Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Đề tài: " CÔNG BẰNG XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐOÀN KẾT XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.58 KB, 19 trang )




















Nghiên cứu triết học

Đ
ề tài: " CÔNG BẰNG XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ
HỘI VÀ
Đ
OÀN KẾT XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP
Đ
ỔI MỚI Ở VIỆT NAM "


CÔNG BẰNG XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐOÀN KẾT XÃ HỘI


TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM



TRẦN ĐỨC CƯỜNG (*)
Với tư cách Báo cáo đề dẫn Hội thảo, trong bài viết này, tác giả đã
đưa ra những đánh giá khái quát về thành tựu và hạn chế trong thực
hiện công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội ở Việt
Nam trước và trong những năm đổi mới đất nước; đồng thời, gợi mở
những vấn đề cần thảo luận để việc thực thi công bằng xã hội, trách
nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội không chỉ là một mục tiêu phấn đấu,
mà còn là một động lực mạnh mẽ để phát triển đất nước và đảm bảo
cho sự phát triển của Việt Nam là một sự phát triển bền vững.

1. Mở đầu
Trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
quốc gia nào, bằng cách này hay cách khác, cũng đều phải xem xét
và tính toán đến các vấn đề về công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội
và đoàn kết xã hội. Nếu một quốc gia nào đó chỉ chú trọng đến tăng
trưởng về kinh tế (sự tăng trưởng này được tính bằng thu nhập quốc
dân và tốc độ tăng trưởng kinh tế) nhưng không quan tâm đến sự
công bằng giữa các tầng lớp, các giai cấp, các nhóm dân cư, thì sự
phát triển của quốc gia đó sẽ không bền vững. Chính bất công xã hội
sẽ dẫn đến sự mất đoàn kết xã hội và do đó, cũng sẽ dẫn đến sự bất
ổn định xã hội với những mức độ biểu hiện khác nhau, như sự căng
thẳng xã hội, xung đột xã hội và thậm chí, có thể dẫn đến nội chiến.
Xã hội được hình thành và phát triển dựa trên những hoạt động có ý
thức và có mục đích của các cá nhân, nhưng đây không phải là số
cộng giản đơn của các cá nhân. Một xã hội mà ở đó, các cá nhân chỉ
biết lo cho riêng mình, không có tinh thần trách nhiệm đối với sự

phát triển chung của xã hội, thì xã hội đó sớm muộn cũng sẽ dẫn đến
tình trạng mâu thuẫn, mất đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp và
nhóm dân cư. Vì lẽ đó, công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn
kết xã hội là những vấn đề rất quan trọng và có mối quan hệ mật
thiết với nhau.
Nhờ sự tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ mà thế giới của
chúng ta ngày càng văn minh hơn về vật chất, ngày càng “phẳng
hơn” (theo cách nói của Thomas L.Friedman trong cuốn sách Thế
giới phẳng). Tuy nhiên, thế giới của chúng ta vẫn chưa phải là một
thế giới hoàn toàn nhân văn, vì bạo lực và chiến tranh còn đang
hoành hành ở nhiều nơi. Hầu như ngày nào trên các phương tiện
thông tin đại chúng, chúng ta cũng nghe thấy người ta nói đến tình
trạng bạo lực và chiến tranh ở nơi này hay nơi khác trên thế giới.
Tình trạng đau lòng đó đòi hỏi nhân loại phải chung sức tìm ra các
giải pháp thúc đẩy sự tiến bộ về công bằng xã hội, trách nhiệm xã
hội và đoàn kết xã hội.
Đối với Việt Nam, công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết
xã hội luôn được coi là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã
hội. Việt Nam tuy đã đạt được nhiều tiến bộ trong phát triển, song
cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề trong việc thực hiện công bằng
xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội.
2. Công bằng xã hội
Công bằng xã hội là khát vọng từ ngàn đời nay của nhân dân thế giới
nói chung và của nhân dân Việt Nam nói riêng. Đó cũng là một
trong những mục tiêu phấn đấu xuyên suốt của Đảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam. Trong thời kỳ phong kiến và thuộc địa, Việt
Nam chưa bao giờ có sự công bằng, vì chế độ phong kiến và thuộc
địa, về bản chất, là chế độ người bóc lột người. Tình trạng bất công
bằng xã hội ở Việt Nam có lúc nghiêm trọng đến mức làm cho hàng
triệu người bị chết đói vào năm 1945. Nhờ giương cao ngọn cờ công

