Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đề tài: " VỀ KHÁI NIỆM DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.22 KB, 10 trang )














Nghiên cứu triết học

Đề tài: " VỀ KHÁI NIỆM DÂN TỘC VÀ
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC "
VỀ KHÁI NIỆM DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC

PHẠM HUY CHÂU (*)

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích, lý giải để làm rõ thêm các khái ni
ệm
dân tộc và chủ nghĩa dân tộc. Theo tác giả, dân tộc là cộng đồng những ngư
ời
cùng chung một lịch sử, nói chung một ngôn ngữ, sống chung trên một v
ùng lãnh
thổ và có chung một nền văn hoá. Chủ nghĩa dân tộc là ý thức của mỗi ngư
ời về
cội nguồn dân tộc, ý thức về quyền dân tộc, về phẩm giá dân tộc,… Ch
ủ nghĩa


dân tộc có nhiều loại khác nhau, song chỉ có chủ nghĩa dân t
ộc của nhân dân lao
động là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Chủ nghĩa dân tộc trong tư tư
ởng Hồ Chí
Minh là ch
ủ nghĩa dân tộc của nhân dân lao động, luôn thống nhất với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng.
Dân tộc là tên chỉ cộng đồng người hình thành và phát triển trong l
ịch sử, sau khi
xã hội đã có sự phân chia giai cấp và xuất hiện nhà nước. Trong xã hội nguy
ên
thuỷ đã có thị tộc, rồi bộ lạc. Những thành viên trong thị t
ộc gắn bó với nhau
bằng quan hệ huyết thống. Bộ lạc bao gồm những người cùng họ và những ngườ
i
khác họ, cùng sinh sống trên một địa bàn. Sản xuất phát triển thì b
ản thân con
người cũng phát triển theo, cùng với những đặc trưng như ngôn ng
ữ, văn hoá vật
chất (thể hiện trong phương thức sản xuất, phương thức sinh hoạt) v
à văn hoá
tinh thần (thể hiện thành ý thức và các hình thái ý thức). Hình th
ức của cộng
đồng ngư
ời cũng có sự tiến hoá: từ phân tán đến tập trung, từ thấp đến cao, kết
quả là hình thành nên những tộc người và những dân tộc
khác nhau như chúng ta
thấy hiện nay. Có thể quan niệm dân tộc là cộng đồng những người c
ùng chung
một lịch sử (lịch sử hình thành và phát tri

ển của dân tộc), nói chung một ngôn
ngữ, sống chung trên một lãnh thổ, có chung một nền văn hoá hi
ểu theo nghĩa
rộng nhất của từ này là tổng hợp các giá trị vật chất và tinh thần do con ngư
ời
sáng tạo ra, tiêu biểu cho trình độ văn minh đã đạt đư
ợc. Văn hoá của các dân tộc
có những nét chung giống nhau (thí dụ như đ
ều trải qua nền văn minh nông
nghiệp tiến lên nền văn minh công nghiệp), nhưng cũng có những nét đặc thù g
ọi
là tính cách dân tộc hay bản sắc dân tộc (các phong tục, tập quán sinh hoạt v
à
ứng xử, các nếp tâm lý và tư duy, các ưu thế phát triển về mặt này hay m
ặt khác)
tạo ra tính đa dạng, vô cùng phong phú của văn hoá nhân loại.
Về mặt xã hội, khái niệm dân tộc không phải bao giờ cũng trùng h
ợp với khái
niệm quốc gia theo nghĩa là một cộng đồng chính trị - xã hội đư
ợc quản lý bằng
bộ máy nhà nước. Có quốc gia chỉ gồm một dân tộc (hiếm có, như trư
ờng hợp
Triều Tiên trước khi bị chia cắt), song phần lớn là những quốc gia nhi
ều dân tộc
(nhiều dân tộc nhỏ quy tụ xung quanh một dân tộc chủ yếu, thường l
à đông hơn
và phát triển hơn trong lịch sử). Cũng có tình hình là những người cùng m
ột dân
tộc nhưng s
ống phân tán ở những quốc gia khác nhau. Trong lịch sử, các dân tộc

