Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Đề tài triết học " CẢI CÁCH MỞ CỬA - SỰ LỰA CHỌN THEN CHỐT QUYẾT ĐỊNH VẬN MỆNH TRUNG QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.76 KB, 30 trang )










Đề tài triết học

CẢI CÁCH MỞ CỬA - SỰ LỰA
CHỌN THEN CHỐT QUYẾT ĐỊNH
VẬN MỆNH TRUNG QUỐC
ĐƯƠNG ĐẠI





CẢI CÁCH MỞ CỬA - SỰ LỰA CHỌN THEN CHỐT QUYẾT ĐỊNH VẬN
MỆNH TRUNG QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI

HẦU HUỆ CẦN(*)
Bài viết đưa ra những luận giải để làm rõ rằng, xét từ tư tưởng chỉ đạo của
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ mới, việc kiên trì chủ nghĩa xã hội
mang đặc sắc Trung Quốc đồng nghĩa với việc cải cách mở cửa. Cải cách mở
cửa mà thoát ly chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội mà không có cải cách mở
cửa đều dẫn đến đường cụt. Theo tác giả, cải cách mở cửa là sự lựa chọn mang
tính lịch sử liên quan đến việc Trung Quốc giương lá cờ gì và đi con đường
nào, là sự lựa chọn duy nhất nhằm vượt qua thách thức, tiếp thêm sức sống cho


xã hội. Đồng thời, đó là sự lựa chọn đúng đắn trong quá trình không ngừng loại
bỏ những sai lầm nhằm thích ứng với những biến động lớn về cục diện lợi ích
thế giới trong bối cảnh mới và luôn đại diện trung thành cho lợi ích của nhân
dân v.v

Đại hội Đảng lần thứ XVII đã có nhận định rất quan trọng về cải cách mở cửa,
coi “cải cách mở cửa là sự lựa chọn then chốt quyết định vận mệnh Trung Quốc
đương đại, là con đường tất yếu phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc,
thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa; chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới có thể cứu Trung Quốc, chỉ có mở cửa cải cách mới có thể phát triển
Trung Quốc, phát triển xã hội chủ nghĩa, phát triển chủ nghĩa Mác”. Nhận định
này cho thấy tính thống nhất nội tại giữa chủ nghĩa xã hội với cải cách mở cửa,
chúng ta bắt buộc phải từ cùng một tầm cao khái niệm của cả hai điều này mới









Đề tài triết học

CẢI CÁCH MỞ CỬA - SỰ LỰA
CHỌN THEN CHỐT QUYẾT ĐỊNH
VẬN MỆNH TRUNG QUỐC
ĐƯƠNG ĐẠI






có thể lý giải một cách sâu sắc ý nghĩa vĩ đại của cải cách mở cửa. Do vậy, bắt
buộc phải nắm chắc ba vấn đề mấu chốt: một là, cải cách mở cửa là lựa chọn
then chốt cho vận mệnh Trung Quốc đương đại, trước hết bởi nó quyết định
Trung Quốc đương đại giương lá cờ gì, đi con đường nào. Do đó, cần phải làm
rõ một vấn đề là lý giải thế nào về thách thức to lớn “đi theo hướng nào” mà
Trung Quốc trước khi cải cách mở cửa phải đối mặt? Hai là, cải cách mở cửa
được coi là lựa chọn then chốt quyết định tới vận mệnh Trung Quốc đương đại
còn bởi nó là động lực to lớn cho phát triển chủ nghĩa xã hội mang màu sắc
Trung Quốc. Vậy, còn phải làm rõ một vấn đề: nguồn động lực này được hình
thành như thế nào? Nó có tính chất đặc thù gì mới so với động lực mà cuộc cách
mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội lâu dài mà chúng ta vẫn dựa vào? Ba là, sở
dĩ cải cách mở cửa là lựa chọn then chốt quyết định tới vận mệnh Trung Quốc
đương đại còn bởi nó hợp với ý Đảng lòng dân, thuận theo xu thế lịch sử lớn
của thời đại. Do đó, phải làm rõ một vấn đề là việc định hướng lịch sử trong
thực tiễn vì sao lại gian nan đến vậy? Phải chăng là đầy rẫy cạm bẫy và sự
chống phá không ngừng?
1. Cải cách mở cửa là lựa chọn lịch sử liên quan mật thiết tới việc Trung
Quốc đương đại giương ngọn cờ gì, đi con đường nào
Rất nhiều quốc gia trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã chịu nhiều tổn
thất, thậm chí mất nước mất Đảng, mà nguyên nhân đều là do không nhìn thấy
một cách chính xác sự biến đổi của điều kiện lịch sử, không có ứng phó sáng tạo
đối với những câu hỏi mới mà thời đại đặt ra. Trái lại, con đường xã hội chủ
nghĩa mang màu sắc Trung Quốc chính là một sự sáng tạo trong quá trình ứng
phó không ngừng với những thách thức của thời đại, được xây dựng trên cơ sở
tổng kết một cách khoa học kinh nghiệm lịch sử của chủ nghĩa xã hội từ “Cách
mạng tháng Mười”. Thực chất, con đường này chính là trả lời cho câu hỏi trọng
đại của lịch sử do “Cách mạng tháng Mười” đặt ra: những nước kém phát triển