bằng xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ
của đông đảo quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chế
độ thuộc địa và phong kiến, nhằm hướng tới xây dựng một chế độ xã
hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa (giai đoạn trước đổi
mới), Nhà nước Việt Nam chủ trương thiết lập chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất chủ yếu và trên cơ sở đó, thực hiện nguyên
tắc phân phối theo lao động (làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng). Đó là vì, theo nhận thức chung của tất cả
các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ, đây là con đường duy nhất để
đạt tới hai mục tiêu là công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế. Đi
theo con đường đó, Việt Nam nói riêng, các nước xã hội chủ nghĩa
nói chung, lúc đầu đã khắc phục được một phần tình trạng bất công
bằng xã hội do xã hội trước để lại. Chế độ người bóc lột người cơ
bản được xoá bỏ, khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư
được thu hẹp đáng kể. Tuy nhiên, sau một thời gian, nguyên tắc phân
phối theo lao động không được thực hiện đúng đắn, mà thay vào đó là
“nguyên tắc phân phối bình quân”. Điều đó đã hạn chế tính tích cực
của người lao động và dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế.
Nhận thức được tình trạng bất hợp lý đó, từ năm 1986 đến nay,
Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nguyên tắc
phân phối mới “vừa theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, vừa
theo mức đóng góp vốn (trong đó phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu)”. Về nguyên tắc phân phối mới này,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định: "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội"(1).

Tiếp tục tinh thần đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển:
tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục…, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực
hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
thông qua phúc lợi xã hội”(2).
Do thực hiện nguyên tắc phân phối “theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội”, cho nên Việt Nam đã xoá bỏ đáng kể sự bất công do phân phối
bình quân. Việc xoá bỏ sự bất công này là một nguyên nhân cơ bản
đưa đến những thành công của Việt Nam về kinh tế và xã hội, được
cộng đồng thế giới thừa nhận. Kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục
với tốc độ cao. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đạt được nhiều tiến bộ
về văn hoá và xã hội: đời sống của đa số nhân dân được cải thiện, tỷ
lệ đói nghèo giảm nhanh chóng. Trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm
2005, tỷ lệ hộ nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc tế giảm từ 58% xuống
25%, xã hội không có sự phân cực gay gắt, giáo dục và đào tạo tiếp
tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn, trình độ dân trí được nâng
lên, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt nhiều kết
quả, tuổi thọ trung bình của dân số tăng từ 67,8 (năm 2000) lên 71,5
(năm 2005), chính trị và xã hội ổn định(3). So với thời kỳ trước đổi
mới, Việt Nam đã tiến được một quãng đường dài để đến mục tiêu
công bằng xã hội.
Bên cạnh những thành công đó, Việt Nam cũng đang đối mặt với
nhiều vấn đề xã hội. Tình trạng bất công bằng xã hội vẫn tồn tại do
tham nhũng. Điều đó là mầm mống gây ra sự bất ổn định xã hội.
Ngoài tham nhũng, tình trạng bất công bằng xã hội còn có nguyên

