Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Đề tài: " VĂN HOÁ VÀ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN PHỔ BIẾN " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.06 KB, 21 trang )

Nghiên cứu triết học
Đề tài: " VĂN HỐ VÀ MƠ HÌNH
PHÁT TRIỂN PHỔ BIẾN "


VĂN HỐ VÀ MƠ HÌNH PHÁT TRIỂN PHỔ BIẾN

MIHAILO MARKOVIC
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích, luận chứng để làm rõ vai trị và vị trí
của văn hố trong mơ hình phát triển phổ biến hiện nay; khẳng định mơ hình
phát triển hiện nay được định hình, được quy định bởi các nhân tố văn hoá.
Tiến sâu hơn một bước nữa, tác giả đã lý giải những khuynh hướng văn hố
địi hỏi sự thay đổi mang tính sáng tạo đối với mơ hình phát triển hiện tồn và
tin rằng, chừng nào mà văn hố đích thực cịn tồn tại thì nó vẫn là nơi chứa
đựng những giá trị người và đó là cơ sở cho một sức sống mới.
1. Vai trị của văn hố trong mơ hình phát triển phổ biến hiện nay
Phát triển là một quá trình lịch sử khách quan, có những đặc điểm khơng lệ
thuộc vào kiến giải và sở thích cá nhân. Mặt khác, khơng nghi ngờ gì nữa, sự
phát triển được trung gian hố và định hình bởi văn hố.
Trong số những đặc điểm khách quan của mơ hình phát triển hiện nay, chúng
ta có thể kể đến:
1/ Sự phát triển theo cấp số nhân những thơng tin chính xác về thế giới, những
tri thức khoa học cho phép ta dự đoán các hiện tượng hiện thực và tác động của
chúng.
2/ Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến, như một hệ quả, sự tăng
trưởng nhanh chóng của sản lượng hàng hoá vật chất và các dịch vụ.
3/ Sự gia tăng liên tục của tiêu chuẩn hạnh phúc vật chất, của những khả năng
con người và mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản.
Bất kể chúng ta chào đón hay phản đối sự tăng trưởng tri thức khoa học như
thế nào, hiện tượng đó vẫn tồn tại. Bất kể chúng ta có thích hay khơng thích cái



sự thật rằng, lực lượng sản xuất đang tăng lên của con người được sử dụng chủ
yếu để tăng sản lượng vật chất chứ khơng vì mục tiêu có thể quan niệm nào
khác, thì điều đó vẫn là sự thật. Chúng ta có thể phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa
vật chất thái quá của thời đại này cũng như phê phán sự thỏa mãn một chiều
những nhu cầu con người, song ta không thể chối bỏ sự thực khách quan rằng,
trong thế giới ngày nay, sự nghèo đói vật chất đang giảm đi, ít nhất theo chuẩn
mực thơng thường; rằng, khả năng của con người ngày càng rộng mở và ít nhất
thì những nhu cầu cơ bản của con người đang được đáp ứng tốt hơn.
Mặc dù mơ hình phát triển hiện nay có những đặc trưng khách quan khơng phụ
thuộc vào phản ứng tích cực hay tiêu cực của chúng ta, song tồn bộ mơ hình
này vẫn bị quy định bởi một số nhân tố văn hoá.
Một trong những nhân tố đó là tư tưởng về tiến bộ của thế kỷ XVII. Ban đầu,
nó xuất hiện dưới hình thức phản kháng quyền uy của văn hoá cổ đại. Trong
khi một số trí thức nửa sau thế kỷ XVII vẫn tin rằng, nhiệm vụ đầu tiên của họ
là bảo vệ những quan điểm và giá trị cổ đại thì một khuynh hướng “hiện đại”
mới đã xuất hiện. Theo những nhà “hiện đại” này, cần phải tìm kiếm những
điều khơn ngoan trong nền văn hoá của thời đại mà họ đang sống, chứ khơng
phải trong nền văn hố cổ đại. Những người cổ đại chỉ là những nhà nhân đạo
trẻ. Những người thuộc thế hệ sau đứng trên vai họ và có thể nhìn xa hơn; do
đó, có cơ hội tốt hơn để trở nên khôn ngoan và uyên bác. Bernard de
Fontenelle đã chứng minh quan điểm này một cách đặc biệt thuyết phục trong
tác phẩm Thiên sai về các nhà cổ đại và các nhà hiện đại(1). Trong khoa học,
tư tưởng về tiến bộ đã được hình thành sớm hơn nhờ Pátxcan, người từng nêu
lên sự tương đồng giữa tiến bộ trong đời sống cá nhân và tiến bộ của nhân loại.
Nghiên cứu của ông dựa trên những trải nghiệm mới gây thách thức với
nguyên lý siêu hình học truyền thống, dựa trên sự đả kích thói trống rỗng, đã bị
phê phán gay gắt với lý do nó bác bỏ những quyền uy được truyền thừa. Với
niềm tin vững chắc rằng, vật lý học phải dựa trên những kết quả mang tính