sau khi tiến hành cách mạng và lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phải
làm thế nào để có thể xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội; quỹ đạo cơ bản
của nó là từ chỗ tuân theo “mô hình Liên Xô” chuyển sang “đặc sắc Trung
Quốc”. Do vậy, chỉ có làm rõ mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc với thực tiễn xã hội chủ nghĩa trước đó mới có thể giương cao thực sự lá
cờ Trung Quốc đương đại phát triển tiến bộ ấy, và cũng mới có thể thấy rõ ý
nghĩa mang tính quyết định của cải cách mở cửa đối với Trung Quốc đương đại.
Ở đây, chủ yếu đề cập tới việc nhận thức một cách chính xác hai cuộc tìm kiếm
lịch sử to lớn (tức “mô hình Liên Xô” và con đường xã hội chủ nghĩa của Mao
Trạch Đông), vấn đề then chốt là giương ngọn cờ nào, đi con đường nào.
Vấn đề bức thiết đặt ra trước chúng ta là, sau khi kết thúc “Cách mạng văn
hoá”, Trung Quốc có tồn tại hay không tồn tại vấn đề lựa chọn con đường “đi
theo hướng nào”, nếu có thì phải giới định trên ý nghĩa nào. Bất luận là thời
điểm ấy hay hiện nay, đều tồn tại hai khuynh hướng: một là, phủ định sạch trơn
thành tựu của 17 năm trước Cách mạng văn hoá, coi cải cách mở cửa như một
cuộc xây dựng mới, “thay đàn đổi dây”, trên thực tế là quay về với chủ nghĩa tư
bản; hai là, thoả mãn với thành tựu của 17 năm đó, coi lập lại trật tự chỉ giản
đơn là quay về thời kỳ “mười bảy năm”, không nhận thấy phải tìm kiếm một
con đường mới chưa từng có đáp án nào. Điều quan trọng ở đây là phải đánh giá
một cách khoa học về 17 năm đó. Từ quan điểm lịch sử, thành tựu của 17 năm
là chủ yếu, những tiền đề chính trị và cơ sở chế độ do nó đặt định là điểm xuất
phát cho tất cả những tìm kiếm của chúng ta; từ quan điểm phát triển, công cuộc
tìm kiếm trong 17 năm không thực sự giải quyết được vấn đề con đường phát
triển xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc lấy “Liên Xô làm tiêu chí”, mà chúng ta
phải tự đi theo con đường của mình. Nếu chỉ đơn giản nắm vững cái trước sẽ
phủ định cải cách mở cửa, cố thủ con đường cũ; còn nếu chỉ nắm chặt cái sau thì
sẽ cắt đứt với lịch sử, đi vào con đường sai lầm. Do vậy, nếu không thừa nhận ý
nghĩa có tính quyết định, tính cách mạng của cải cách mở cửa thì sẽ đi vào con
đường mòn đã bị thực tiễn chứng minh là bế tắc, cứng nhắc; nhưng nếu không
thừa nhận cơ sở xã hội chủ nghĩa đã được gây dựng qua 17 năm tìm kiếm, thì sẽ

rơi vào con đường sai lầm tư bản chủ nghĩa hoá mà lịch sử cũng đã chứng minh
là không thể đi theo. Cả hai đều là những sai lầm về con đường căn bản. Lịch sử
phát triển của Trung Quốc đã cho thấy, việc lựa chọn con đường nào là vấn đề
không chỉ đặt ra trong thời kỳ cách mạng, mà còn xuyên suốt mọi bước ngoặt
trọng đại của các thời kỳ phát triển. Xét từ góc độ tư tưởng chỉ đạo của Đảng,
kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc với kiên trì cải
cách mở cửa là những từ đồng nghĩa, nếu không có cải cách mở cửa xã hội chủ
nghĩa và không có xã hội chủ nghĩa cải cách mở cửa thì đều là ngõ cụt. Đứng
trước muôn vàn tình hình mới, chỉ có kiên trì phương hướng cải cách mở cửa,
phát triển xã hội chủ nghĩa mới có thể ứng phó kịp.
Ngày nay, chúng ta có thể nhận thấy rất rõ rằng, khi nói đến hoà bình và phát
triển do Đặng Tiểu Bình đưa ra đang trở thành chủ đề của thời đại, thì nó có
nghĩa là phải có sự điều chỉnh căn bản tư duy chiến lược của thực tiễn xã hội
chủ nghĩa từ Cách mạng tháng Mười trở lại đây. “Cách mạng tháng Mười”
chính là thành quả sáng tạo to lớn để trả lời cho những vấn đề mang tính thời
đại: chiến tranh và hoà bình, chiến tranh và cách mạng. Nó mở ra con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa theo mô thức “đột phá ngoại vi” vào điểm yếu nhất
của chủ nghĩa tư bản, đồng thời trở thành phương thức chủ yếu cho một loạt
nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, “đột phá ngoại vi” không thể trực tiếp dẫn
dắt trào lưu lịch sử toàn thế giới, mà chỉ có trong “cơn nguy cấp” của việc nó bị
chuyển hoá thành chủ nghĩa tư bản - mới có thể xoay chuyển cục diện thế giới
do chủ nghĩa tư bản làm chủ đạo. Mặc dù vậy, đặc trưng mới của chủ nghĩa tư
bản đã biến đổi thêm một bước, khéo léo giảm bớt việc dựa vào xuất khẩu tư
bản cứng ra khu vực ngoại vi, mà chủ yếu thông qua khống chế mềm bằng việc
chi phối phát minh khoa học kỹ thuật, lũng đoạn tiền tệ và thông tin cho đến
quyền phát ngôn, sự thao túng các quy tắc trong trò chơi quốc tế, v.v. để duy trì
và bảo vệ sức sống của tư bản. Do vậy, thông qua phương thức độc lập chính trị
đối với chủ nghĩa tư bản ngoại vi và kinh tế theo sau nó không thể trực tiếp dẫn
tới nguy cơ toàn cục của chủ nghĩa tư bản, làm lung lay căn bản sự thống trị
toàn cầu của chủ nghĩa tư bản. Ở đây, muốn nói tới một điều là, do sự biến đổi