nhân là do Đảng và Nhà nước chưa nhận thức và giải quyết đầy đủ
mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và chất lượng phát triển,
giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Về điều này,
Văn kiện Đại hội X của Đảng viết: “Lý luận chưa giải đáp được một
số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, đặc biệt là trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tốc độ tăng
trưởng kinh tế và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và
thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”(4).
Trong thời kỳ phân phối bình quân, khoảng cách giàu nghèo giữa
các bộ phận dân cư không đáng kể. Trong thời kỳ đổi mới, khoảng
cách giàu nghèo giữa các bộ phận dân cư gia tăng. Điều này không
phải là biểu hiện của sự công bằng bị vi phạm, mà trái lại là biểu
hiện của sự công bằng được thiết lập, vì phân phối bình quân đồng
nghĩa với sự bất công bằng. Hiện nay, khoảng cách giàu nghèo giữa
các bộ phận dân cư chưa dẫn đến phân cực xã hội. Tuy nhiên,
khoảng cách giàu nghèo giữa các bộ phận dân cư gia tăng không phải
chỉ do nguyên nhân tích cực là xoá bỏ sự phân phối bình quân, mà
còn do cả những nguyên nhân tiêu cực, như tham nhũng, sự bất hợp lý
trong phân phối của cải và cơ hội phát triển. Vì vậy, điều quan trọng
không phải là ở chỗ hạn chế sự phân hoá giàu nghèo để dẫn đến tình
trạng cào bằng giàu nghèo, mà là ở chỗ loại bỏ những nguyên nhân
tiêu cực dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo.
Làm thế nào để giải quyết tốt các vấn đề xã hội, để bảo đảm sự công
bằng mà không triệt tiêu động lực của sự phát triển kinh tế? Đây là
một vấn đề phức tạp đang đặt ra cho Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Nếu không giải quyết đúng đắn vấn đề này thì hậu quả sẽ hoặc là
động lực của sự phát triển kinh tế bị triệt tiêu, hoặc là sự bất công
bằng xã hội gia tăng. Cả hai biểu hiện của hậu quả đó đều xa rời mục

tiêu của sự phát triển xã hội mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đang
phấn đấu.
XEM TIẾP>>>



CÔNG BẰNG XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐOÀN KẾT XÃ
HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM (tiếp theo)
TRẦN ĐỨC CƯỜNG (*)

3. Trách nhiệm xã hội
Trách nhiệm, đó là năng lực của con người ý thức được những hậu quả do
hành động của mình đưa lại. Cụ thể hơn, đó là năng lực xác định được lợi
ích hoặc tác hại đối với người khác, đối với xã hội của hành động. Trong
trường hợp như vậy, chủ thể của hành động hoạt động có trách nhiệm làm
cho hành động hoặc hoạt động của mình có ích đối với xã hội. Trách nhiệm
cũng thể hiện trong trường hợp những hoạt động không phù hợp với lợi ích
xã hội, chẳng hạn, với trật tự xã hội, với pháp chế hoặc đạo đức xã hội.
Trong trường hợp này, chủ thể phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại đối
với lợi ích xã hội do hoạt động của mình gây ra. Như thế, trách nhiệm bao
hàm cả quyền của xã hội đòi hỏi hoặc trừng phạt các thành viên của mình
tuỳ theo hành vi của họ. Trách nhiệm không chỉ bao hàm đòi hỏi của xã hội
đối với cá nhân, mà còn bao hàm đòi hỏi của cá nhân, tức là quyền của cá
nhân, đối với xã hội. Cụ thể hơn, nếu cá nhân có nghĩa vụ, có trách nhiệm đối
với xã hội thì xã hội cũng có nghĩa vụ, có trách nhiệm đối với cá nhân. Nội
dung cụ thể của các nghĩa vụ, các trách nhiệm này bị quy định bởi trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trong những thời đại lịch sử
nhất định.
Như vậy, về thực chất, trách nhiệm được sinh ra từ quyền và nghĩa vụ của cá
nhân đối với xã hội và của xã hội đối với cá nhân. Nói đến quyền và nghĩa

