Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Mùa hè, cẩn thận viêm ruột hoại tử pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.3 KB, 5 trang )

Mùa hè, cẩn thận viêm ruột hoại tử
Viêm ruột hoại tử là một bệnh cấp tính, thường xảy ra
vào mùa hè, gặp nhiều ở trẻ em, do vi khuẩn
Clostridium Welchi gây ra. Bệnh gây nhiễm độc và
hoại tử ruột. Ăn uống thiếu chất đạm, kèm theo tình
trạng vệ sinh môi trường và thực phẩm kém làm tăng
nguy cơ mắc bệnh.


Ảnh: minh họa - Internet
Do đâu trẻ em dễ bị viêm ruột hoại tử?
Viêm ruột hoại tử (VRHT) do vi khuẩn Clostridium
Welchi type C (CWC) gây ra. Bệnh gây nhiễm độc với
tổn thương hoại tử ruột. Vi khuẩn CWC có thể tìm thấy
trong phân của bò, lợn và cả trong phân của người lành.
Những yếu tố nguy cơ gây bệnh là: vệ sinh môi trường và
vệ sinh thực phẩm kém; trẻ em bị nhiễm giun đũa; người
ăn ít chất đạm, nay đột nhiên được ăn nhiều thịt, nhất là
thức ăn đó bị nhiễm khuẩn này làm cho cơ thể thiếu hụt
nhất thời men trypsin.
Độc tố toxin của vi khuẩn rất dễ bị hủy diệt bởi men
trypsin. Nếu người ăn ít protein, hoặc ăn loại thức ăn có
nhiều chất chống trypsin như: khoai lang, đậu nành, cơ
thể có nhiều giun đũa khi đó độc tố toxin không bị trung
hòa bởi men trypsin của ruột, gây nên hoại tử ruột.
Cách phát hiện bệnh
Một người bị nhiễm khuẩn thì sau thời gian ủ bệnh trung
bình từ vài giờ đến vài ngày sẽ bị đau bụng - là triệu
chứng đầu tiên của bệnh - xuất hiện sớm nhất nhưng lại
hết đau chậm nhất. Lúc đầu trẻ đau từng cơn, sau đó đau
âm ỉ, đau tăng khi ăn uống. Đau ở vùng thượng vị hoặc


quanh rốn, nhưng có khi không xác định được vị trí đau.
Đau kéo dài từ 4 - 12 ngày, trung bình là 9 ngày.
Trường hợp VRHT có choáng, cơn đau dữ dội hơn và kéo
dài trên 9 ngày. Sốt xuất hiện sau đau bụng, tất cả bệnh
nhân bị bệnh đều có sốt. Trường hợp có choáng, sốt
thường cao trên 38,5°C. Khi thấy sốt cao kéo dài, hoặc
xuất hiện sau tuần thứ hai, cần cảnh giác phát hiện những
biến chứng của VRHT như tắc ruột, viêm phúc mạc, viêm
phổi
Choáng thường xảy ra vào ngày thứ nhất hoặc thứ hai của
bệnh, ít khi xảy ra vào ngày thứ 3, thứ 4, rất hiếm vào
ngày thứ 5, thứ 6. Kèm với choáng, bệnh nhân có nổi vân
tím. Tỷ lệ tử vong cao nếu có vân tím xuất hiện. Choáng
thường hồi phục trước 24 giờ nếu bệnh nhân còn sống.
100% bệnh nhân có đại tiện ra máu, từ ngày đầu hoặc
ngày thứ 2 của bệnh, là triệu chứng quan trọng nhất có giá
trị quyết định chẩn đoán. Phân thường có màu đen nâu,
lỏng, có mùi thối khắm. Lượng phân mỗi lần đi khoảng
50-200ml, bệnh nhân đi ngoài dễ dàng, không mót rặn,
nhưng có trường hợp trẻ không tự đi ngoài được, phải ấn
mạnh vào bụng hoặc thăm trực tràng, hoặc đặt ống xông
trực tràng thì phân mới ra được.
Số ít trường hợp có táo bón sau một vài ngày đại tiện ra
máu, kéo dài 2 - 3 ngày, hay kéo dài đến 10 ngày. Nếu táo
bón xuất hiện mà các triệu chứng khá hơn như hết sốt
hoặc giảm sốt, hoặc bụng bớt trướng thì đó là diễn tiến tốt
của bệnh.
Trái lại, nếu bị táo bón mà sốt gia tăng, đau bụng tăng hay
bụng trướng hoặc nôn xuất hiện thì có thể là biến chứng
tắc ruột, thủng ruột hay viêm phúc mạc. Nôn xuất hiện từ