của chủ nghĩa tư bản sau Chiến tranh thế giới thứ II, địa vị ưu thế của nó về mặt
kinh tế - kỹ thuật chưa hề bị mất đi, mặt trận chủ yếu để chủ nghĩa xã hội thay
thế chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ chính trị sang kinh tế, từ cách mạng sang
phát triển, cũng tương tự như vậy, đặc trưng thời đại cũng đã chuyển từ cách
mạng và chiến tranh sang hoà bình và phát triển.
Điều này trước hết cho thấy, nếu tổng nội lực quốc gia xã hội chủ nghĩa, bao gồm
“quyền lực mềm” bên trong, không thể vượt qua các nước phát triển tư bản chủ
nghĩa, thì chẳng những không thể dẫn dắt trào lưu thế giới, mà thậm chí quyền lợi
tồn tại của bản thân cũng sẽ bị tước đoạt. Chủ nghĩa xã hội trước những câu hỏi
của thời đại buộc phải có động thái nào đó mới có được sức sống mạnh mẽ và
không gian phát triển. Điều này đồng thời cũng cho thấy, sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội, ngoài cơ chế động lực truyền thống (khích lệ lý tưởng chung, đảm
bảo công tác chính trị), còn cần phải đưa ra cơ chế động lực mới thúc đẩy con
người, khiến nó chứa đầy sức sống. Bởi vậy, cải cách mở cửa, phát triển trở thành
nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của việc cầm quyền; chấn hưng đất nước, xây dựng
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, v.v. trở thành ý nghĩa cần có trong chủ đề.
Trong đó, cải cách mở cửa là sự lựa chọn then chốt có ý nghĩa quyết định.
Một loạt những tình huống, vấn đề mới đặt ra trước mắt đòi hỏi chúng ta trước
hết phải có sự chuyển biến trong quan niệm, khái quát lại chính là cần từ sự
trừu tượng tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội để quay trở lại hiện thực, thay đổi
bước xuất phát từ chỗ dẫn dắt trào lưu lịch sử thế giới sang giải quyết tốt những
vấn đề của chính Trung Quốc, suy nghĩ nghiêm túc về làm sao có thể lợi dụng
chủ nghĩa tư bản để phát triển chủ nghĩa xã hội, đồng thời tìm tòi con đường
phát triển chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình Trung Quốc trong khi cùng
chung sống với chủ nghĩa tư bản. Mấu chốt của tất cả chính là thúc đẩy cải cách
mở cửa. Đặng Tiểu Bình ngay từ đầu đã nói rõ, sợ chủ nghĩa xã hội đi vào con
đường sai lầm mà không mở cửa thì không thể phát triển chủ nghĩa xã hội; trong
khi lại không nhận thấy mở cửa có thể đem tới những nhân tố tiêu cực (cơ bản
nhất là hậu quả “Tây hoá”, “phân hoá”) và phải khắc phục, thì đó không phải là
cải cách mở cửa mà chúng ta nói tới. Chính vì kiên trì sự cải cách mở cửa theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta trải qua 30 năm nỗ lực mới khai thác
thành công con đường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc.
2. Cải cách mở cửa là lựa chọn duy nhất để phát triển sức sống của xã hội
chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội trước hết phát triển lên từ vùng ngoại vi của chủ nghĩa tư bản,
đây là điểm không giống với những dự đoán của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ
lịch sử, hoàn cảnh trong nước và quốc tế cụ thể chưa đủ điền kiện để phát sinh
cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra tại mắt xích yếu
nhất của chủ nghĩa tư bản là có căn cứ lịch sử khách quan. Quan điểm cho rằng
chủ nghĩa xã hội là “đẻ non”, thậm chí là “quái thai của lịch sử” là quan điểm
sai lầm cơ bản. Lý luận về chủ nghĩa đế quốc của V.I.Lênin đã đặt nền móng
cho việc trả lời vấn đề này. Thế nhưng, do cách mạng xã hội chủ nghĩa trước hết
nổ ra tại mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là việc tự điều chỉnh
của chủ nghĩa tư bản sau chiến tranh và những biến đổi mới mang đặc trưng
thời đại, khiến cho những nước xã hội chủ nghĩa giành được thắng lợi sau cách
mạng phải đối mặt với ba điều “không thể tránh khỏi” và ba thử thách lớn.
Cần phải xem xét ba thứ “không thể tránh khỏi” đó. Một là, vấn đề tồn tại chung
lâu dài với chủ nghĩa tư bản. Do cách mạng nổ ra trước hết tại những khu vực
ngoại vi tương đối yếu ớt hoặc cực kỳ yếu ớt của chủ nghĩa tư bản nên không
thể làm lung lay hạt nhân của chủ nghĩa tư bản, không thể sinh ra phản ứng dây
chuyền theo kiểu “đôminô”. Điều này cho thấy, không thể thông qua bạo lực
cách mạng không ngừng để lật đổ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội buộc phải
tồn tại lâu dài cùng với chủ nghĩa tư bản, đồng thời nỗ lực trong quá trình xây
dựng, thực hiện cạnh tranh, tích luỹ sức mạnh để vượt qua chủ nghĩa tư bản. Tất
nhiên, đây là một quá trình lịch sử lâu dài. Hai là, không thể rũ bỏ kinh tế thị
trường, hai loại chế độ xã hội cùng tồn tại lâu dài buộc phải tiến hành giao lưu
kinh tế. Do chủ nghĩa xã hội trong một giai đoạn rất dài lạc hậu hơn so với chủ
nghĩa tư bản nên nó không thể dẫn dắt sự phát triển của kinh tế thế giới. Do đó,
nó buộc phải gia nhập vào thị trường thế giới do chủ nghĩa tư bản làm chủ mới

có thể có được không gian và sức sống phát triển, phát triển kinh tế thị trường là
không tránh khỏi. Ba là, cải cách mở cửa ở các nước xã hội chủ nghĩa là vấn đề
tất yếu. Xét từ góc độ phát triển, tiến lên chủ nghĩa xã hội từ những khu vực
tương đối lạc hậu, tự khép kín mình không có đường tiến, mà cần phải gia nhập
vào thị trường thế giới do chủ nghĩa tư bản đóng vai trò chủ đạo. Không có cách
nào khác ngoài việc thông qua mở cửa với bên ngoài và cải cách ở bên trong
mới có thể mở tung cửa để phát triển chủ nghĩa xã hội, mở cửa cải cách là con
đường duy nhất. “Ba thứ không tránh khỏi” đó cho thấy, thực tiễn chủ nghĩa xã
hội của Trung Quốc đương đại đang ở trong một điều kiện lịch sử hoàn toàn
mới, không có con đường có sẵn nào có thể đi; không nỗ lực vượt qua mọi thách
thức, chủ nghĩa xã hội sẽ không thể thoát khỏi bị động và đi vào ngõ cụt.
Xét từ ba thách thức lớn, đó là, thứ nhất, vấn đề quan hệ giữa tính đa dạng và
tính quốc tế của chủ nghĩa xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra tại các
quốc gia có những bối cảnh xã hội, lịch sử, văn hoá khác nhau rất lớn, không thể
vận dụng cùng một mô thức thống nhất, mà nhất thiết bắt buộc phải đi theo con
đường phù hợp với tình hình cụ thể của mỗi nước. Ở Trung Quốc, “Tinh thần cơ
bản của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI là giải phóng tư tưởng, tư duy độc
lập, từ thực tế của mình để chế định chính sách. Chính do việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội tại Trung Quốc như vậy, nên không thể tìm thấy những chỉ dẫn
trực tiếp từ C.Mác và V.I.Lê nin, mỗi quốc gia có tình huống của mình, có
những trải nghiệm lịch sử không giống nhau, cho nên cần phải có tư duy độc
lập”(1). Chủ nghĩa xã hội cần đặc sắc hoá, chủ nghĩa Mác cần được dân tộc hoá,
việc giải quyết vấn đề này thành công hay không sẽ quyết định vận mệnh của
chủ nghĩa Mác. Mặt khác, chủ nghĩa xã hội về bản chất là sự nghiệp mang tính
quốc tế, tính thế giới. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể cứu Trung Quốc, vì
chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể vượt qua và thay thế chủ nghĩa tư bản, mới
đại biểu cho tương lai của văn minh nhân loại, đại biểu cho xu hướng phát triển
của lịch sử thế giới. Vì thế, chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc bắt buộc
phải tác chiến trên hai lĩnh vực: vừa phản đối việc dùng tính quốc tế của chủ
nghĩa xã hội để bóp nghẹt “đặc sắc Trung Quốc”, vừa phản đối việc dùng tính

