Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Đề tài: " GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA HỌC THUYẾT MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.28 KB, 11 trang )
















Nghiên cứu triết học

Đề tài: " GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA HỌC
THUYẾT MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH
TẾ - XÃ HỘI "
GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA HỌC THUYẾT MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH
TẾ - XÃ HỘI


NGUYỄN DUY QUÝ(*)
Luận chứng cho giá trị bền vững của học thuyết Mác về hình thái kinh tế –
xã hội, trong bài viết này tác giả đã đưa ra và phân tích cơ sở khoa học
đúng đắn trong quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác, nội dung khái
niệm hình thái kinh tế – xã hội, ý nghĩa khoa học và cách mạng của học
thuyết này, quan niệm của C.Mác về sự phát triển của các hình thái kinh tế
– xã hội với tư cách một quá trình lịch sử – tự nhiên và khả năng có thể đi


lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Việt Nam.

Từ khi chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch của chủ nghĩa
Mác -Lênin, của chủ nghĩa xã hội càng có dịp vu cáo, xuyên tạc hòng bác
bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội
là một trọng điểm lý luận bị công kích từ nhiều phía. Hơn lúc nào hết,
những người cách mạng phải đấu tranh với các quan điểm thù địch nhằm
bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, học thuyết Mác
về hình thái kinh tế - xã hội nói riêng.
1. Quan điểm duy vật về lịch sử và khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Trước C.Mác, các nhà xã hội học, triết học đã không thể giải thích một
cách khoa học sự vận động theo quy luật khách quan của lịch sử hay vấn đề
phân kỳ lịch sử xã hội. Chẳng hạn, nhà xã hội học Italia là Vicô (1668 -
1744) đã phân chia các thời kỳ lịch sử như phân chia các giai đoạn của một
vòng đời: thơ ấu, thanh niên, thành niên và tuổi già. Nhà triết học duy tâm
Đức - Hêghen (1770 - 1831) lại phân chia lịch sử loài người thành ba thời
kỳ chủ yếu - phương Đông, Cổ đại và Giécmani. Nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng Pháp - Phuriê (1771 - 1837) đã chia tiến trình lịch sử thành
bốn thời kỳ - mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Nhà nhân
chủng học Henry Moócgan (1818 - 1881) thì phân chia lịch sử thành ba
thời kỳ chính - mông muội, dã man và văn minh.
Những cách phân kỳ như vậy không đem lại cách nhìn khoa học về một xã
hội cụ thể. Đến C.Mác, khi dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và
tổng kết quá trình lịch sử, ông đã đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và
hình thành học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội với những nội dung
chính sau đây:
Thứ nhất, thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển
xã hội.
Sản xuất xã hội là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội

loài người, đó là cái phân biệt "sự khác nhau cơ bản giữa xã hội loài người
và loài súc vật". Sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh
thần và sản xuất ra bản thân con người. Trong hiện thực, ba quá trình này
của sản xuất không tách biệt nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò
nền tảng, là cơ sở cho sự tồn tại, phát triển xã hội và xét đến cùng, nó là cái
quy định và quyết định toàn bộ đời sống xã hội.
Thứ hai, khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất.
C.Mác viết: "Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay
đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất,
cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội
của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối
xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp"(1).
Như vậy, theo C.Mác, lực lượng sản xuất, xét đến cùng, là cái đóng vai
trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay
đổi toàn bộ các quan hệ xã hội.
Thứ ba, khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng
Trong quan niệm của C.Mác, quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng, mặc dù kiến trúc thượng tầng có khả năng tác động trở lại đối
với cơ sở hạ tầng. C.Mác viết: "Không thể lấy bản thân những quan hệ
pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát
triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và
hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt
nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất Nếu ta không thể nhận định
về con người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta
cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý
thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu

thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng
sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội"(2).
Từ những quan điểm cơ bản này, C.Mác đi đến một kết luận hết sức khái
quát là: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có
những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan
hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện
thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và
những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực
đó"(3).
Từ đó, có thể đi tới định nghĩa hình thái kinh tế - xã hội là một khái niệm
của chủ nghĩa duy vật lịch sử "dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp
với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy"(4).
2. Ý nghĩa khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái
kinh tế - xã hội
Xét trong bối cảnh lịch sử của khoa học xã hội nói chung và triết học nói
riêng, có thể nói, học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác ra đời
là một cuộc cách mạng thực sự. Khác với tất cả các lý luận duy tâm, thần bí
hay siêu hình trước đó, nó đã chỉ ra rằng, động lực của lịch sử không phải
là một thứ tinh thần thần bí nào, mà chính là hoạt động thực tiễn của con
người, mà hoạt động đó lại xuất phát từ "cái sự thật hiển nhiên là trước
hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước
khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động
chính trị, tôn giáo, triết học, v.v."(5).
Khác với các lý luận trước đó – những lý luận đã không thấy được tính quy
luật, những biểu hiện phổ biến tồn tại trong tất cả các chế độ xã hội, lý luận
của C.Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội vật chất, tức là những quan