vụ nghĩa là nói đến lợi ích. Bởi vì quyền là quyền được hưởng lợi ích từ phía
có trách nhiệm đáp ứng lợi ích và nghĩa vụ là nghĩa vụ đáp ứng lợi ích cho
phía được quyền hưởng lợi ích. Vì thế, trách nhiệm có cơ sở ở lợi ích. Tuy
vậy, trong lịch sử đã từng có những nhà triết học không thừa nhận lợi ích là
cơ sở của trách nhiệm. Với họ, trách nhiệm biểu hiện như một trạng thái tâm
lý bên trong con người, thuần tuý mang tính chủ quan không bị quy định bởi
tính tất yếu bên ngoài nên không có quan hệ với lợi ích. Chẳng hạn, I.Kant
cho rằng, chỉ có những hành động không liên quan tới bất kỳ lợi ích nào mới
có thể là hành động tự do và phù hợp với đạo đức. Hành động đó chính là
hành động có trách nhiệm của con người. Thế nhưng, liệu có thể có một
hành động có ý thức, tự giác và tự do nào mà không hề có quan hệ đến lợi
ích cá nhân hoặc lợi ích xã hội? Vì vậy, vấn đề không phải ở chỗ, hành động
của con người gắn hay không gắn với lợi ích của con người, mà là ở chỗ, lợi
ích đó là lợi ích gì, mang tính chất gì.
Như chúng ta biết, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp thúc đẩy con người
hoạt động. Lợi ích đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với lợi ích xã hội.
Nếu lợi ích cá nhân đối lập có tính loại trừ lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, thì
trong khi theo đuổi lợi ích của mình, con người với tư cách cá nhân không
biết đến trách nhiệm. Nhưng, nếu như sự thực hiện lợi ích cá nhân lại giả
định sự thực hiện ở một mức độ nào đó hoặc một phương diện nào đó lợi ích
xã hội thì nhất định sẽ xuất hiện vấn đề trách nhiệm trong hành động của con
người. Trước đây, Henvetiuýt từng nói, lợi ích hiểu một cách đúng đắn là cơ
sở của toàn bộ đạo đức. Chữ “hiểu” mà ông nói chắc không đơn giản chỉ
trong phạm vi nhận thức, mà đi liền với nhận thức là việc giải quyết một
cách đúng đắn, hợp lý quan hệ lợi ích của con người. Phát triển và làm rõ
hơn tư tưởng đó, C.Mác đòi hỏi rằng, nếu lợi ích hiểu một cách đúng đắn là
cơ sở của toàn bộ đạo đức thì cần làm cho lợi ích cá biệt trở thành phổ biến.
Đối với C.Mác, việc giải quyết một cách hợp lý quan hệ lợi ích giữa cá nhân
và xã hội chính là cơ sở của hành động đạo đức với tính cách là hành động
thực hiện trách nhiệm một cách tự do, tự nguyện của con người đối với

người khác, đối với xã hội. Như vậy, việc giải quyết một cách hợp lý quan
hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, đặc biệt là lợi ích kinh tế, sẽ không chỉ làm
tăng thêm sự quan tâm của con người tới hoạt động thực hiện lợi ích cá
nhân, mà còn làm tăng thêm sự quan tâm của họ tới lợi ích xã hội, nghĩa là
gia tăng trách nhiệm xã hội của con người.
Với việc Việt Nam chuyển sang thực hiện kinh tế thị trường, những điều
kiện thuận lợi mới đã được tạo ra cho việc giải quyết hợp lý quan hệ lợi ích
giữa cá nhân và xã hội. Hơn thế, điều đó còn làm cho việc giải quyết quan hệ
lợi ích giữa cá nhân và xã hội được nâng lên một trình độ mới. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay với “nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân”. Và, việc “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác
và thông qua phúc lợi xã hội”(5) đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho sự
thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; bởi nó thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, làm gia tăng của cải xã hội cũng như thu nhập của người lao
động trong điều kiện mới. Sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội với nội dung cụ thể và thích ứng với điều kiện mới như vậy đã và đang
kích thích sự quan tâm tự giác, tự nguyện của con người đối với việc thực
hiện lợi ích chung của xã hội, nghĩa là làm gia tăng và phong phú trách
nhiệm xã hội của con người.
Trách nhiệm xã hội của con người được thể hiện ở chỗ ý thức được và thực
hiện được những đòi hỏi của xã hội, những đòi hỏi này mang tính tất yếu
lịch sử. Việc ý thức sâu sắc tính tất yếu lịch sử thông qua sự lĩnh hội các yêu
cầu xây dựng xã hội sẽ cho phép con người quyết định và lựa chọn các hành
động một cách tự do hơn và do đó, có trách nhiệm hơn. Chính vì vậy, trong
quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn đề cao và tăng cường
công tác giáo dục tư tưởng và chính trị cho quần chúng nhân dân. Sự nghiệp
đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của