ngày thứ nhất đến thứ hai của bệnh và hết nôn vào ngày
thứ 3, ít khi kéo dài quá 7 ngày. Nôn tái xuất hiện vào
tuần lễ thứ 2 thì thường là do biến chứng tắc ruột.
Chất nôn là dịch dạ dày, có thể kèm theo giun đũa. Nếu
bệnh nặng, chất nôn có thể có máu đen nâu hoặc máu bầm
lợn cợn. Bụng trướng tương đối muộn, thường vào ngày
thứ 3, nếu bụng trướng sớm là dấu hiệu của bệnh nặng.
Khi bụng trướng đến tuần lễ thứ 2, cần theo dõi biến
chứng tắc ruột.
Nếu bệnh nhân sốt cao trên 39°C, triệu chứng nhiễm độc
nhiễm khuẩn nặng, nôn nhiều, bụng trướng sớm và càng
có nhiều triệu chứng thì bệnh càng nặng.
Các xét nghiệm: soi phân thấy tỷ lệ giun đũa và giun móc
cao, mật độ trứng giun đũa trong nhóm trẻ bị VRHT cao
gấp 2 lần so với nhóm trẻ bình thường. Cấy phân tìm thấy
vi khuẩn trong dịch ruột non vùng tổn thương. Chụp
Xquang có hình ảnh tắc ruột với mức hơi - nước; hình ảnh
đèn xếp ở bên trái ổ bụng…
Phương pháp điều trị và phòng bệnh
Cần lưu ý, bệnh VRHT là một bệnh nặng, diễn biến
nhanh, vì thế khi phát hiện bệnh phải chuyển ngay bệnh
nhân đến bệnh viện để điều trị. Nếu bệnh nhân không có
choáng, điều trị bằng bồi phụ nước và điện giải, làm cho
bụng bớt trướng. Có thể cho bệnh nhân uống dung dịch
oresol hoặc truyền ringer lactate là việc làm rất quan trọng
để cấp cứu.
Về dinh dưỡng, nên cho trẻ ăn thức ăn nhẹ như nước súp,
sữa, hay bột lỏng ngay từ ngày đầu nếu trẻ không nôn,
bụng trướng nhẹ, lượng phân ít. Cho ăn ít một và ăn nhiều
bữa trong ngày. Nếu triệu chứng cải thiện nhiều, có thể

cho ăn thức ăn đặc dần. Trường hợp nặng hoặc nôn nhiều,
bụng trướng thì phải nhịn ăn, nhưng cần cho trẻ ăn sớm
khi các triệu chứng đã cải thiện.
Thuốc dùng gồm: penicillin và gentamycin tiêm, hay
thuốc uống cefotaxim phối hợp với metronidazole. Các
trường hợp: bệnh nhẹ mà diễn biến xấu hơn; sau 2 ngày
điều trị mà dấu hiệu nhiễm độc gia tăng; bụng trướng và
đau bụng tăng, hút dịch đen nâu ở dạ dày; nghi ngờ thủng
ruột hay tắc ruột; bệnh nặng có choáng hoặc có nguy cơ
choáng thì cần phẫu thuật để cắt bỏ đoạn ruột hoại tử; dẫn
lưu ruột; hoặc bơm ôxy để điều trị.
Phòng bệnh bằng các biện pháp: làm tốt công tác vệ sinh
môi trường, nhất là vệ sinh phân - nước - rác, vệ sinh an
toàn thực phẩm. Dùng vaccin cho trẻ lúc 2, 4, 6 tháng
tuổi. Dinh dưỡng: ăn thức ăn giàu đạm, tránh ăn khoai
lang sống, hoặc ăn khoai lang kèm theo một bữa tiệc. Tẩy
giun đũa định kỳ…

×