thực nghiệm chứ không phải quyền uy, Pátxcan đã viết: “Những thực nghiệm
đem lại cho chúng ta sự hiểu biết về giới tự nhiên đang tăng lên khơng ngừng,
nhờ đó, ngày qua ngày, không những từng người tiến lên trong khoa học mà
toàn bộ nhân loại cũng đang cùng nhau làm nên sự tiến bộ cùng với sự trưởng
thành của vũ trụ”(2).
Trong suốt thế kỷ XVIII, tư tưởng khoa học về tiến bộ đó đã được phổ biến và
áp dụng vào tất cả các lĩnh vực. Điđơrô, Đalămbe và các nhà khai sáng khác là
những người truyền bá cho tư tưởng theo đó, một khi những định kiến tơn giáo
được dỡ bỏ, những phương pháp duy lý được áp dụng vào chính trị học, luân
lý học, tổ chức xã hội và quản lý con người thì tiến bộ chung khơng giới hạn sẽ
xuất hiện. Thí dụ tiêu biểu cho niềm tin kiểu này là tác phẩm của Côngđơxét:
Phác thảo lịch sử tiến bộ của tinh thần con người(3).
Trong triết học Hêghen, tư tưởng về tiến bộ đã được đặt trên một cơ sở bản thể
luận. Trong tác phẩm Hiện tượng học tinh thần(4), ơng đã trình bày một cách
chi tiết sự phát triển của tinh thần con người, khởi đầu bằng kinh nghiệm giác
quan thuần tuý trực tiếp và kết thúc bằng tri thức tuyệt đối. Sau đó, trong Khoa
học lơgíc, ơng vượt ra khỏi lịch sử con người và hình dung thế giới như hiện
thân của một Tinh thần tuyệt đối – cái phát triển từ phạm trù trừu tượng nhất
về tồn tại đến phạm trù toàn diện nhất, đầy đủ nhất, cụ thể nhất về Ý niệm
tuyệt đối.
Với hàng loạt các cuộc cách mạng công nghệ trong thế kỷ XIX và XX, ý nghĩa
của tiến bộ đã chuyển sang những khía cạnh mang tính vật chất và định lượng:
sự gia tăng khả năng làm chủ tự nhiên, sự dư thừa của cải vật chất, sự tăng lên
của năng suất, của tiêu dùng và tiện nghi vật chất. Đó chính là những khía cạnh
mà ngày nay tư tưởng về sự phát triển thường được quy chiếu. Trong đời sống
kinh tế và chính trị, sự phát triển đồng nghĩa với khai thác thô bạo tài nguyên
thiên nhiên, đầu tư vào những ngành kinh doanh sinh lợi, sản xuất tăng trưởng



đều đặn, ngày càng nhiều các thị trường và các hình thức tiêu thụ.
Một nguồn gốc văn hố khác của mơ hình phát triển phổ biến hiện nay là triết
học tự do cổ điển. Theo các triết gia tự do vĩ đại, con người, về bản chất, là
những cá nhân hung hăng, hám lợi, ích kỷ và ln có tính chiếm hữu. Hốpxơ
cho rằng, trong trạng thái tự nhiên, mỗi cá nhân có một thứ quyền khơng giới
hạn “để bảo vệ sự sống và những thành viên của mình”, “được sử dụng mọi
phương tiện, được làm mọi việc mà nếu khơng có chúng, anh ta khơng thể tự
vệ”. Hơn nữa, anh ta có quyền với mọi thứ “để làm điều anh ta mà có thể,
chống lại kẻ mà anh ta cho là phải chống, sở hữu, sử dụng và hưởng thụ tất cả
những gì anh ta sẽ có hay có thể có được”. Nếu con người khơng có một động
lực tự nhiên nhằm trốn tránh cái chết thì sẽ khơng có xã hội; cuộc sống của con
người sẽ trở nên “nghèo nàn, bẩn thỉu, cô độc, hung bạo và ngắn ngủi”.
Chính vì nỗi sợ cái chết và nhu cầu an tồn mà các cá nhân phải có những thỏa
thuận chính trị và tạo lập nên nhà nước, trong đó mỗi người phải “có được rất
nhiều tự do để chống lại những người khác cũng như anh ta chấp nhận để
người khác chống lại mình”(5).
Bức tranh của Lốccơ về bản tính con người không quá ảm đạm như bức tranh
của Hốpxơ. Con người có lý trí và bị ràng buộc bởi Chúa cũng như luật của tự
nhiên. Tuy vậy, trong trạng thái tự nhiên, các cá nhân “tổ chức các hành động
của mình và giũ bỏ những thứ sở hữu cùng những người nào mà họ muốn”(6).
Con người có ý thích và thiên hướng vi phạm quyền của người khác. Phương
thuốc duy nhất là tạo nên một khế ước xã hội và thiết lập một xã hội chính trị.
Tuy nhiên, con người thường ham hố quyền lực và sự giàu có, cho nên những
nguy cơ của sự chuyên chế, của sự tích luỹ của cải q mức ln hiện hữu và
phải được được kiềm chế một cách thường xuyên bởi xã hội dân sự.
Quả thực, những quan điểm tự do mới này đã tạo lập cơ sở tư tưởng cho mơ
hình phát triển phổ biến hiện nay. Tự do đầy đủ cho các cá nhân phải được


kiểm sốt trong xã hội có tổ chức, với sự tơn trọng tự do của người khác nhưng

chưa có được sự tôn trọng tự nhiên. Những chủ sở hữu tư nhân có thể rời bỏ
phần sở hữu nào mà họ muốn. Lốccơ đã cố ấn định một vài giới hạn về lượng
của cải hợp pháp. Con người chỉ có quyền có một lượng đất đai và tài sản mà
bản thân anh ta có thể sử dụng và tiêu dùng. Người này không được tước đoạt
phương tiện sống của người khác bởi những yêu cầu quá đáng về tài sản. Tuy
nhiên, những giới hạn mà ông xem là luật của tự nhiên chỉ có ý nghĩa trong xã
hội nơng nghiệp giản đơn. Lốccơ phải thừa nhận rằng, thiết chế tiền tệ đã thực
sự làm cho việc tích luỹ tài sản lớn hơn so với nhu cầu và tiêu dùng trở nên có
thể và tất yếu. Ơng đã buộc mình phải tin rằng, trong trường hợp đó, luật tự
nhiên khơng bị vi phạm, mặc dù sự giàu có thái quá trong tay một số người rõ
ràng đồng nghĩa với sự tước đoạt phương tiện tự vệ, sự nghèo đói của những
người khác. Dẫu sao thì vấn đề là ở chỗ, sự thừa nhận tính hám lợi như một
đặc điểm trong bản tính con người, sự thừa nhận tự do không giới hạn dành
cho bản tính cướp đoạt mà khơng có bất cứ trách nhiệm xã hội nào trong việc
bảo vệ môi trường tự nhiên, sự thừa nhận quyền ưu tiên của cá nhân so với các
quan tâm xã hội đã sản sinh ra một mơ hình phát triển đặc trưng hiện đang
được thừa nhận trên toàn thế giới.
Nguồn gốc tư tưởng thứ ba của mơ hình đó là chủ nghĩa vị lợi. Bên cạnh
những ảnh hưởng của nó trong chính trị, nơi nó góp phần vào dân chủ hóa hệ
thống nghị viện và hình thành luật phúc lợi, tư tưởng này có một tác động quan
trọng đối với tâm thế chung và phong cách sống của thường dân. M.Weber đã
từng nhấn mạnh đến vai trò của đạo đức Tin lành trong sự phát triển của xã hội
tư bản. Quả thực, tính chăm chỉ, tiết kiệm, khổ hạnh đã được thúc đẩy bởi
những nguyên tắc đạo đức đặc trưng của đạo Tin lành, đã có vai trị đặc biệt
quan trọng trong điều kiện sản xuất cịn hạn chế và trong thời kỳ tích luỹ tư
bản nguyên thuỷ. Sự phát triển hơn nữa của cơng nghiệp địi hỏi một văn hố
chính trị có thể lý giải sự phát triển của thị thường và tiêu thụ. Chủ nghĩa vị lợi