toàn dân. Thành bại của sự nghiệp đổi mới tuỳ thuộc vào sự giác ngộ chính
trị của nhân dân, vào tinh thần tự lập tự cường, ý chí thống nhất trong quyết
tâm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. Sự giác ngộ mục đích, những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, sự
giác ngộ về vai trò của mỗi người dân đối với sự nghiệp phát triển đất nước
trong điều kiện hiện nay không chỉ là động lực tinh thần thúc đẩy họ trong
hoạt động, mà còn làm cho trách nhiệm của họ có nội dung cụ thể và phong
phú.
Từ ý thức được những đòi hỏi mang tính tất yếu lịch sử, từ sự giác ngộ về
chính trị, con người sẽ chủ động và tích cực tham gia vào đời sống chính trị,
xã hội của đất nước. Trong khi tham gia vào việc quản lý nhà nước, vào hoạt
động của Đảng, Công đoàn, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã
hội khác, những người lao động sẽ phát huy và mở rộng nền dân chủ xã hội,
thực hiện một cách nhất quán và tôn trọng nghiêm túc pháp chế cũng như
trật tự xã hội. Đó chính là điều kiện để biến dân chủ thành nội dung bên
trong của đời sống xã hội, đồng thời trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Dân chủ càng được mở rộng thì trách
nhiệm của mỗi công dân càng cao và kỷ cương xã hội càng vững chắc. Mối
liên hệ giữa dân chủ, kỷ cương và trách nhiệm phản ánh bản chất của xã hội
Việt Nam trong quá trình đổi mới. Nó đòi hỏi và tạo ra những điều kiện cho
người dân tham gia thảo luận rộng rãi các vấn đề quan trọng của đất nước,
đồng thời cũng đòi hỏi người dân có ý thức trách nhiệm cao trong việc thực
hiện pháp luật và những yêu cầu bảo đảm trật tự xã hội.
Nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa dân chủ, kỷ cương và trách nhiệm xã
hội của con người, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam luôn coi “dân chủ
xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là
người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại

đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham
gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước”(6).
Như đã nêu, trách nhiệm phản ánh mối quan hệ qua lại giữa cá nhân với xã
hội, giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội. Bởi
thế, vấn đề không chỉ là ở chỗ đẩy mạnh dân chủ và đề cao trách nhiệm của
quần chúng nhân dân. Để có thể xây dựng một xã hội dân chủ còn phải “đề
cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân”(7). Nếu
không thấy được sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện đó của
trách nhiệm thì có thể làm cho một số cá nhân chỉ biết đến quyền hạn của
mình và chỉ muốn dùng quyền hạn đó phục vụ lợi ích riêng. Tình trạng “dân
chủ ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu,
tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng”(8) trong thời gian qua cho thấy, sự
cần thiết phải nâng cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước, các
cán bộ, viên chức nhà nước đối với đất nước, nhân dân. Hiến pháp nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ: “Nhà nước đảm bảo và
không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”(9), “các cơ
quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ
phục vụ nhân dân”(10). Cũng như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam “chủ
trương xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công
chức phải thực sự là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân”(11). Đó chính là sự khẳng định và nhấn mạnh trách nhiệm của các tổ
chức Đảng, Nhà nước, cán bộ, công chức đối với nhân dân. Điều đó cũng đặt
ra vấn đề nâng cao trách nhiệm cho cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh
đạo kinh tế, khoa học, công nghệ,… trong điều kiện hiện nay. Việc đổi mới
đất nước, phát triển kinh tế, xã hội phụ thuộc nhiều vào hoạt động, tài năng
và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Nếu một người lao động bình
thường thiếu trách nhiệm trong cương vị của mình thì sẽ gây ra hậu quả
trong một phạm vi nhất định. Nhưng nếu điều đó xảy ra với cán bộ lãnh đạo
thì tác hại sẽ lớn hơn rất nhiều. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đòi hỏi một cách

nghiêm khắc hơn đối với cán bộ lãnh đạo về tinh thần trách nhiệm của họ.
Như vậy, trách nhiệm gắn liền và là biểu hiện của các quan hệ, quan hệ giữa
tự do và tất yếu, giữa quyền và nghĩa vụ, giữa cá nhân và xã hội. Sự phát
triển trách nhiệm của con người đánh dấu trình độ phát triển xã hội và là
động lực của sự phát triển xã hội. Để phát triển trách nhiệm của con người
Việt Nam hiện nay cần phải đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển
kinh tế, dân chủ hoá, giữ nghiêm kỷ cương xã hội và tăng cường công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng.
4. Đoàn kết xã hội
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Nhân dân Việt Nam có
truyền thống đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ có
đoàn kết mà các dân tộc, các tôn giáo, các cộng đồng dân cư cùng sống trên
mảnh đất Việt Nam đã vượt qua được bao gian lao, chống chọi được với bao
kẻ xâm lược hùng mạnh, giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc. Hồ Chí Minh
đã tổng kết và khái quát truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam như sau:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Tuy nhiên, lịch sử không phải bao giờ cũng diễn ra theo con đường thẳng.
Dân tộc Việt Nam, kể từ khi phải chịu sự thống trị của thực dân Pháp (năm
1884) cho đến năm 1975, đã lâm vào tình trạng bị chia rẽ sâu sắc. Trên mảnh
đất Việt Nam suốt gần 100 năm đó không có sự bình yên tiếng súng giữa
người Việt Nam muốn độc lập với người cai trị nước ngoài và cả giữa những
người Việt Nam với nhau. Từ năm 1975, Việt Nam bước vào một thời kỳ
lịch sử mới: đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong mười năm đầu (1976 - 1985), Việt Nam đã giành được nhiều thành
tựu đáng ghi nhận, nhưng cũng mắc nhiều sai lầm. Do chủ quan, duy ý chí,
Nhà nước đã đặt ra các kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế mà chưa tính
toán đầy đủ và hợp lý đến lợi ích thiết thân và tâm tư, nguyện vọng đa dạng
của các giai cấp, các tầng lớp dân cư trong cả nước. Một số việc làm được áp
dụng ở vùng mới giải phóng miền Nam đã ảnh hưởng đến sự đoàn kết dân
tộc, gây nên những xáo trộn không đáng có. Kết quả là đất nước lâm vào