hình thành và phát tri
ển rất không đồng đều cả về thời gian, quy mô, sức sống lẫn
trình độ phát triển. Đã có tình hình nhiều dân tộc tự phát liên kết với nhau, ho
à
nhập vào nhau hoặc đồng hoá, thôn tính lẫn nhau. Xu thế lịch sử của dân tộc l
à
cần có nhà nước để bảo vệ lãnh thổ của mình. Ý thức về chủ quyền lãnh th
ổ phát
triển thành ý thức quốc gia dân tộc hay chủ nghĩa yêu nước. Bản thân nhà nư
ớc,
đến lượt nó, lại có tác động trở lại củng cố sự đoàn k
ết dân tộc, sự thống nhất
nhiều dân tộc trong biên giới của mình. Bộ máy nhà nước trung ương t
ập quyền
của nhà Tần ở Trung Quốc chẳng hạn, khi ban hành nh
ững pháp luật thống nhất
trong cả nước, bắt mọi người cùng viết một kiểu chữ, cùng đi một cỡ xe (th
ư
đồng văn, xa đồng quỹ) đã đẩy nhanh sự cố kết của dân tộc Hán ngay từ trư
ớc
Công nguyên.
Trước đây, các học giả phương Tây chưa nghiên c
ứu nhiều về vấn đề dân tộc nói
riêng. Các sách báo mácxít cũng dựa chủ yếu vào tình hình của châu Âu m
à cho
rằng, dân tộc chỉ trở thành dân tộc khi có sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản
, khi
xuất hiện thị trường dân tộc(1). Thực ra, trên th
ế giới, tính cố kết dân tộc có thể
bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân kinh tế, chính trị khác, như nhu c

ầu có những
công trình trị thuỷ lớn ở các vùng trồng lúa nước, nhu cầu chống lại sự xâm lư
ợc,
đô hộ và đồng hoá của ngoại tộc. Việt Nam đã từng bị ngoại tộc đô hộ hơn m
ột
nghìn năm mà không bị đồng hoá, sở dĩ như vậy là vì con người (Việt Nam) đ
ã
có ý thức về bản sắc của dân tộc mình và n
ổi dậy chống lại sự đồng hoá ấy. Ý
thức về quốc gia - dân tộc đã thể hiện rõ trong hành đ
ộng lịch sử của Lý Bí khi
ông tự xưng là Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân thế kỷ thứ VI, hoặc trong câu th
ơ
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư" thế kỷ thứ XI, trong áng văn bất hủ "B
ình Ngô
đại cáo" thế kỷ thứ XV. Vậy mà cho đến thế kỷ thứ XX, Việt Nam vẫn chưa đ
ạt
đến trình độ một nước tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng là, người Việt Nam đ
ã hình
thành nên dân tộc của mình ngay từ thời cổ đại, có thể là ngay t
ừ khi bị ngoại tộc
đô hộ mà không sao đồng hoá nổi, chứ không phải đợi đến khi lập ra nhà nư
ớc
phong kiến độc lập bền vững vào thế kỷ thứ X.
Có dân tộc hình thành rồi, sau đó mới có ý thức dân tộc. Con người đư
ợc sinh ra
trong cộng đồng, từ cộng đồng. Chỉ có thông qua cộng đồng, ở đây là c
ộng đồng
dân tộc, cá nhân con người mới được xã hội hoá, mới trở thành người. Đứa trẻ s
ơ