hệ sản xuất, những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định đối với tất cả
mọi quan hệ khác và bằng cách này, đã cung cấp cho khoa học xã hội một
tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để thấy được các quy luật xã hội.
Đánh giá ý nghĩa khoa học và cách mạng trong học thuyết Mác về hình thái
kinh tế – xã hội, V.I.Lênin đã khẳng định: " Có thể đem những chế độ
của các nước khác nhau khái quát lại thành một khái niệm cơ bản duy nhất
là: hình thái xã hội. Chỉ có sự khái quát đó mới cho phép chuyển từ việc
mô tả (và từ việc đánh giá theo quan điểm lý tưởng) những hiện tượng xã
hội sang việc phân tích hiện tượng đó một cách hết sức khoa học"(6).
Tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã
hội còn là ở chỗ, khi phân tích quy luật vận động của một hình thái nhất
định, học thuyết này chỉ ra những mâu thuẫn bên trong và khẳng định
chính sự vận động của mâu thuẫn này, cuối cùng, sẽ dẫn đến sự chuyển
hóa từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội
khác. Do đó, một mặt, khẳng định tính tất yếu của trật tự hiện thời (trật tự của
chế độ tư bản chủ nghĩa), mặt khác, C.Mác cũng chứng minh luôn cả tính
tất yếu của một trật tự cao hơn mà hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa nhất thiết phải chuyển sang.
Trong những năm gần đây, những người muốn phủ định học thuyết Mác về
hình thái kinh tế - xã hội đã đưa ra một nhận định là cách tiếp cận hình thái
đã lạc hậu so với thời cuộc và họ muốn thay vào đó cách tiếp cận bằng các
nền văn minh. Họ cho rằng, dường như cách tiếp cận hình thái chỉ nhấn
mạnh yếu tố quan hệ sản xuất và vấn đề giai cấp, mà không thấy biểu hiện
phổ biến hơn, khái quát hơn, là nền văn minh.
Sự phê phán ấy có đúng không?
Có thể nói một cách khách quan rằng, phương pháp tiếp cận bằng các nền
văn minh (văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu
công nghiệp) cũng có những giá trị nhất định, nhưng cách tiếp cận này đã
phạm sai lầm căn bản là chỉ coi trình độ phát triển khoa học - công nghệ,
lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định duy nhất, bỏ qua vai trò của quan

hệ sản xuất, các mối quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp và do đó, không
thấy được một cách đầy đủ, nhất quán các mặt phức tạp của mỗi xã hội, từ
các vấn đề của hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc, từ vấn đề kinh tế
đến vấn đề tinh thần, chính trị, tôn giáo, v.v Vì vậy, xét theo góc độ khoa
học, không thể đem phương pháp tiếp cận theo các nền văn minh thay thế
học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội để phân tích lịch sử và nhận
thức các vấn đề xã hội.
Hiểu thế nào về sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên?
C.Mác viết: "Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên"(7). V.I.Lênin giải thích thêm: "Chỉ có đem
quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những
quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta
mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những
hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có
một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội được"(8).
Chúng ta đều biết, quy luật của đời sống xã hội có đặc điểm là tác động
thông qua con người. Song, không phải vì thế mà nó không mang tính
khách quan. Ngược lại, xã hội vận động theo những quy luật không những
không phụ thuộc, mà còn quyết định cả ý chí, ý thức và ý định của con
người.
Nhìn chung, cho đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua bốn hình thái kinh tế
- xã hội kế tiếp nhau: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến,
tư bản chủ nghĩa và đang quá độ sang xã hội xã hội chủ nghĩa - giai đoạn
đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhưng, xét từng
quốc gia dân tộc thì do những đặc điểm về lịch sử, không phải quốc gia nào
cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội theo một sơ đồ
chung. Nghiên cứu lịch sử các nước cho thấy, có những nước đã bỏ qua
một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong tiến trình phát triển của mình.
Chẳng hạn như ở Italia, Pháp, Tây Ban Nha , chế độ phong kiến đã bắt