đã đáp ứng được yêu cầu này. Nó biện hộ rằng, những hành vi của chúng ta là

tốt trong chừng mực chúng làm gia tăng lợi ích; cịn lợi ích thì được định nghĩa
là sự hài lịng cao nhất dành cho nhiều người nhất(7). Ở đây, chúng ta thấy một
cách tiếp cận định lượng thuần tuý – cái có vai trị then chốt trong mơ hình
phát triển phổ biến hiện nay. Theo cách nói của Bentham, những niềm vui
khác nhau được đặt ngang hàng về mặt số lượng: những điều tầm thường được
sánh với một bài thơ. Mặt khác, người ta cũng giả định những chủ thể của
niềm vui là ngang hàng; niềm vui của người này cũng tốt và quan trọng như
niềm vui của người kia.
Chủ nghĩa vị lợi này khơng cịn tồn tại với tính cách một trường phái chính trị,
song nó vẫn hiện hữu khắp nơi trong bầu khơng khí của xã hội tiêu dùng
đương đại. Động lực to lớn của mơ hình phát triển hiện nay chính là một sự
phấn đấu chung hướng đến niềm vui và tiện nghi vật chất. Chúng ta có thể diễn
đạt thứ triết học làm nền tảng cho mơ hình ấy dưới dạng một khẩu hiệu:
“Nhiều niềm vui nhất cho nhiều người nhất”.
2. Vị trí của văn hố trong mơ hình phát triển hiện nay
Do những tư tưởng phổ biến về phát triển gắn chặt với đổi mới công nghệ và
sự gia tăng lực lượng sản xuất cho nên khơng có gì đáng ngạc nhiên khi những
yếu tố mang tính nhận thức của văn hoá lại được nhấn mạnh đến như vậy.
Auguste Comte, cha đẻ của triết học thực chứng, đã diễn đạt một cách xuất sắc
tinh thần hiện đại trong công thức nổi tiếng “Savoir pour prévoir, prévoir pour
pouvoir” (“Biết để dự báo, dự báo để có sức mạnh”). Nếu con người muốn gia
tăng sức mạnh của mình, đặc biệt là trước tự nhiên, họ cần có tri thức. Khơng
giống những dạng thức văn hoá khác - những thứ biểu đạt tình cảm của chúng
ta, ít hay nhiều nói lên ứng xử tưởng tượng của chúng ta với các khả năng tồn
tại của con người, làm nổi bật những giá trị của chúng ta - tri thức đem lại một
bức tranh hiện thực, đáng tin cậy về thế giới. Bức tranh này khơng đơn thuần
miêu tả mà có tính cấu trúc. Nó khơng chỉ cho ta biết cái đang là, mà còn cho


ta biết cái có thể là. Đặc trưng của tư tưởng phát triển hiện đại là ở chỗ, nó

khơng tự phát, ngẫu nhiên hay bừa bãi mà, ở một mức độ lớn, đã được suy
nghĩ thấu đáo và có kế hoạch từ trước. Do đó, trước khi đưa ra một dự án mới,
người ta phải có tri thức về những biến đổi có thể xảy ra. Tính mới phải là một
khả năng mở và hiện thực: con người hiện đại khơng phung phí thời gian và
tiền bạc cho những giấc mơ vô căn cứ.
Nghiên cứu khoa học là nhân tố quan trọng nhất trong sự phát triển hiện đại.
Do đó, nó thu hút sự trợ giúp rất lớn về vật chất trong tất cả các xã hội phát
triển. Điều này đặc biệt đúng với những ngành khoa học mà sản phẩm của
chúng được sử dụng trực tiếp cho tiến bộ cơng nghệ.
Trước sự cơng cụ hố khoa học của những người có quyền lực ủng hộ cho tư
tưởng phát triển mang tính vật chất và định lượng, các học giả có thái độ khác
nhau. Một số người nhận lấy vai trò kẻ biện hộ: họ sẵn sàng chứng minh về
mặt tư tưởng cho cái cách sử dụng tri thức khoa học theo kiểu một chiều và
thiếu trách nhiệm xã hội.
Trong khi đó, phần lớn các nhà khoa học chấp nhận quan điểm trung lập. Họ
không muốn biện minh cho bất cứ cách sử dụng thực tiễn có thể có nào đối với
tri thức. Họ khẳng định, công việc của họ chỉ là sản xuất ra tri thức chứ không
quan tâm đến vấn đề chúng được sử dụng đúng hay sai. Đây chẳng qua là sự
hợp lý hoá cho một thái độ, về bản chất, là cơ hội chủ nghĩa. Trong chừng
mực mà người ta có tự do để lựa chọn chun mơn thì mỗi người phải chịu
trách nhiệm về việc sử dụng có thể có nào đó đối với kết quả cơng việc của
người khác.
Điều may mắn là, ít nhất cũng có một vài học giả thừa nhận trách nhiệm đó và
những người, đứng trên nguyên tắc đạo đức cơ bản, phê phán bất cứ sự lạm
dụng thực tế nào đối với khoa học, kể cả khi nó nhân danh phát triển. Đó là
những người đầu tiên chỉ ra rằng, cách sử dụng vô lý và vô trách nhiệm đối với