sinh chỉ mới là “con người dự bị”; nó phải tập ăn, tập nói như ngư
ời, cảm xúc,
ứng xử và suy nghĩ như người. Nắm được ngôn ngữ dân tộc - vừa là phương ti
ện
giao tiếp, vừa là phương tiện nhận thức - đứa trẻ càng nhanh chóng đi vào nh
ững
khuôn nếp của xã hội, những tục lệ, tín ngư
ỡng, đạo lý, pháp luật sẵn có của một
trình độ văn hoá nhất định. Đến tuổi thành niên, nó mới được xã hội công nhận l
à
một thành viên đủ tư cách. Một cách rất tự nhiên, mỗi cá nhân con ngư
ời đều
cảm thấy rất rõ, trong cả thể xác và tâm hồn mình, là ngư
ời của một dân tộc nhất
định. Đó chính là ý thức dân tộc, tinh thần dân tộc hay là chủ nghĩa dân tộc.
Như vậy, ý thức dân tộc trước hết là ý thức về cội nguồn dân tộc c
ủa mỗi con
người: mình từ đâu đến? Sau đó là ý thức về quyền dân tộc: quyền làm chủ l
ãnh
thổ (đất nước), làm chủ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc mình.
Đó là
tinh thần độc lập, tự chủ của mỗi dân tộc. Đó là quyền tự nhiên, mỗi th
ành viên
của dân tộc đều thấy có nghĩa vụ thiêng liêng phải giữ gìn và b
ảo vệ. Chủ nghĩa
dân tộc còn là ý thức về phẩm giá dân tộc. Dân tộc tồn tại và phát triển l
à thành
quả của sức lao động và đấu tranh sáng tạo của nhiều thế hệ tiền bối. Họ đã t
ạo ra
tất cả những giá trị vật chất và tinh thần hợp thành nền văn hoá dân t

ộc, vừa có
bản sắc riêng, vừa là bộ phận hợp thành nền văn hoá chung của nhân loại.
Song, điều phức tạp của lịch sử là ở chỗ, các tộc người, các dân tộc h
ình thành và
phát triển khi đã có sự phân tầng xã hội thành các giai cấp. Sự xuất hiện giai cấ
p
không làm tan rã cộng đồng dân tộc, mà chỉ chia rẽ con ngư
ời trong cộng đồng
dân tộc, thậm chí đến mức đối kháng. Trong cùng m
ột dân tộc, ý thức dân tộc
của mỗi giai cấp lại được chiết quang qua ý thức về lợi ích giai cấp; vì v
ậy, nó
không thể không mang thêm những sắc thái riêng bắt nguồn từ tính giai cấp.
Việc cải tiến công cụ lao động tuy chậm chạp nhưng liên tục trong xã hội nguy
ên
thủy làm tăng dần năng suất lao động của con ngư
ời; đến một độ nhất định (thời
đại đồ đồng, đồ sắt), sản xuất xã hội đủ sức tạo ra những sản phẩm thặng d
ư.
Tiền đề này đã dẫn đến một tất yếu lịch sử là sự hình thành giai cấp v
à kèm theo
nó là sự phân công lao động xã hội thành lao động chân tay và lao đ
ộng trí óc.
Một số người có điều kiện chiếm dụng những sản phẩm thặng dư và sống tr
ên
lưng người khác, trở thành giai cấp ăn bám và thống trị. Đa số người còn l
ại vẫn
buộc phải sản xuất trực tiếp đổ mồ hôi kiếm miếng ăn, đó là nh
ững giai cấp bị
bóc lột và bị trị, là nhân dân lao động. Đồng thời, cũng chỉ có người n

ào không
buộc phải trực tiếp lao động sản xuất mới có thì giờ rảnh để chuyên làm lao đ
ộng
trí óc, phát triển mọi năng khiếu tinh thần của con người và trở thành những nh
à
trí thức. Trong xã h
ội có giai cấp, tầng lớp trí thức phần nhiều xuất thân từ giai
cấp thống trị hoặc phụ thuộc vào họ. Tình hình này đưa đ
ến sự lầm lẫn cho rằng,
kẻ lao tâm thì trị người và được người nuôi, còn kẻ lao lực thì nuôi người và b