đầu hình thành trong lòng chế độ nô lệ. Trong khi đó, ở Nga, Ba Lan,
Đức , chế độ phong kiến ra đời không phải từ chế độ nô lệ. Ở Mỹ, do đặc
điểm lịch sử của nó, chế độ tư bản hình thành trong điều kiện xã hội không
trải qua chế độ phong kiến. Ngay ở Việt Nam, trong tiến trình phát triển
lịch sử của mình, chúng ta đã không trải qua chế độ nô lệ.
Các nước không qua hình thái này hay hình thái khác là sự thật lịch sử và
là quá trình lịch sử - tự nhiên của các quốc gia đó. Sở dĩ có tình hình ấy là
vì, sự vận động của xã hội diễn ra không đồng đều giữa các quốc gia, giữa
các vùng. Lịch sử thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về
sản xuất vật chất, về kỹ thuật hoặc về văn hóa và chính trị Sự giao lưu,
xâm nhập, tác động qua lại giữa các trung tâm đó làm xuất hiện khả năng
một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không lặp lại một
cách tuần tự các quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Đây chính là vai
trò và ý nghĩa của thời đại đối với sự phát triển các quốc gia trong từng thời
kỳ lịch sử nhất định.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả
trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể nhất định.
Từ lâu (và ngay cả hiện nay), có một số người do không nhận thức được
vấn đề này hoặc với dụng ý xấu hòng phủ định con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, đã nói rằng, con đường mà chúng ta đã lựa chọn
dường như trái với lý luận của C. Mác về "quá trình lịch sử - tự nhiên". Họ
cho rằng, ở nước ta, quá trình lịch sử - tự nhiên nhất thiết phải phát triển
tuần tự và tất nhiên, hướng trước mắt phải là chủ nghĩa tư bản. Thật là phi
lịch sử và không phù hợp với quan niệm của C.Mác về quá trình lịch sử -
tự nhiên.
3. Khả năng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa của Việt Nam
Lý luận về sự phát triển lịch sử - tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội

không mâu thuẫn với lý luận về sự phát triển bỏ qua (hay sự phát triển rút
ngắn) mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề ra.
Để có thể phát triển bỏ qua hay rút ngắn lên chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đối với các nước tiền tư bản chủ
nghĩa phải có tấm gương của một cuộc cách mạng vô sản đã thắng lợi ở các
nước tư bản phát triển. Đối với Việt Nam, cho đến nay, những bài học, cả
về thành công lẫn thất bại, của các cuộc cách mạng vô sản đều hết sức bổ
ích.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ rằng, cần phải có sự
giúp đỡ tích cực của các nước tiên tiến đã xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, các nước tiền tư bản chủ nghĩa mới có thể rút ngắn được con đường
đi tới chủ nghĩa xã hội, thì ở Việt Nam cũng có điều kiện này. Trước đây,
chúng ta có sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa để xây dựng đất
nước ta theo con đường xã hội chủ nghĩa. Từ sau khi chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, tính chất của sự giúp đỡ
quốc tế đã ít nhiều có sự thay đổi. Nhưng, sự hợp tác và giúp đỡ quốc tế
giờ đây, trong những khía cạnh nào đó, lại đa dạng và có quy mô to lớn
hơn trước. Và, đây chính là một trong những nguyên nhân đã tạo nên
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước ta.
Chúng ta đang sống trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại. Cuộc cách mạng này vừa tạo ra thời cơ thuận lợi cho phép một quốc
gia có thể phát triển nhảy vọt trong một thời gian khá ngắn, như thực tế nhiều
quốc gia đã chứng minh. Nếu chúng ta tận dụng được thời cơ và vượt qua
được thách thức thì có thể tạo ra được những cơ sở để thực hiện sự phát triển
rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trên con đường đi tới chủ nghĩa xã
hội.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn nhấn mạnh vai trò của
Đảng, của giai cấp công nhân như một yếu tố không thể thiếu được trong
việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc thực hiện quá trình phát

triển rút ngắn đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản. Điều này đã
thể hiện rất rõ ở Việt Nam. Là một Đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng
tạo, gắn bó với quần chúng, trong những thời điểm phong trào xã hội chủ
nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự khủng hoảng, Đảng
Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi
đường lối đổi mới, vượt qua những hiểm nghèo, đưa công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước tiến lên một cách vững chắc.
Sau hơn nửa thế kỷ đấu tranh và xây dựng xã mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, khuynh hướng chính trị bỏ qua chế độ tư bản,
tiến lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành sức mạnh vật chất bám rễ sâu trong
xã hội Việt Nam. Yếu tố chính trị rất đáng kể này có vai trò rất quan trọng
trong việc thu hút và chuyển hóa nhân tố thời đại thành nguồn lực bên
trong để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những cơ sở kinh tế, kỹ thuật và tài nguyên quốc gia mà chúng ta giành
lại được từ tay các thế lực đế quốc, thực dân, cùng với những cơ sở vật
chất đã xây dựng được nhờ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây và những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới hiện
nay cũng là những tiền đề kinh tế, kỹ thuật cho bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Và, đó là con
đường phát triển hợp với thời đại hiện nay./.

(*) Giáo sư, Viện sĩ, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Giám đốc
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học
xã hội Việt Nam).
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995, tr. 187.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr. 14,15.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.13, tr. 14-15.
(4) Xem: Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 18.

(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.19, tr. 166.
(6) V.I.Lênin. Toàn tập, t.1. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1971, tr. 163.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr. 21.
(8) V.I.Lênin. Sđd., t.1, tr. 163.


×