tình trạng khủng hoảng, một bộ phận nhân dân giảm sút lòng tin đối với
Đảng và Nhà nước, nhiều người đã rời bỏ đất nước ra đi.
Trong tình hình đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước. Đại hội VI thực sự là một mốc quan trọng, tạo ra một
bước chuyển biến căn bản trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước,
trong việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Bốn bài học lịch
sử mà Đại hội VI của Đảng chỉ ra đã thấm đượm sâu sắc tinh thần đại đoàn
kết dân tộc, trong đó nổi bật lên là bài học “lấy dân làm gốc” (với ý nghĩa
rằng nền tảng của xã hội, của chế độ là lực lượng đoàn kết của nhân dân, động
lực phát triển của đất nước là sức mạnh đoàn kết toàn dân, mục tiêu phấn đấu
của Đảng và Nhà nước là phục vụ nhân dân) .
Đường lối đổi mới đã khởi đầu cho một thời kỳ mới xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; coi
trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động; liên kết và khai thác
mọi tiềm năng của mọi tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; quan tâm nhiều hơn đến “chính sách giai cấp (bao gồm chính
sách đối với mỗi giai cấp và chính sách xử lý mối quan hệ giữa các lợi ích
của giai cấp) và chính sách của dân tộc”; nhấn mạnh việc đặt con người vào
vị trí trung tâm của chính sách kinh tế - xã hội; “có kế hoạch chủ động xây
dựng cơ cấu giai cấp xã hội mới, cụ thể hoá và thực hiện đúng chính sách
dân tộc và chính sách tự do tín ngưỡng”; đẩy mạnh phát huy dân chủ trong
xã hội; củng cố liên minh công nông và khối đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc đã được nâng lên một tầm cao mới tại Đại hội
Đảng lần thứ VII (6 - 1991). Đảng đã mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc bao
gồm công nhân, nông dân, trí thức; phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc;
đặt lợi ích dân tộc và lợi ích của con người lên hàng đầu. Đường lối đại đoàn
kết dân tộc của Đại hội VII của Đảng đã được thể hiện cụ thể trong Nghị
quyết 07 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đây là một
Nghị quyết phản ánh tập trung nhất sự kế thừa và phát triển tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp theo là Nghị quyết 8B của

Bộ Chính trị về tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng của
Đảng. Nghị quyết này là mốc quan trọng trong đổi mới tư duy về đại đoàn
kết dân tộc trong quá trình đổi mới đất nước.
Trên cơ sở khẳng định quan điểm “đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu
của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước”, Đảng đã đề ra chủ
trương phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố và mở rộng Mặt
trận Dân tộc Thống nhất; đưa khối đại đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới và
chiều sâu mới(12). Theo mục tiêu ấy, Đảng chủ trương đoàn kết mọi người
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam (bao gồm các giai cấp, các dân tộc,
các tôn giáo, người trong nước và người định cư ở nước ngoài) vì mục tiêu
chung là độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đó chính là điểm tương đồng để đoàn kết mọi người trong
khối đại đoàn kết, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau không trái với
lợi ích chung, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, xây dựng tinh
thần tin cậy, cởi mở, cùng hướng về tương lai của dân tộc. Chương trình của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc còn nhấn mạnh thêm tinh thần đoàn kết không phân biệt quá khứ và ý
thức hệ, chân thành đoàn kết, hoà hợp thành một khối thống nhất. Chủ
trương đoàn kết đó phù hợp với đặc điểm, tình hình đất nước, thể hiện truyền
thống bao dung, nhân ái của dân tộc và đường lối chính nghĩa của Đảng,
Nhà nước Việt Nam. Đường lối đó đã đi vào lòng người, được các tầng lớp
nhân dân cả nước đồng tình ủng hộ. Đảng đã coi đại đoàn kết dân tộc là
đường lối cơ bản; là xuất phát điểm của mọi chủ trương, chính sách, pháp
luật trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng,
đối ngoại. Để tăng cường đoàn kết, Đảng cũng chủ trương vừa thực hiện tốt
các chính sách xã hội trong điều kiện đất nước vừa trải qua chiến tranh, như
đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với nước; vừa tham gia vào
các việc công ích, các hoạt động nhân đạo từ thiện, giúp nhau xoá đói giảm
nghèo, phát huy truyền thống nhân nghĩa của cha ông.
Những chủ trương về đại đoàn kết dân tộc đã tạo cơ sở để tăng cường đoàn