người trị (Mạnh Tử). Thực ra, những thành viên c
ủa các giai cấp thống trị trong
lịch sử trước đây không phải đều là trí thức hoặc bắt đầu từ chỗ là trí th
ức. Sở dĩ
họ thống trị là vì họ đã nắm được quyền lực, mà cơ sở vật chất của quyền lực l
à
sự chiếm đoạt, chủ yếu bằng bạo lực.
Sự hình thành các giai cấp và tầng lớp trí thức đánh dấu sự xuất hiện của bất b
ình
đẳng xã hội giữa con ngư
ời với nhau, xâm hại tính cộng đồng gắn liền với bản
chất của con người là một động vật xã hội, có tính xã h
ội. Trong đấu tranh giai
cấp, hiện tượng mạnh được yếu thua, cường quyền át công lý, “cá l
ớn nuốt cá bé”
chẳng qua là bi
ểu hiện của quy luật đấu tranh sinh tồn, của "luật rừng" trong giới
sinh vật. Các giai cấp đấu tranh với nhau, song vẫn dựa vào nhau cùng t
ồn tại:

đấu tranh giai cấp không làm tan rã được xã hội. Nó không phủ định b
ản chất con
người đã bắt đầu định hình, mà chỉ minh hoạ cho thấy rằng, việc h
ình thành con
người là một quá trình tiến hoá trường kỳ, từ tính động vật đơn thu
ần đến tính
người hoàn thiện hơn, thực sự là con người. Tính động vật hay thú tính là cái n
ền
tảng ban đầu nhưng được cải biến dần dần, còn tính người hay nhân tính thì
ngày
càng được trau dồi và nâng cao. Sự đối kháng giai cấp không điều hoà, tuy đ
ã
biến con người thành "chó sói đối với người"; nhưng cũng chính đấu tranh
giai
cấp lại là động lực làm cho xã hội tiến hoá đi lên, từ hình thức bóc lột và th
ống trị
tàn nhẫn và thô bạo của chế độ chiếm nô, đến chế độ phong kiến hết sức chuy
ên
chế nhưng đã ít tàn bạo hơn, đến chế độ tư bản bóc lột tinh vi hơn và th
ống trị một
cách "dân chủ”, nghĩa là che đậy hơn. Tính động vật đơn thuần đã từng bư
ớc
chuyển hoá, mở đường cho tính người được nâng lên d
ần dần một cách không thể
đảo ngược được.
Mặt khác, giai cấp xuất hiện cũng có nghĩa là con người đã làm gia tăng m
ột
cách đáng kể năng lực sản xuất và khai thác tự nhiên của mình. Con người đ
ã
vượt qua được giai đoạn tiền sử - giai đoạn dã man và tiến vào giai đoạn

văn
minh. Việc lao động trí óc được tách ra thành một dạng hoạt động chuyên biệt l
à
thêm một đòn bẩy hết sức mạnh mẽ để phát triển năng lực nhận thức c
ủa con
người: năng lực quan sát, chiêm nghiệm, năng lực tư duy, phân tích và t
ổng hợp,
tổng kết, nâng nhận thức từ trình độ cảm tính lên trình đ
ộ lý tính. Tất cả những
điều đó đã xây dựng nên nền văn hoá đặc trưng cho loài người: nền
văn hoá dân
gian rất phong phú của quần chúng nhân dân và cả một nền văn hoá bác học đ

sộ do những nhà trí thức các thế hệ sáng tạo ra. Sự phát triển tất cả các h
ình thái
ý thức của con người: tư tưởng, các môn khoa học tự nhiên, các môn khoa học x
ã
hội giúp con người không chỉ ngày càng nhận thức được và làm chủ tự nhi
ên, mà
còn vươn lên nhận thức được và làm chủ xã hội và cả bản thân mình. Có th
ể nói,
con người đã và còn tiếp tục sáng tạo ra cả một thế giới mang tính người, đư
ợc
"người hoá". Thành tựu rực rỡ này làm vinh quang cho con ngư
ời, đồng thời
cũng là điểm tới của một lộ trình vô cùng gian nan và đau khổ, đẫm mồ hôi v
à
máu: cái giá phải trả cho quá trình lịch sử mấy nghìn năm của xã hội có giai cấp.
Cho đến nay, xã hội loài người vẫn chưa thoát ra ngoài khuôn khổ của xã h
ội có