đa dạng, đặc sắc dân tộc của chủ nghĩa xã hội hiện thực để giết chết “xã hội chủ
nghĩa”. Cả hai thứ trên cùng phải có cơ hội mới là chủ nghĩa xã hội mang đặc
sắc Trung Quốc.
Thứ hai, vấn đề mối quan hệ giữa việc học tập và phê phán chủ nghĩa tư bản.
Trong một thời gian dài, chúng ta ở trong giai đoạn sơ kỳ, ở mức thấp của chủ
nghĩa xã hội. Điều đó buộc phải giỏi trong việc học hỏi tất cả các nước trên thế
giới, trong đó có các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng phải làm sao để trong quá
trình đó không bị “Tây hoá”, “phân hoá”. Đây là một thử thách to lớn mà chủ
nghĩa xã hội phải đối mặt. “Chúng ta cần có kế hoạch, có lựa chọn để tiến kịp
kỹ thuật tiên tiến và những thứ ích lợi khác cho chúng ta từ các nước tư bản chủ
nghĩa, nhưng chúng ta quyết không học tập và theo chế độ tư bản chủ nghĩa,
quyết không học tập các loại xấu xa và ung nhọt của chủ nghĩa tư bản”(2). Nhìn
từ kinh nghiệm thực tiễn 30 năm Trung Quốc cải cách mở cửa, cần phải khôn
khéo lợi dụng chủ nghĩa tư bản để phát triển chủ nghĩa xã hội lớn mạnh, chứ
không phải đem chủ nghĩa tư bản để phá bỏ chủ nghĩa xã hội. Một mặt, ta cần
phải làm chủ, cải cách theo phương thức tiệm tiến, mở rộng cửa một cách có thứ
tự lớp lang; mặt khác, cần phải kiên trì “giới tuyến” xã hội chủ nghĩa.
Từ cải cách mở cửa đến nay, chúng ta đã kiên trì giữ “ba giới tuyến”. Một là,
không chấp nhận các giá trị cơ bản. Chúng ta học tập chủ nghĩa tư bản chủ yếu
tại tầng thứ công cụ lý tính, không liên quan tới tầng thứ giá trị lý tính, đặc biệt
là phương diện giá trị trung tâm. Trong toàn bộ quá trình cải cách mở cửa,
chúng ta không những phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị hạt nhân của
chủ nghĩa xã hội, nêu cao tinh thần “vì nhân dân phục vụ” và phấn đấu gian
khổ, phê phán và ngăn ngừa quan niệm giá trị trung tâm và phương thức sống
của giai cấp tư sản, phản đối chủ nghĩa trọng tiền, chủ nghĩa hưởng lạc và chủ
nghĩa cá nhân cực đoan. Hai là, không học tập chế độ cơ bản. Trung Quốc cải
cách mở cửa, về bản chất, là tự mình hoàn thiện chế độ xã hội chủ nghĩa. Do
vậy, trong quá trình này, chúng ta quyết không học tập chế độ tư bản chủ nghĩa;
trái lại, cần không ngừng tiến theo chế độ xã hội chủ nghĩa mà những nhà cách
mạng lão thành, như Mao Trạch Đông và các đồng chí lãnh đạo khác đã xác

định. Trải qua thực tiễn 30 năm cải cách mở cửa, chúng ta đã hoàn thành về đại
thể kết cấu chế độ xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc. Đó là lấy hệ
thống giá trị hạt nhân của chủ nghĩa xã hội làm chỗ dựa cho hình thái ý thức chủ
đạo, lấy bốn chế độ (tức chế độ Đại hội đại biểu nhân dân, chế độ đa đảng hợp
tác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ khu tự trị dân tộc, chế độ tự trị
của các tầng lớp quần chúng) làm chế độ chính trị cơ sở, chế độ kinh tế cơ bản
lấy công hữu làm chủ đạo, lấy sự phát triển đồng thời nhiều thành phần kinh tế
làm đặc trưng, v.v Ba là, không lặp lại con đường phát triển. Những người
đảng viên cộng sản Trung Quốc có một phán đoán cơ bản đối với vấn đề phát
triển là sự phát triển Trung Quốc và công cuộc phục hưng vĩ đại của dân tộc
không tách rời hiện đại hoá. Tuy nhiên, hiện đại hoá tư bản chủ nghĩa không
những phải trả giá đắt, phát triển chậm chạp, đau đớn và nhiều tai ương, mà còn
dẫn tới sự phân liệt dân tộc, quốc gia suy vong, nên không thể tiến hành được.
Chúng ta kiên trì hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa chính là để tránh con đường phát
triển có thể gây ra đối lập giai cấp nghiêm trọng, làm gay gắt mâu thuẫn xã hội,
hy sinh sự hài hoà xã hội mà phương Tây đã trải qua, tránh mô thức phát triển
chỉ truy cầu lợi ích kinh tế, bóp méo nhân tính, hy sinh sự phát triển toàn diện
giữa con người với tự nhiên như phương Tây đã trải qua, thực sự phát triển khoa
học, xúc tiến hài hoà xã hội.
Thứ ba, vấn đề mối quan hệ giữa tính khoa học lý tưởng và tính khích lệ của
chủ nghĩa cộng sản. Do trình độ phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực luôn
thấp hơn chủ nghĩa tư bản phát triển giàu có, nên nó không giống với những gì
mà C.Mác dự kiến trong Cương lĩnh Gôta, đồng thời không trực tiếp trở thành
giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, mà là một giai đoạn lịch sử tương đối độc
lập, tương đối dài lâu, cần phải có sự nỗ lực của vài thế hệ, thậm chí mấy chục
thế hệ mới có thể xây dựng được cơ sở nền tảng cho chủ nghĩa cộng sản. Trước
đây, chúng ta mắc phải một sai lầm tồn tại khá lâu dài, đó là tâm thế nóng vội
tiến lên chủ nghĩa cộng sản, lúc nào cũng đánh giá quá cao giai đoạn phát triển
hiện thực của chủ nghĩa xã hội. Sau 30 năm cải cách mở cửa, Đại hội Đảng lần
thứ XVII nhận định lại: “Chúng ta vẫn đang ở trong và còn rất lâu trong giai