khoa học nhằm đặt được tăng trưởng nhanh có thể để lại những hậu quả
nghiêm trọng: ơ nhiễm khơng khí, ơ nhiễm đất, nước và đất bị xói mịn, sự cạn

kiệt nhanh chóng các tài nguyên thiên nhiên; sản xuất thừa, sự huỷ hoại nông
nghiệp; sự tập trung số lượng lớn dân thất nghiệp từ nông thôn ở các thành
phố; tệ nghiện rượu, lạm dụng ma tuý và bạo lực tội phạm gia tăng, v.v..
Vấn đề đối với sự phê phán xã hội trong văn hố hiện đại là nó thiếu cơ sở
khách quan. Kể từ khi quan điểm của Galilê được thừa nhận – theo đó, chỉ có
những sự thực được chứng minh bằng quan sát và thực nghiệm, những lý
thuyết được phát triển bằng phương tiện phân tích lơgíc và tốn học, được
kiểm nghiệm bằng những chứng cứ thực tế mới là khách quan – thì tất cả các
phán đốn đều được giả định là có tính chủ quan và tương đối. Bởi, suy đến
cùng, mọi phê phán đều được đặt trên những phán đốn có giá trị nào đó, cho
nên trong phê phán ấy, khơng có sự thật nào được chứng thực cả. Nó chỉ là
một cách biểu đạt những khát vọng và sở thích.
Dẫu sao, cách tiếp cận trên đây vẫn đạt được điều gì đó có ý nghĩa. Giờ đây,
tơn giáo, một trong những trụ cột của văn hoá và nhà nước, đã được chuyển
cho lĩnh vực tư nhân. Người ta đã có thể tách nhà nước khỏi nhà thờ, tách cái
trần tục khỏi cái thiêng. Đây thực sự là một thành tựu đáng chú ý. Tôn giáo,
với sự khinh miệt đời sống xác thịt và trần thế, quả đã có tác dụng kìm giữ
người nghèo, người bị thua thiệt, bị xã hội ruồng bỏ trong sợ hãi và hy vọng
hão huyền. Nhưng nó lại gây trở ngại (nếu được áp dụng một cách nghiêm túc)
đối với cuộc đua tranh phát triển hướng đến triển vọng hạnh phúc vật chất và
thú vui xác thịt bất tận. Nhà thờ đã phải tự thích nghi bằng cách, một mặt, thừa
nhận những lợi ích của sự phát triển và hiện đại, mặt khác, ban ra nỗi an ủi và
lòng trắc ẩn dành cho những người kém cỏi, những người bị bỏ rơi và những
nạn nhân của cuộc đua hướng đến giàu sang.
Tuy nhiên, sự chia cắt sâu sắc giữa vương quốc thực tế và vương quốc giá trị
đã gây nên những mất mát nghiêm trọng. Cái hiện đại và tư tưởng cơ bản về


phát triển của nó đã rũ bỏ bất cứ thử thách chính đáng, có cơ sở trí tuệ đúng
đắn nào. Sự phát triển phải được hiểu như một phương diện của lịch sử khách

quan. Ngay cả trong quan niệm hợp lý hoá kém thuyết phục nhất của chủ nghĩa
thực chứng, phát triển vẫn là một quá trình thực tế mà ta có thể miêu tả, phân
tích, giải thích và lên kế hoạch nhưng khơng đánh giá được. Theo cách nói của
Hium, tranh luận về mặt tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực, đúng hay sai trong
sự phát triển thì cũng vô nghĩa như tranh cãi xem hương vị vani hay hương vị
sơcơla của kem thơm hơn. Những phán đốn loại này chỉ là bột phát của cảm
xúc, của sự chấp thuận hay khơng chấp thuận, thích hay khơng thích.
Nếu một yếu tố đánh giá nào đó bị đưa một cách bất hợp pháp vào quan niệm
phát triển, như trong giả định rằng phát triển là trạng thái bình thường của lịch
sử hiện đại, hay phát triển xã hội chỉ là hiện thân của sự tiến triển của tinh thần
hướng đến những cấp độ cao hơn, phong phú hơn, cụ thể hơn của nó (trong
triết học Hêghen), thì cơng việc của khoa học hoá ra chỉ là đưa ra một cách tự
do khái niệm về sự phát triển của những yếu tố quy chuẩn như vậy, chứ không
phải là thay thế khái niệm này bằng khái niệm kia.
Trong khi bác bỏ mọi sự phê phán đối với kiểu phát triển hiện đại do tính chủ
quan và thiếu cơ sở đúng đắn của nó, các nhà tư tưởng phát triển đã ngầm
chuyển nó thành một khái niệm quy chuẩn. Phát triển trở thành đặc điểm cấu
trúc quan trọng nhất của cái hiện đại. Và, tất nhiên, xét về trực quan, cái hiện
đại được ưa thích hơn thời Trung cổ, xã hội nô lệ hay xã hội dã man.
Những triệu chứng đầu tiên báo hiệu sai sót nghiêm trọng của sự phát triển
hiện đại xuất hiện trong lĩnh vực nghệ thuật.
Thương mại hoá đã gây nhiều tổn thất cho nghệ thuật. Những món tiền lớn
đóng vai trị như sự tàn phá sáng tạo nghệ thuật. Quả thực, tiền đã tạo nên
những thiết chế nghệ thuật vĩ đại: những triển lãm và bảo tàng bất hủ, những
nhà hát opera tráng lệ, những dàn nhạc giao hưởng và nhà hát đầy say mê.


