặc điểm kinh tế, trong khi sự chú ý đến những đặc điểm văn hoá chỉ mang tính
phương tiện đối với những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế. Theo nghĩa
này, văn hoá chỉ đóng vai trò phụ thuộc, những giá trị đặc trưng cho phát triển
vẫn là những giá trị kinh tế. Trong khi đó, văn hoá không được mong đợi là sẽ
thực sự đem lại những giá trị gia nhập vào đặc trưng của phát triển, nó chỉ nói lên
những điều kiện thực tế mà ta phải tính đến khi xác định kế hoạch phát triển
(kinh tế).
Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể nghi ngờ rằng, ngay cả sự quan tâm có giới
hạn đối với những điều kiện văn hoá ấy có thể có tác dụng thực sự hay không.r
NGƯỜI DỊCH: ThS. Khuất Duy Dũng (Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội
Việt Nam)

(*) Nguyên Chủ tịch Liên đoàn các hội triết học quốc tế (FISP).A



×