đoạn sơ khai của chủ nghĩa xã hội”. Điều này khiến chúng ta nhận thức ngày
càng khoa học hơn về hiện thực cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự kiên định về
mặt niềm tin đối với chủ nghĩa xã hội khoa học không thể tự nhiên chuyển hoá
thành lý tưởng, ngược lại, tính lâu dài của công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng
sản, về mặt khách quan, lại làm nhạt nhoà tác dụng khích lệ hiện thực của lý
tưởng của mình. Như vậy, cùng với việc phải không ngừng khắc phục tâm thế
nóng vội, chúng ta còn phải làm thế nào đó để kiểm chứng sự kiên định niềm tin
vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Do vậy, chúng ta buộc phải kết hợp điều kiện
lịch sử mới, phát huy tối đa cơ sở hiện thực và chỗ dựa giá trị của niềm tin lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, hiện thực cuối cùng về chủ nghĩa cộng sản chẳng qua
là một sự triển khai lịch sử và là kết quả tất nhiên của cơ sở hiện thực này. Lịch
sử cải cách mở cửa 30 năm đã chứng minh, chỉ có trong phát triển Trung Quốc,
phát triển xã hội chủ nghĩa, phát triển chủ nghĩa Mác, nỗ lực bồi dưỡng lý tưởng
xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc, chúng ta mới có thể kiên định
niềm tin lý tưởng cộng sản chủ nghĩa trong toàn bộ giai đoạn sơ khai của chủ
nghĩa xã hội. Tóm lại, chỉ thông qua cải cách mở cửa để ứng phó với thách thức
của thời đại mới có thể bật tung sức sống của chủ nghĩa xã hội, tiến lên con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa chân chính phù hợp với tình hình Trung
Quốc.
3. Cải cách mở cửa là lựa chọn đúng đắn trong quá trình loại bỏ những sai
lầm và quấy phá
Ngay từ đầu, cải cách mở cửa của Trung Quốc chính là một con đường phát
triển xã hội chủ nghĩa mới mẻ. Mặc dù được tìm kiếm trên cơ sở chế độ xã hội
chủ nghĩa mà tập thể lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc thế hệ Mao Trạch
Đông đã mở ra, nhưng nó không phải là sự lặp lại giản đơn con đường đó, càng
không phải là bắt chước bất cứ một mô thức chủ nghĩa xã hội đã có nào. Ngay
cả chủ nghĩa tư bản, đối với chúng ta, cũng không phải là con đường và phương
hướng phát triển. Điều này đã được Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh: “quyết không
đi “con đường ngược lại” (tức không quay trở lại bất cứ phương thức thực tiễn
xã hội chủ nghĩa đã qua nào) và cũng quyết không đi con đường “tả” (tức không

đi theo phương Tây, thực hiện “hoàn toàn Tây hoá”). Như vậy, quá trình khai
mở con đường xã hội chủ nghĩa màu sắc Trung Quốc đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng tất yếu là quá trình xoay quanh cải cách mở cửa, giải phóng tư tưởng; là
quá trình không ngừng khắc phục những sai lầm “tả” và hữu. Xét từ thói quen
và tâm lý, trong Đảng dễ xuất hiện khuynh hướng đồng tình với con đường cũ,
do đó “tả” luôn là một chướng ngại vật lớn đối với cải cách mở cửa. Tuy nhiên,
do ưu thế của phương Tây trong thế giới đương đại và mưu đồ Tây hoá, sự phân
hoá ở Trung Quốc và khuynh hướng muốn đưa cải cách mở cửa hướng theo chủ
nghĩa tư bản luôn tồn tại, và điều đó được phản ánh trong nội bộ Đảng. (Xem
tiếp>>>)



CẢI CÁCH MỞ CỬA - SỰ LỰA CHỌN THEN CHỐT QUYẾT ĐỊNH
VẬN MỆNH TRUNG QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI (tiếp theo)

HẦU HUỆ CẦN(*)

Những đánh giá không đầy đủ về tính sáng tạo ban đầu của chủ nghĩa xã hội
mang đặc sắc Trung Quốc sẽ dẫn tới việc lặp lại “con đường cũ”. Đặng Tiểu
Bình đã chỉ rõ: “Nói thẳng ra, trước đây việc học tập xây dựng chủ nghĩa xã
hội theo mô hình Liên Xô đã gây ra nhiều vấn đề. Mặc dù chúng ta nhận ra
điều này từ sớm, nhưng chưa giải quyết tốt. Nếu muốn giải quyết tốt vấn đề
này, chúng ta cần phải xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa với đầy đủ đặc
sắc Trung Quốc”(3). Vì sao chúng ta phát hiện ra sớm nhưng chưa giải quyết
tốt? Sở dĩ như vậy không chỉ vì Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới, cách mạng Trung Quốc là sản phẩm của việc “lấy Liên Xô làm
thầy”, do đó tất yếu dẫn đến sự “dựa dẫm đường lối”, mà quan trọng hơn, còn
vì những đặc trưng thời đại chưa biểu hiện đầy đủ, không thể từ trên toàn cục
đồ thức cách mạng thế giới để phá vỡ hai giai cấp, hai con đường, hai chiến

luỹ đối đầu nhau. Như thế, nhiệm vụ trọng điểm của Đảng sẽ không thể thực
sự chuyển sang lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, cơ sở cầm quyền của
Đảng sẽ không thể thực sự được xây dựng trên việc lấy phát triển làm nền
tảng để bảo vệ chính quyền và phát triển đất nước, cơ sở tư tưởng của Đảng
sẽ không thể thực sự đạt tới giải phóng tư tưởng, coi trọng sự thực. Đồng thời,
các vấn đề trọng đại, như thế nào là chủ nghĩa xã hội, làm sao xây dựng chủ
nghĩa xã hội, xây dựng một Đảng như thế nào, xây dựng Đảng ra sao, cần
phải có sự phát triển như thế nào và làm sao để phát triển… vẫn luôn thiếu rõ
ràng. Do đó, bắt buộc phải từ góc độ kết hợp giữa nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác với thực tiễn Trung Quốc và đặc trưng thời đại, từ quy luật phát
triển của xã hội loài người, quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội và tầm cao
của nhận thức mới, phát triển mới về quy luật của Đảng cầm quyền mới có
thể nhận thức được sâu sắc hệ thống lý luận xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc
Trung Quốc, mới thực sự mở ra sự sáng tạo đối với lý luận của Đặng Tiểu
Bình. Những tư tưởng lệch lạc “tả” và “hữu” sở dĩ có những phán đoán sai
lầm giống nhau chính là vì chúng đều lấy một mô hình đã có sẵn nào đó (“mô
hình Liên Xô” hoặc “mô hình Thuỵ Điển”) làm hệ tham chiếu để xét đoán
chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc.
Những đánh giá không đầy đủ về tính kế thừa của chủ nghĩa xã hội mang đặc
sắc Trung Quốc sẽ dễ tách khỏi lịch sử và rơi vào con đường “Tây hoá” sai
lầm. Cùng với quá trình kiên trì lấy hiện đại hoá làm trung tâm, coi phát triển
là ý nghĩa quan trọng hàng đầu của việc bảo vệ chính quyền và xây dựng đất
nước, chúng ta buộc phải nhận thức sâu sắc rằng cơ sở lý luận của nó là chủ
nghĩa Mác, chứ không phải “quan điểm lịch sử của chủ nghĩa phát triển”(4).
Sự khác biệt cơ bản của hai bên là ở chỗ: quan điểm của chủ nghĩa phát triển
quy “phát triển” thành tăng trưởng kinh tế và sự vận dụng khoa học kỹ thuật,
phủ định vai trò của chế độ xã hội và lựa chọn con đường phát triển. Trên
thực tế, nó coi chủ nghĩa tư bản và con đường của một số nước tư bản chủ
nghĩa (như nước Mỹ) là con đường chung của toàn nhân loại, thông qua “phát
triển” và hiện đại hoá để duy trì sự bá chủ của chủ nghĩa tư bản. Ngược lại,