Nhưng, mặt khác, rất nhiều sản phẩm nghệ thuật đã phải đáp ứng thị hiếu tầm
thường của những khách hàng và những nhà bảo trợ tiềm năng. Các phòng
tranh chứa đầy phong cách tự nhiên chủ nghĩa và hiện thực truyền thống; hầu

hết các nhà hát đều công diễn những vở nhạc kịch và hài kịch hời hợt; các tác
phẩm văn chương được ưa chuộng thường là những tiểu thuyết khơng có giá
trị lâu dài; phim ảnh thì chỉ là những bộ phận cá biệt của nghệ thuật, trong hầu
hết các trường hợp, người ta đã kiếm tiền dựa trên những câu chuyện rùng rợn,
những phim truyền hình nhạt nhẽo, những bộ phim tội phạm và khiêu dâm.
Nghệ thuật đã trở thành một ngành công nghiệp mà sản phẩm của nó bị quy
định bởi nhu cầu thị trường. Để đáp ứng nhu cầu đó, những người làm việc
trong thị trường nghệ thuật luôn phải đuổi theo những phong cách hàng hố
mới nhằm mục đích thương mại. Hiện tượng mốt đã chuyển từ thị trường quần
áo, đồ nội thất và ăn uống sang thị trường nghệ thuật. Tính mới khơng cịn
thuộc phạm vi sáng tạo cá nhân và khơng cịn độc đáo nữa, mà là những bước
nhảy từ phong cách này sang phong cách khác của tập thể, được dự tính và có
kế hoạch từ trước. Đó là những bước nhảy mà người nghệ sĩ phải thừa nhận
nếu họ muốn tồn tại trên thị trường.
Hiện tượng nhiều tác phẩm nghệ thuật trở thành sự giải trí đơn thuần chính là
hậu quả của lối sống gắn với mơ hình phát triển định lượng hiện đại. Sự phát
triển nhanh theo cấp số nhân của vật chất đã đặt ra những yêu cầu rất cao về
thời gian và sinh lực cho mọi cá nhân. Điều đáng lưu ý là, trong suốt nửa sau
thế kỷ XIX cho đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, thời gian lao động bắt
buộc đã liên tục giảm đi, từ hơn 80h xuống 40h mỗi tuần. Trong 70 năm qua,
hầu như khơng có thay đổi nào. Nhưng có những nhóm chuyên gia mà thời
gian làm việc của họ lại cao hơn một cách đáng kể (như các luật sư chẳng hạn).
Rõ ràng là thời hiện đại đã sinh ra sự sùng bái cơng việc (chúng ta có thể thấy
dự báo về hiện tượng này trong phần hai cuốn Phauxtơ của Goethe). Mục đích
của tồn bộ nền giáo dục hiện đại là buộc người ta phải tuân thủ vai trò trong


sự phân công lao động. Tuy nhiên, mối quan tâm nghiêm túc đối với nghệ
thuật đích thực địi hỏi một sự nhàn hạ đáng kể. Nếu khơng có được điều này,
nghệ thuật có xu hướng bị sự giải trí thay thế.

Những điều trên đây mới là một nửa câu chuyện về số phận của nghệ thuật
trong kỷ nguyên phát triển hiện đại. Phần còn lại liên quan đến các nghệ sĩ
chân chính, những người thuộc về nhóm nhạy cảm nhất trên trái đất. Vấn đề là,
tại sao trong nghệ thuật đích thực hiện đại lại chứa đựng nhiều thất vọng, chủ
nghĩa bi quan ảm đạm, cảm giác hoàn toàn xa lạ, sự tự huỷ hoại có chủ ý đến
như vậy? Nghệ thuật luôn phải tiến bước trước thời đại của nó. Tính sáng tạo
độc đáo trong phong cách và nội dung của nó sẽ ln gây sốc đối với cơng
chúng tầm trung. Nó sẽ ln bị các nhà truyền thống cơng kích. Đóng vai trị
tiên phong chính là bản tính của hầu hết các nghệ sĩ chân chính.
Dẫu sao, một số thay đổi sâu sắc đã diễn ra. Trong quá khứ, dù vẫn rất tôn
trọng những người tiêu dùng nghệ thuật tầm trung, nhưng chỉ có những nghệ sĩ
và trí thức hàng đầu trong lĩnh vực này mới có thể hiểu và ủng hộ các nghệ sĩ
chân chính trong một lĩnh vực kia. Điều này hiện khơng cịn tồn tại. Một nhạc
sĩ độc đáo không thể nắm bắt được ý nghĩa trong tác phẩm của một hoạ sĩ độc
đáo và ngược lại. Phải chăng tất cả họ đang lao đi quá nhanh và đánh mất
những cầu nối tương thông với ngay cả những người tiêu dùng hiểu biết và
thành thạo? Phải chăng họ – do đang sống trong thời đại công nghệ, bị ám ảnh
quá mức bởi những đổi mới kỹ thuật - đang đưa ra những thử nghiệm tưởng
tượng thú vị với rất ít hoặc khơng hề có nội dung? Phải chăng những biểu hiện
xa rời con người và toàn thể xã hội của người nghệ sĩ thâm thuý đang đánh lừa,
bịp bợm, gây ghê tởm và chọc giận công chúng? Hãy nhớ khẩu hiệu của các
nhà siêu thực: “cứ loè bọn tư sản”. Trong những năm 20 và 30 của thế kỷ XX,
đó là khẩu hiệu trực tiếp chống lại giai cấp đang thống trị xã hội. Nhưng ngày
nay, nó có thể được gán cho tồn thể xã hội. Điều ảm đạm hơn là xu hướng tự
huỷ hoại bệnh hoạn đã dẫn đến sự tan rã của bất cứ mơn nghệ thuật nào đã có


trong quá khứ và sản sinh ra những hình thức có thể mang tính tự biểu hiện,
song lại hồn tồn không tương hợp với lý tưởng nghệ thuật. Trong những thập
niên gần đây, chúng ta còn thấy sự xuất hiện của một số khuynh hướng chống

nghệ thuật: chống nhà hát, chống âm nhạc, chống văn chương, chống điêu
khắc. Nếu có một ý nghĩa nào đó, có lẽ những trào lưu này nên được hiểu là sự
chống đối trong tuyệt vọng trước văn minh vật chất, một sự khước từ hoàn
toàn đối với các nghệ sĩ và ngay cả việc trang hoàng, làm đẹp cho hiện thực
cũng bị coi là xấu xa, vơ nhân tính.