kết quốc tế. Chính sách ngoại giao đa phương, đa dạng thể hiện tinh thần
đoàn kết rộng mở, Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả bạn bè
quốc tế, nhờ đó tạo nên động lực đoàn kết từ bên ngoài để thúc đẩy công
cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt, Đảng khẳng định kiều bào Việt Nam ở
nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Đảng và Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của kiều bào, giúp đỡ
kiều bào trong cuộc sống và tạo điều kiện cho kiều bào gắn bó, đóng góp xây
dựng quê hương.
Những chủ trương về đại đoàn kết dân tộc đã thúc đẩy công cuộc đổi mới,
trở thành động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Chủ trương đại đoàn kết
toàn dân tiếp tục đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng và
đạt nhiều kết quả. Khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng được mở rộng;
quy tụ ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nước và kiều bào ra
ở nước ngoài; sự liên minh, liên kết giữa công nhân, nông dân, trí thức, giữa
công nghiệp với nông nghiệp và khoa học, công nghệ, giữa lao động trí óc và
lao động chân tay có những bước tiến và nội dung mới; những sự ngăn cách
do chiến tranh để lại đã dần dần được khắc phục; các tầng lớp trong xã hội
(bao gồm cả những người trước đây đã sống và làm việc trong chế độ Sài Gòn
từ trước ngày 30 - 4 - 1975, những nhân sĩ, trí thức, các nhà doanh nghiệp tư
nhân, đồng bào có đạo, kiều bào ở ngoài nước) xích lại gần nhau hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó đang có những yếu tố tác động tiêu cực đến việc
củng cố khối đoàn kết toàn dân, như năng lực quản lý của bộ máy nhà nước
còn hạn chế; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt; tình
trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng gay gắt; cuộc đấu tranh phòng chống
tham nhũng kém hiệu quả; lòng tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa chưa thật vững chắc; chủ trương đại
đoàn kết của Đảng đề ra chưa được thể hiện đầy đủ trong các chính sách, cơ
chế quản lý trên các lĩnh vực hoạt động của xã hội; việc tổ chức thực hiện
chính sách có nhiều lúc chưa chu đáo; khối liên minh công, nông, trí thức
đang đứng trước nhiều vấn đề mới cần được nghiên cứu giải quyết; đời sống,

việc làm, dân chủ và công bằng xã hội đối với một bộ phận nhân dân chưa
được bảo đảm; mâu thuẫn trong một bộ phận nhân dân còn xảy ra ở một số
nơi và đang có xu hướng tích tụ; tình trạng khiếu kiện vẫn kéo dài; sự phân
biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế vẫn tồn tại trong tư duy của một số
người; những thiếu sót trong việc thực hiện chính sách đối với đồng bào dân
tộc thiểu số, đồng bào theo các tôn giáo vẫn chưa được khắc phục triệt để,
Những yếu tố tiêu cực nói trên đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan
tâm, khắc phục trong thời gian tới.
5. Kết luận
Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội là mục tiêu và động
lực phát triển đất nước. Hiện nay, Việt Nam tuy đã đạt được nhiều tiến bộ
trong việc thực hiện công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội,
nhưng vẫn còn phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Để giải quyết
tốt các vấn đề này, cần có sự chung sức của toàn bộ hệ thống chính trị và của
chính mỗi người dân. Đây cũng chính là yêu cầu nhằm đảm bảo cho sự phát
triển của Việt Nam là một sự phát triển bền vững./.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.77-78.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.57-59.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 69,
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam . Sđd., tr.26.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.44.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.125.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.175.
(9) Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.13; 14.
(10) Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sđd., tr. 14 - 15.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Sđd., tr. 44 - 45.
(12) Xem: Ban Dân vận Trung ương. Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường
Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 5,
6, 7.


×