cải cách mở cửa của Trung Quốc, về bản chất, là con đường phát triển của
hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối không coi sự tiến bộ xã hội là kết quả
tự nhiên của tăng trưởng kinh tế và sáng tạo kỹ thuật. Quan điểm “lấy xây
dựng kinh tế làm trung tâm” là kết quả của việc suy nghĩ và quan sát vấn đề
từ góc độ chính trị, nếu không có một chính đảng giỏi trong việc xác định và
giải quyết vấn đề từ góc độ chính trị thì sẽ không thể đối diện và giải quyết vô
số mâu thuẫn xã hội của các quốc gia “phát triển sau”. Đồng thời, sự tăng
trưởng kinh tế dài lâu và tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng khó mà thực hiện, tự
do toàn diện của con người và sự tiến bộ toàn diện của xã hội lại càng không
có chỗ để bàn đến”. Đặng Tiểu Bình đã chỉ rõ rằng, những vấn đề cải cách
mở cửa, chiến lược phát triển “ba bước đi” v.v. mà ông đưa ra đều là kết quả
của sự suy tư từ góc độ chính trị. “Với những vấn đề kinh tế, tôi là người
không chuyên, dẫu có nói ra điều gì, đều là nói từ góc độ chính trị. Ví dụ,
chính sách cải cách mở cửa kinh tế Trung Quốc là do tôi đưa ra, nhưng mở
cửa ra sao, những vấn đề cụ thể cần phải suy tư về một số chi tiết, một số đòi
hỏi thì tôi không hiểu sâu. Hôm nay bàn tới vấn đề này, tôi cũng chỉ bàn tới từ
góc độ chính trị”(5).
4. Cải cách mở cửa là cuộc đại điều chỉnh về cục diện lợi ích, trước sau
luôn là sự lựa chọn hữu hiệu đại biểu cho lợi ích nhân dân
Trong điều kiện lịch sử mới, nhà nước xã hội chủ nghĩa được dựng nên bằng
con đường cách mạng và chế độ cơ bản của nó gặp phải thách thức của sự
phân tầng lợi ích xã hội ngày càng rõ rệt. Tính phức tạp của thách thức này
đến từ sự giao thoa của hai loại mâu thuẫn, sự đan xen của hai xu thế: một
là, một bộ phận những người đương quyền độc đoán lợi ích, khiến cho lý
tưởng của họ ngày một mai một đi, và mang một thái độ bất mãn đối với chế
độ xã hội chủ nghĩa, David Kotz gọi đó là “sự đứt gãy do ràng buộc của lợi
ích vật chất”(6). Mặt khác, quảng đại quần chúng tuy vẫn muốn giữ trạng thái
tinh thần của thời kỳ cách mạng, nhưng đối với đòi hỏi lợi ích vật chất ngày
càng gay gắt, mối liên hệ nội tại ngày càng rõ giữa đời sống không ngừng
được cải thiện với tính tích cực chủ động, sự tự giác điều chỉnh của cục diện

lợi ích và cơ chế lợi ích là điều khó tránh. Rõ ràng, đòi hỏi lợi ích thứ nhất là
phi pháp, bởi vì nó quay lưng lại với nhu cầu phát triển của sức sản xuất và
lịch sử; còn nhu cầu lợi ích sau là chính đáng, bởi nó thể hiện nhu cầu tiên
tiến của sức sản xuất và xã hội; cái thứ nhất là vấn đề xây dựng tự thân của
Đảng cầm quyền, là vấn đề Đảng cầm quyền làm thế nào để phòng ngừa sự
hủ bại, phòng ngừa sự hình thành những tập đoàn và tầng lớp đặc quyền về
lợi ích, vấn đề làm sao để việc xây dựng chế độ và thể chế đem lợi ích vật
chất và tôn chỉ của Đảng Cộng sản gắn kết với nhau chặt chẽ; còn cái sau là
vấn đề phát huy chức năng của Đảng cầm quyền, là vấn đề làm thế nào lợi
dụng được tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa để thúc đẩy sự phát triển
của sức sản xuất và thực hiện lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng nhân
dân. Chính thách thức do mâu thuẫn giữa hai loại lợi ích khác nhau về tính
chất và đan xen với nhau này tạo nên sự kiểm chứng nghiêm túc về tính chất
và năng lực cầm quyền của Đảng. Đảng Cộng sản cầm quyền nếu thoả mãn
đòi hỏi lợi ích đầu tiên cũng có nghĩa là đã thoái hóa biến chất, bị chủ nghĩa
tư bản “Tây hóa”, “phân hóa”(7); còn nếu Đảng Cộng sản cầm quyền không
thể thỏa mãn đòi hỏi lợi ích thứ hai, thì có nghĩa là nó “không đủ tư cách”,
“không phù hợp tư cách”, tức là đánh mất vai trò và địa vị lãnh đạo của mình.
Vấn đề còn ở chỗ, việc quyết không thỏa mãn đòi hỏi lợi ích đầu tiên và việc
bắt buộc phải tìm kiếm phương pháp thỏa mãn đòi hỏi lợi ích thứ hai phải
được gắn kết với nhau. Có như vậy, Đảng mới thực sự đại biểu cho ý chí của
nhân dân.
Những lời dạy của Mao Trạch Đông quá chú trọng vào việc không để đòi hỏi
lợi ích đầu tiên đạt được mục đích, nhưng lại cũng quá thờ ơ với đòi hỏi của
lợi ích thứ hai, thậm chí trong mức độ nhất định, nó có thể được xem như
quân đồng minh cho đòi hỏi lợi ích thứ nhất, tức là “thế lực tự phát của chủ
nghĩa tư bản”(8). Thực ra, chống hủ bại và cải thiện dân sinh đều là những
biểu hiện lợi ích của dân sinh. Tuy nhiên, trong việc xử lý hai đòi hỏi lợi ích,
trước hết Đảng cầm quyền buộc phải thoả mãn đòi hỏi cải thiện đời sống của
quần chúng nhân dân, đồng thời đề phòng sự thoái hóa biến chất của Đảng