VĂN HỐ VÀ MƠ HÌNH PHÁT TRIỂN PHỔ BIẾN (tiếp theo)
3. Những khuynh hướng văn hố địi hỏi sự thay đổi mang tính sáng
tạo đối với mơ hình phát triển hiện tồn
Ngay từ khi bắt đầu thời đại công nghiệp hố và đơ thị hố, các chun gia
văn hố đã biểu thị một cảm giác về nguy cơ. Ban đầu, ý thức phê phán đó,
nhằm vào sự phát triển kinh tế quá nhanh và sự huỷ hoại môi trường, được
thúc đẩy bởi mối quan tâm của giới quý tộc phong kiến và các tầng lớp
trung gian. Chẳng hạn, Mantuýt đã cho rằng, cứ sau mỗi 25 năm, sự phát
triển kinh tế hiện tồn chắc chắn sẽ làm tăng gấp đôi dân số. Do sản lượng
lương thực sẽ tăng chậm hơn nhiều, cho nên một thảm hoạ là điều không
thể tránh khỏi(8).
Sự phê phán của những trí thức hàng đầu thời Victoria hồi nửa sau thế kỷ
XIX mang một đặc điểm hồn tồn khác. Cơng nghiệp đã phá huỷ những
vẻ đẹp tự nhiên, đã tạo nên những thành phố xấu xí, u ám, buồn tẻ và vô số
người lao động khốn khổ; những khu ngoại ô quanh các nhà máy và hầm
mỏ. Nó đã tạo nên, ở khắp mọi nơi, sự xoàng xĩnh, nhạt nhẽo, quá tải dân
số. Tồi tệ hơn, nó sản sinh ra một lượng đồ sộ cơng nhân thất học, nổi loạn,
những kẻ khác về mọi mặt so với những tầng lớp nghèo trong quá khứ –
những người cơng khai bày tỏ khát khao quyền lực chính trị và đã đem đến
khơng chỉ lịng trắc ẩn mà cả nỗi sợ hãi khơn tả. Những lực lượng chính trị
bảo thủ đã yêu cầu cải cách: Disraeli đã đòi hỏi phải có những ngơi nhà và
khu vườn tươm tất cho cơng nhân. Những người theo chủ nghĩa tự do thì
u cầu nhà nước không gây trở ngại. Triết gia Spencer phản đối đạo luật

kiểm soát tổ chức dịch vụ y tế cơng. Ơng viết: “Khổ đau và tội ác là những
điều tự nhiên. Những nỗ lực giũ bỏ chúng chỉ đem đến nhiều điều tồi tệ
hơn là những điều tốt”. Năm 1884, William Morris đã đề xuất chấm dứt


cơng nghiệp hố kiểu Anh, trả cơng nhân về với những ngành thương mại
truyền thống, về với đất đai và biến nước Anh thành một khu vườn xanh
tươi vĩ đại. Điều đáng ngạc nhiên là phản ứng lãng mạn này đã có tác động
hiệu quả hơn so với điều mà người ta mong đợi xét từ quan điểm hiện đại.
Các thi sĩ và nghệ sĩ đã tạo nên một phong trào bảo vệ những công viên,
khu vườn, vành đai xanh và do đó, đã cứu được nhiều thành phố nước
Anh(9).
Những kháng cự ban đầu này, rốt cuộc, đã bị ngăn lại do những thành tựu
lớn của tiến bộ công nghiệp trong thế kỷ XX và do sự gia tăng chung của
tiêu chuẩn sống. Tuy nhiên, vào thời điểm gần cuối giai đoạn thịnh vượng
hiển nhiên ấy – giai đoạn đã làm cho sự giàu có của thế giới phát triển tăng
nhanh chóng, tức là giữa những năm 60 của thế kỷ XX - những dấu hiệu
đầu tiên cho thấy giai đoạn suy thối tồn diện trong hệ sinh thái trái đất đã
xuất hiện.
Ơ nhiễm khơng khí, nước và đất đã đạt đến mức báo động. Dường như thế
giới đã tiến gần đến sự cạn kiệt những tài nguyên thô cho công nghiệp, đặc
biệt là năng lượng. Lần đầu tiên trong thời hiện đại, con người đã thấy
rằng, môi trường tự nhiên khả dụng hiệu quả của mình là có giới hạn; rằng,
những tài nguyên thiết yếu đều có hạn và một số trong những tài nguyên ấy
(nhất là dầu lửa) đã nhanh chóng cạn kiệt. Lần đầu tiên trong thời hiện đại,
văn minh nhân loại gặp phải nan đề: hoặc là phát triển có giới hạn, hoặc sẽ
gặp phải sự đổ vỡ tất yếu của xã hội hiện đại. Cảm nhận về một cuộc
khủng hoảng ghê gớm đang đến càng rõ ràng hơn qua sự tái xuất của vấn
đề Mantuýt: sự bùng nổ dân số sau thế chiến thứ hai, đặc biệt ở các nước
đang phát triển, đi kèm với sự tăng trưởng chậm chạp của sản lượng lương

thực. Điều đó phải được coi như một nguyên nhân khả dĩ khác của thảm
hoạ.
Vào tháng 4 năm 1968, Aurelio Peccei – Phó Chủ tịch tổ chức Flat - đã tổ


chức một hội nghị các học giả và các nhà quản lý tại Rome. Câu lạc bộ
Rome đã được thành lập nhằm mục đích nghiên cứu thực trạng của mơi
trường tự nhiên, dự báo trạng thái của nó nếu như sự phát triển kinh tế vẫn
tiếp tục với tỉ lệ hiện tại và đề xuất chiến lược hợp lý nhất để tránh được
khủng hoảng. Một loạt tác giả đã xuất bản sách dưới danh nghĩa câu lạc bộ:
Forrester (1971)(10), Meadows (1972 và 1973)(11), Mesarovic và Pestel
(1974)(12), Tinbergen (1976)(13), Herera và những người khác (1976)(14),
Laszlo (1977)(15), Gabor, Colombo, King và Galli (1978)(16).
Thông điệp quan trọng nhất trong những tác phẩm này là sự tăng trưởng
kinh tế theo cấp số mũ sẽ dẫn đến sự suy kiệt các nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Đến chừng mực mà nông nghiệp trở thành kẻ phụ thuộc các sản
phẩm cơng nghiệp thì sản lượng lương thực sẽ giảm đi, trong khi dân số
tiếp tục tăng. Bên cạnh đó, đến năm 2020, mức độ ơ nhiễm sẽ quá giới hạn.
Tác phẩm của Meadows đã đề nghị ngừng phát triển kinh tế trước năm
2000, sự kiện đó sẽ không loại bỏ sự phát triển tiếp tục của khoa học, nghệ
thuật, giáo dục, sự phân phối lại các nguồn lợi và sự gia tăng vững chắc
tiêu chuẩn sống về mặt chất lượng.
Những báo cáo sau đó của Câu lạc bộ Rome đã làm cho thông điệp ban đầu
này trở nên cụ thể và uyển chuyển hơn. Ở mỗi nơi trên thế giới lại diễn ra
một quá trình khác nhau. Những mơ hình quyết định luận được thay bằng
những mơ hình xác suất. Những giải pháp được đề xuất phải được tổ chức
lại thành trật tự quốc tế, để làm tăng mức độ thống nhất quốc tế trên cơ sở
những giá trị chung nhân loại, để thay đổi các thiết chế chính trị gây trở
ngại cho việc chuyển giao tư bản và công nghệ đến các nước đang phát
triển, để thay thế sự phí phạm vật chất và năng lượng hiện nay bằng những