giai cấp. Vậy, ý thức giai cấp đã tác động như thế nào t
ới ý thức cộng đồng, cụ
thể ở đây là ý thức dân tộc?
Nhìn một cách đại thể thì xã hội có giai cấp gồm hai lớp người: lớp tr
ên là
những giai cấp bóc lột, thống trị và lớp dưới là những giai cấp lao động, bị trị. L
à
thành viên của dân tộc, dĩ nhiên các giai cấp lớp trên c
ũng có ý thức về dân tộc
mình, có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa. Là giai cấp thống trị, nắm bộ máy nh
à
nước, họ đồng hành với dân tộc mình và hiểu rằng, không có dân thì làm s
ao có

ớc. Lợi ích giai cấp của họ thời kỳ đầu nằm trong lợi ích của dân tộc. Vô số
những anh hùng dân tộc trong lịch sử là những vua sáng, tướng tài, những nh
à tư
tưởng, nhà văn hoá thuộc thành phần lớp trên. Nhưng khi m
ột triều đại phong
kiến nào đó đã suy đồi thì cũng có những ông vua bán nước cầu vinh, “cõng r
ắn
cắn gà nhà” hòng giữ lại lợi ích nhỏ nhen của triều đại mình. Bản thân giai cấp t
ư
sản đã từng giương cao ngọn cờ cách mạng dân chủ, làm rung chuy
ển châu Âu
phong kiến các thế kỷ XVII, XVIII. Đại cách mạng Pháp đã đem l
ại thống nhất,
tự do và vinh quang cho dân tộc Pháp. Nhưng t
ừ giữa thế kỷ XIX, chính giai cấp
tư sản Pháp đã trở thành bảo thủ và phản động; nó đã ký hiệp ước đầu h

àng quân
Phổ xâm lược trong khi công nhân và nhân dân lao động Pari ngoan cư
ờng chống
lại (1871). Mặt khác, các giai cấp lớp trên đều là giai c
ấp thống trị, đều có tham
vọng mở rộng sự thống trị của giai cấp mình ra bên ngoài. Trong tư tư
ởng của
họ, ý thức về quốc gia, chủ nghĩa quốc gia luôn lấn át chủ nghĩa dân tộc. Đó

nguyên nhân của những cuộc chiến tranh xâm lược, chinh phục triền mi
ên trong
l
ịch sử của chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa
đế quốc.
Ngược lại là những giai cấp lao động ở lớp dưới. Họ không những duy trì đư
ợc
tính người, một động vật biết tạo ra công cụ lao động và lao đ
ộng bằng công cụ,
mà còn phát huy và hoàn thiện tính người với tư cách một động vật xã hội, n
ương
tựa vào nhau mà sống, có tình thương đồng loại và đạo lý làm người: đó chính l
à
chủ nghĩa nhân đạo. Dĩ nhiên, nhân dân lao động cũng có thể có biểu hiện t
ư
tưởng dân tộc hẹp hòi, vị kỷ, và ở thân phận bị trị có thể nhiều ít nhiễm tư tư
ởng
của giai cấp thống trị; nhưng cùng v
ới sự tiến bộ về dân trí, họ dễ hiểu ra rằng,
lợi ích của mọi người lao động là thống nhất: suy ta ra người, vì th
ương thân nên