trong quá trình này. Nghĩa là, chỉ có đồng thời với cải tạo thế giới khách
quan, mới có thể cải tạo thế giới chủ quan một cách hiệu quả. Xa rời phát
triển để “phản đối sửa đổi, ngăn ngừa sửa đổi”, thì dẫu nguyện vọng có tốt
đến mấy cũng khó mà thành công được. Từ cải cách mở cửa đến nay, chúng
ta có một kinh nghiệm quan trọng là phải luôn đặt sức sản xuất lên hàng đầu,
kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, đồng thời không ngừng tăng
cường xây dựng Đảng. Điều này cũng giống như điều mà Đặng Tiểu Bình đã
nhắc nhở khi bàn đến cải cách mở cửa: “Con đường hôm nay chúng ta đi là
đúng đắn, nhân dân phấn khởi, chúng ta cũng có niềm tin. Chính sách của
chúng ta sẽ không thay đổi. Nếu như có thay đổi, thì cũng chỉ là sự thay đổi
cho tốt lên. Chính sách mở cửa đối ngoại sẽ chỉ biến thành mở cửa rộng hơn.
Con đường càng đi sẽ không phải càng hẹp, mà là càng lớn thêm. Những gian
khổ của việc đi con đường chật hẹp bước đầu, chúng ta đã nếm trải nhiều.
Nếu như chúng ta quay trở lại, thì sẽ đi về đâu? Chỉ là quay về trạng thái lạc
hậu, bần cùng”. “Ngày nay, Trung Quốc thực hành chính sách mở cửa với
bên ngoài, làm kinh tế với bên trong, có ai làm cải cách được? Nếu cải cách
rồi mà đời sống của 80% dân số Trung Quốc vẫn bị giảm sút, chúng ta sẽ
đánh mất niềm tin của nhân dân. Con đường chúng ta đi đã đúng, nhân dân đã
ủng hộ thì sẽ không có gì thay đổi được”(9).
Tuy vậy, tính phức tạp của vấn đề lợi ích còn là ở chỗ, dẫu cho đòi hỏi lợi ích
đặc thù trong Đảng và người cầm quyền không hợp lý, thì việc xây dựng một
chế độ phân phối và cơ chế lợi ích vừa vì dân, vừa có thể ổn định đội ngũ
viên chức, công nhân nhà nước, đồng thời có thể phối hợp nhịp nhàng với tôn
chỉ, lý tưởng của những người cộng sản là nhiệm vụ lâu dài mà Đảng cầm
quyền buộc phải đối mặt trong hoàn cảnh hòa bình. Vậy, làm thế nào để xác
định cái “độ” này. Điều này chỉ có thể giải quyết thông qua cải cách mở cửa.
Chúng ta đã không coi “tinh thần là vạn năng”, cũng không thừa nhận “tinh
thần hư vô”; tương tự như vậy, chúng ta không coi thường lợi ích vật chất,
cũng không đồng tình với quan niệm cho rằng, “tiền có sức mạnh thần
thông”. Tuy nhiên, một sự thực dễ nhận thấy là vấn đề lợi ích tự thân của

những người cách mạng, cái mà trong chiến tranh không xuất hiện hoặc
không rõ ràng, trở thành vấn đề không thể né tránh và nhất thiết phải có
phương thức, cơ chế để giải quyết. “Lương cao để giữ thanh liêm” là điều
không thể thay thế được, “lương thấp để giữ liêm” cũng khó mà kéo dài. Vì
vậy, việc xây dựng một chế độ lương bổng hợp lý cho cán bộ công chức nhà
nước đòi hỏi phải có tư duy mới về cải cách. Thực tiễn của chúng ta từ cải
cách mở cửa đến nay cho thấy, chính là cần “hai tay cùng nắm giữ, hai tay
cùng phải chắc” đối với văn minh vật chất và văn minh tinh thần, khuynh
hướng giá trị phải nương tựa, cùng mở rộng với khuynh hướng lợi ích, những
tính toán xây dựng tư tưởng phải cân đối, hoàn thiện đồng bộ với xây dựng
chế độ, bảo vệ lợi ích cá nhân hợp pháp (bao gồm cán bộ lãnh đạo Đảng) đi
kèm với kiên quyết chống lại các hiện tượng xấu xa, thối nát, v.v Tóm lại,
việc ứng phó với các loại vấn đề mới, thách thức của mâu thuẫn mới về lợi
ích vật chất, đồng thời không ngừng tăng cường giải quyết chúng chỉ có thể
thực hiện được trong sự kiên trì mở cửa và cải cách. r
Người dịch: ThS.TRẦN THÚY NGỌC
(Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)


(*) Giáo sư, tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu ch
ủ nghĩa Mác, Viện
Khoa học Xã hội Trung Quốc.

(1) Đặng Tiểu Bình văn tuyển, quyển 3. Nxb Nhân dân, Bắc Kinh, 1993,
tr.260.
(3) Đặng Tiểu Bình văn tuyển, quyển 3. Nxb Nhân dân, Bắc Kinh, 1993, tr.
260 - 261.
(2) Đặng Tiểu Bình văn tuyển. Sđd., quyển 2, tr.168.
(4) “Quan điểm lịch sử của chủ nghĩa phát triển”, về bản chất, là hình thái