chính sách bảo vệ nghiêm ngặt và, bằng mọi cách, đưa ra sự kiểm soát hợp
lý đối với các khuynh hướng phát triển dân số thế giới.
Nghiên cứu và tranh luận của Câu lạc bộ Rome chỉ là một trong những


khuynh hướng khoa học đang thách thức những tư tưởng đã bắt rễ sâu xa
và những biểu hiện thực tế của sự phát triển hiện đại. Nó đã trực tiếp trong khi rất nhiều khuynh hướng nghiên cứu và tư tưởng khác chỉ gián
tiếp - tấn công vào những nội dung cá biệt của mơ hình phát triển hiện đại.
Với tính cách cái đối chọn với tiến bộ mang tính vật chất và định lượng, tư
tưởng về tiến bộ chất lượng đã xuất hiện mà thực chất là sự gia tăng tự do,
tri thức, cơng bằng và hồ nhập. Tư tưởng nền tảng của nó là con người có
thể có cuộc sống tốt đẹp hơn, giàu có hơn, nhiều ý nghĩa hơn ngay cả khi
có ít hơn sản phẩm vật chất nhưng nhiều hơn về văn hoá, sự nhàn hạ, cơ
hội về giáo dục, sự tham gia tích cực hơn vào đời sống cộng đồng, những
quan hệ nhân tính lành mạnh, không bị huỷ hoại bởi sự chiếm hữu và cạnh
tranh quá đáng trên thị trường kinh tế và chính trị. Tất cả những ý tưởng
này được diễn đạt trong công thức đơn giản: “Tồn tại tốt hơn sở hữu”.
Công thức này khơng có nghĩa là những khía cạnh vật chất của cuộc sống
không quan trọng. Một mức độ thoả mãn những nhu cầu vật chất là điều
kiện cần thiết của bất cứ đời sống người thực sự nào. Do vậy, sự phê phán
đối với sản xuất và tiêu dùng lãng phí ở các nước phát triển khơng địi hỏi
giảm bớt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế ở những nơi cịn bị nghèo đói đe doạ.
Những nhu cầu cơ bản của mỗi cá nhân phải được đáp ứng trước khi người
ta xét đến khả năng có một trạng thái kinh tế ổn định trong tương lai. Ý
nghĩa thực sự của công thức trên là ở chỗ, sở hữu không được trở thành nỗi
ám ảnh, rằng cuộc sống trôi đi trong sự tích luỹ của cải vật chất và tiền bạc
là phí phạm, rằng một đời sống giàu có về văn hố và một tồn tại hạnh phúc
về cơ bản khơng lệ thuộc vào khối lượng tài sản. Chúng ta chỉ có thể giải
quyết thành cơng vấn đề sinh thái khi chúng ta học được cách tồn tại đích
thực với sở hữu có giới hạn.

Trong những năm 60 của thế kỷ XX, phương Tây đã hướng đến văn hố
phương Đơng nhiều hơn bất cứ khi nào trong quá khứ. Và một trong những


thơng điệp có ý nghĩa nhất của những nền văn hố ngồi châu Âu là học
cách sống sao cho cân bằng với tự nhiên, với sự nhạy cảm cao độ trước sự
cân bằng sinh thái tinh vi. Một khía cạnh khôn ngoan nữa của phương
Đông là cố gắng sống trong hồ bình với chính mình, khơng có những
tham vọng q đáng và những tư tưởng tự huỷ hoại từ bên trong. Rõ ràng
là, cả hai tư tưởng này đã phá huỷ tồn bộ thứ triết học của dịng suối hiện
đại hướng đến của cải.
Lựa chọn văn hố của phương Đơng đã gây một tác động đặc biệt đến giới
trẻ phương Tây, những người vốn bị nhiễu loạn sâu sắc bởi nhiều phương
diện trong đời sống chính trị và xã hội ở nước Mỹ và châu Âu những năm
60 của thế kỷ XX. “Cuộc chiến xấu xa” ở Việt Nam chính là đỉnh điểm của
những sự kiện ấy. Các chính phủ đã ủng hộ hay trốn tránh việc đưa ra phán
xét có tính phê phán. Những người trẻ tuổi khơng muốn chết trong những
khu rừng nhiệt đới hay ủng hộ việc làm đó chợt nhận ra những cơ cấu
quyền lực xa lạ ở khắp mọi nơi: trong nhà nước, trong trường học, trong
gia đình. Điều này trùng hợp với sự phát hiện vấn đề sinh thái. Trẻ em đã
từ chối nghe theo cha mẹ trong bất cứ cái gì mang ý nghĩa phát triển truyền
thống: làm việc chăm chỉ có kỷ luật, tạo dựng nghề nghiệp, nhìn nhận ý
nghĩa cuộc sống theo sự gia tăng khả năng tiêu dùng và tiện nghi. Điều
khơng may là người ta đã khơng tìm thấy một giải pháp sáng tạo. Đã xuất
hiện hiện tượng phản văn hố theo kiểu chủ nghĩa khối lạc, khơng làm
việc và trong chừng mực nhất định, là sự ăn bám. Đây là một điều đáng
tiếc bởi lựa chọn văn hoá phù hợp nhất đã bị kết tội và nhanh chóng tàn lụi.
Thất bại này đã củng cố những thế lực cố gắng duy trì mơ hình phát triển
hiện có. Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, người ta đã chứng kiến
sự chống đối mang tính thụt lùi đối với các phong trào hồ bình và sinh