cũng thương người, vì trọng dân tộc mình nên c
ũng biết trọng dân tộc khác. Chủ
nghĩa dân tộc của họ không đối kháng với các dân tộc khác. Giai cấp vô s
ản
trong chế độ tư bản chủ nghĩa không vướng chút nào vào tư tưởng tư h
ữu, lại
càng có điều kiện vật chất để đi tới tư tưởng chủ nghĩa quốc tế thực sự(2) -
hoàn
toàn đối lập với mọi dạng chủ nghĩa quốc gia từng có trong lịch sử. V.I.L
ênin
trước đây đã nhận xét: "Mỗi nền văn hoá dân tộc đều có những thành phần, th
ậm
chí không phát triển, của một nền văn hoá dân chủ và xã hội chủ nghĩa, v
ì trong
mỗi dân tộc đều có quần chúng lao động và bị bóc lột mà đi
ều kiện sinh sống của
họ nhất định phải sản sinh ra một hệ tư tưởng dân chủ và xã h
ội chủ nghĩa.
Nhưng trong mỗi dân tộc, cũng còn có một nền văn hoá tư s
ản (…) không phải
chỉ ở trong tình trạng là những “thành phần” mà là dưới hình th
ức nền văn hoá
thống trị"(3).
Như vậy, trong xã h
ội có giai cấp, chủ nghĩa dân tộc cũng có tính giai cấp. Có
chủ nghĩa dân tộc tiến bộ, cách m
ạng, cũng có chủ nghĩa dân tộc lỗi thời, phản
động. Chủ nghĩa dân tộc của các giai cấp lớp trên thay đ
ổi tính chính trị của nó
tuỳ theo từng thời kỳ lịch sử, khi giai cấp đó còn vai trò tiến bộ hay đã l

ỗi thời.
Chỉ có chủ nghĩa dân tộc của nhân dân lao động là trước sau như một, đó là ch

nghĩa dân tộc chân chính.
Ra đi tìm đường cứu nước từ năm 1911, Nguyễn Tất Thành bôn ba hải ngoại v
à
hoạt động cách mạng với bút danh Nguyễn Ái Quốc. Trở về nư
ớc năm 1941,
Người đã trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và tr

thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đ
ầu năm
1946, Người công khai bày tỏ tâm tư của mình: "Tôi ch
ỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được ho
àn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"(
4).
Năm 1969, 50 ngày trước lúc đi xa, Người đã nhìn lại cả cuộc đời mình khi tr

lời một phóng viên: "Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi"(5). Động lực l
àm nên
chí khí và sự nghiệp Hồ Chí Minh chính là điều mà Người đã mạnh dạn gọi l
à
chủ nghĩa dân tộc. Đó là tư tưởng nền tảng, nhất quán trong tư tư
ởng chính trị
Hồ Chí Minh, nhưng đó là chủ nghĩa dân tộc đã được làm giàu thêm b
ằng những
tinh hoa trong tư tưởng chính trị của loài người: chủ nghĩa dân chủ và ch
ủ nghĩa

xã hội.
Hồ Chí Minh đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc mình và cũng vì t
ất cả các
dân tộc bị áp bức khác trên thế giới. Chủ nghĩa dân tộc trong tư tư
ởng Hồ Chí
Minh là chủ nghĩa dân tộc của nhân dân lao động; nó không tách rời mà trái l
ại,
luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.r

(*) Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Xtalin cho rằng, “Quá trình thủ tiêu chủ nghĩa phong kiến và phát tri
ển chủ
nghĩa tư bản đồng thời cũng là quá trình người ta kết hợp thành dân tộc”. Ch

nghĩa Mác và vấn đề dân tộc. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.24.
(2) Giai cấp tư sản cũng có “tính quốc tế” nhưng họ chỉ liên kết đư
ợc với nhau
trong chừng mực phải đương đ
ầu với giai cấp vô sản, họ chỉ có tính quốc tế “nửa
vời”, không “thực sự”; còn bản thân họ thì không bao gi
ờ hết cạnh tranh đối địch
với nhau (Tác giả).
(3) V.I.Lênin. Toàn tập, t.24. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.154.
(4) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.161.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.560.


×