thái, chống lại những người tả khuynh và nhân đạo chủ nghĩa.
Dẫu sao, một đối chọn với mơ hình phát triển phổ biến hiện tồn vẫn hiện


hữu trong lĩnh vực văn hố, nếu khơng nói là hiển hiện trong chính trị và
kinh tế.
Con người khơng thể mãi sống trong bóng tối và sự lập lờ giữa trạng thái
phi nhân tính gần như suốt tuần và trạng thái nhân tính vào cuối tuần. Nhu
cầu hoạt động sáng tạo của anh ta không thể được thoả mãn bằng kiếp nô lệ
cho một công việc ngày càng chuyên môn hố, có chương trình và kỷ luật.
Nhu cầu vui chơi của anh ta không thể được đáp ứng bằng sự tiếp nhận thụ
động những sản phẩm xoàng xĩnh của nền cơng nghiệp giải trí đại chúng.
Tất cả những nghiên cứu gần đây về bản tính con người, chẳng hạn như
cuộc nghiên cứu liên ngành trong ba năm của Đại học Pennsylvania
(Philadelphia, Hoa Kỳ), đã chứng minh được tính phiến diện của nhân học
tự do truyền thống có gốc rễ ngay trong sự tổ chức đời sống và công việc
hiện nay cũng như trong tư tưởng phát triển. Con người là cái gì đó lớn hơn
một tạo vật ích kỷ, hám lợi, hung hăng và chỉ tìm kiếm niềm vui. Bối cảnh
sống hiện đại đã không đem lại cho con người đủ cơ hội để anh ta đem đến
cho cuộc sống khả năng lý tính, sự tương thơng và sáng tạo. Quan điểm
cho rằng, những điều kiện tồn tại hiện nay của con người, bất chấp hoặc có
lẽ chính vì, những phát triển rực rỡ, đang có vấn đề nghiêm trọng chính là
lời chẩn đốn cho văn hố đương đại. Đây chính là tư tưởng của các triết
gia, những người đề nghị chúng ta phản đối cái hiện đại và “phá huỷ nó”;
những người (mà theo tơi là khơn ngoan hơn) kêu gọi chúng ta từ bỏ sự ám
ảnh của lý tính cơng cụ, phục hồi cái phronesis (sự khơn ngoan thực tế kiểu
Arixtốt) và cái theoria với tư cách sự thống nhất của tri thức và luân lý;
những nhà tư tưởng phát triển thứ đạo đức học về “phát triển bền vững”;
những nhà tâm lý học nhân văn đề xướng nghiên cứu sự phá hủy con
người; những nhà xã hội học muốn xem xét các dạng cô lập và các khả

năng hoà nhập; những tác giả muốn diễn đạt nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của họ
theo truyền thống của Huxley trong tác phẩm Đương đầu với thế giới mới,


của Zamyatin trong tác phẩm Chúng ta và của Orwell trong tác phẩm Năm
1984; những người muốn nghiên cứu viễn cảnh của một nền văn minh mới.
Khơng thể nói chắc rằng, những xung lực văn hố và những cách nhìn
khơng tưởng này sẽ đem lại một thế giới mới nhiều nhân tính hơn, trong đó
sự chú trọng sẽ chuyển từ phát triển vật chất sang phát triển văn hoá.
Những xu hướng phá huỷ trong bản tính con người có thể sẽ huỷ hoại nền
văn minh này giống như nhiều nền văn minh khác đã bị phá hủy trong quá
khứ. Dẫu sao, chừng nào mà văn hố đích thực cịn tồn tại, nó vẫn cịn là
nơi chứa đựng những giá trị người và một mầm sống mà từ đó, sự sống
mới có thể được sinh ra.r
NGƯỜI DỊCH: ThS. Khuất Duy Dũng (Viện Triết học, Viện Khoa học
xã hội Việt Nam)

(1) Bernard le Bovier de Fontenelle. Digression sur les anciens et les
modernes, Paris, 1683.
(2) Blaise Pascal. Fragment d’un traite du vide, Paris, 1647.
(3) Marquis de Condorcet. Esquisse d’un tableau historique des progrès de
l’esprit humain, Paris, 1793.
(4) G.W.F. Hegel. Phenomenologie des Geistes, 1807; Wissenschaft der
Logik, 1812-1816).
(5) Thomas Hobbes. Leviathan, 1648 (Micheal Oakeshot ed., Oxford,
1947; New York, 1962).
(6) John Locke. Two Treatises on Government, 1690. (Peter Laslett ed.,
Cambridge, 1960).
(7) Jeremy Bentham. Introduction to the Principles of Morals and



Legislation. Oxford, 1789.
(8) Malthus. A Summary View of the Principle of Population, trong: D.
Glas ed., Introduction to Malthus. London, Walls, 1953, p. 140.
(9) The Economist. London 13 May 1948, quoted from: Lincoln Allison.
Environmental Planning. New Jersey: Roman & Littlefied, 1975.
(10) Jay Forrester. World Dynamics. Cambridge: MIT Press, 1971.
(11) D.L. Meadows et al.. The Limits of Growth. New York Universe
Books, 1972 và The Dynamics of Growth in Finite World. Cambridge,
Wright-Allan Press, 1973.
(12) Mesarovic and Pestel. Mankind at the Turning Point. New York, E.P.
Dutton and Company, 1974.
(13) Jantinbergen. Rio: Reshaping the International Order. New York, E.P.
Dutton and Company, 1976.
(14) Almicar Herera et al. Castrophe or New Society? A Latin- American
World Model, Ottawa, International Development Center, 1976.
(15) Ervin Laszlo et al.. Goals for Mankind. New York, E.P Dutton and
Company, 1977.
(16) Gabor, Colombo, King and Galli. Beyond the Age of Waste. Oxxford,
Pergamon Press, 1978



×