biến tướng của chủ nghĩa tự do, hoàn toàn khác biệt với chủ nghĩa Mác,
người sáng lập là W.W.Rosetle (Mỹ) tác giả của cuốn Giai đoạn tăng trưởng
kinh tế. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, hình thái ý thức của chủ nghĩa
phát triển trở thành thủ đoạn mà nước Mỹ rao giảng là “mô hình nước Mỹ”, là
giá trị quan cho các nước đang phát triển. Nó cho rằng, tăng trưởng kinh tế là
động lực phát triển, chỉ có thị trường hoá hết mức và tự do kinh tế mới có thể
thúc đẩy sự tăng trưởng dài lâu của kinh tế, “cuối cùng sẽ đem tới những biến
đổi tích cực của xã hội và chính trị, xã hội ngày càng giàu có, sự lớn mạnh
của giai cấp trung lưu, sự thực hiện dân chủ hoá”. Xem thêm: Thôi Hoa Đức.
Weirda. Phát triển chính trị của những nước phát triển mới - thế giới thứ ba
tồn tại chăng?. Nxb Đại học Bắc Kinh, 2005.
(5) Đặng Tiểu Bình văn tuyển. Sđd.,, quyển 3, tr.77.
(6) Theo điều tra của học giả nổi tiếng người Mỹ David Kotz về nguyên nhân
giải thể của Liên Xô, “trong năm 1990, từng có hơn 100.000 người lãnh đạo
cao cấp của Liên Xô cũ bắt đầu phản bội chủ nghĩa cộng sản”. Những người
thuộc tầng lớp lãnh đạo này trong lúc phải đối mặt với tình hình kinh tế khó
khăn đã đem tất cả trách nhiệm quy kết cho chế độ xã hội chủ nghĩa, cho rằng
chế độ này tồn tại khuyết điểm bẩm sinh, cần phải triệt để thay đổi chế độ để
cứu đất nước. David Kotz quy kết hiện tượng này thành sự đứt gãy do “ràng
buộc của lợi ích vật chất”. Xem thêm: David Kotz. Nguyên nhân giải thể của
Liên Xô, đăng trên “Tư trào đương đại”, số 5, 2000, tr 31.
(7) Cục Tình báo trung ương Mỹ tiết lộ: Sau khi Reagan nắm quyền, thành
lập một ban chuyên nghiên cứu nhược điểm của “những kẻ cộng sản chủ
nghĩa”. Ban này có sự tham gia của các nhà xã hội học, bác sĩ tâm lí v.v
Những học giả này đều cho rằng, trong giai đoạn chủ nghĩa cộng sản mới
được sinh ra, do bản chất của nó là vừa thoát thai từ xã hội cũ, nên buộc phải
chiến đấu để tồn tại, cho nên sức sống có vẻ mạnh mẽ. Đây chính là nguyên
nhân thất bại của Douglas MacArthur ở Triều Tiên. Thế nhưng, theo đà gia
tăng dần của của cải, đời sống dần dần ổn định, ý chí tranh đấu của những
người cộng sản cũng bị hao mòn từ từ. Quan trọng hơn là, trong một nước

như Liên Xô, chủ nghĩa bình quân trong chế độ phân phối đã làm cho ràng
buộc lợi ích vật chất giữa người với người trở nên yếu ớt. Những ràng buộc
lợi ích tinh thần cũng không còn chắc chắn nữa. Chính sự cào bằng trong
“chế độ xã hội chủ nghĩa” khiến không ai chịu trách nhiệm trước người khác
và trước xã hội. Chỉ có thể là cái xã hội đó mới nuôi dưỡng họ trở thành như
vậy.
(8) Điển hình nhất là Mao Trạch Đông đã quy kết Đặng Tử Khôi, Bộ trưởng
Bộ Công tác Nông thôn, người đã nỗ lực “muốn tìm kiếm hình thức cơ chế
trách nhiệm để lợi ích kinh tế tập thể kiên kết với lợi ích kinh tế cá nhân” là
”ngọn gió độc”, “đứng trên lập trường của chủ nghĩa dân chủ của giai cấp tư
sản”. Xem: Những tác phẩm Mao Trạch Đông từ khi xây dựng đất nước, cuốn
10. Nxb Văn hiến Trung ương, 1996, tr.137-140.
(9) Đặng Tiểu Bình văn tuyển. Sđd., quyển 3, tr.29, 59.

CẢI CÁCH MỞ CỬA - SỰ LỰA CHỌN THEN CHỐT QUYẾT ĐỊNH
VẬN MỆNH TRUNG QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI (tiếp theo)

HẦU HUỆ CẦN(*)

Những đánh giá không đầy đủ về tính sáng tạo ban đầu của chủ nghĩa xã hội
mang đặc sắc Trung Quốc sẽ dẫn tới việc lặp lại “con đường cũ”. Đặng Tiểu
Bình đã chỉ rõ: “Nói thẳng ra, trước đây việc học tập xây dựng chủ nghĩa xã hội
theo mô hình Liên Xô đã gây ra nhiều vấn đề. Mặc dù chúng ta nhận ra điều
này từ sớm, nhưng chưa giải quyết tốt. Nếu muốn giải quyết tốt vấn đề này,
chúng ta cần phải xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa với đầy đủ đặc sắc
Trung Quốc”(3). Vì sao chúng ta phát hiện ra sớm nhưng chưa giải quyết tốt?
Sở dĩ như vậy không chỉ vì Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế
giới, cách mạng Trung Quốc là sản phẩm của việc “lấy Liên Xô làm thầy”, do
đó tất yếu dẫn đến sự “dựa dẫm đường lối”, mà quan trọng hơn, còn vì những
đặc trưng thời đại chưa biểu hiện đầy đủ, không thể từ trên toàn cục đồ thức

cách mạng thế giới để phá vỡ hai giai cấp, hai con đường, hai chiến luỹ đối đầu
nhau. Như thế, nhiệm vụ trọng điểm của Đảng sẽ không thể thực sự chuyển
sang lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, cơ sở cầm quyền của Đảng sẽ không
thể thực sự được xây dựng trên việc lấy phát triển làm nền tảng để bảo vệ chính
quyền và phát triển đất nước, cơ sở tư tưởng của Đảng sẽ không thể thực sự đạt
tới giải phóng tư tưởng, coi trọng sự thực. Đồng thời, các vấn đề trọng đại, như
thế nào là chủ nghĩa xã hội, làm sao xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng một
Đảng như thế nào, xây dựng Đảng ra sao, cần phải có sự phát triển như thế nào
và làm sao để phát triển… vẫn luôn thiếu rõ ràng. Do đó, bắt buộc phải từ góc
độ kết hợp giữa nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tiễn Trung Quốc
và đặc trưng thời đại, từ quy luật phát triển của xã hội loài người, quy luật xây
dựng chủ nghĩa xã hội và tầm cao của nhận thức mới, phát triển mới về quy luật
của Đảng cầm quyền mới có thể nhận thức được sâu sắc hệ thống lý luận xã hội
chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc, mới thực sự mở ra sự sáng tạo đối với lý
luận của Đặng Tiểu Bình. Những tư tưởng lệch lạc “tả” và “hữu” sở dĩ có
những phán đoán sai lầm giống nhau chính là vì chúng đều lấy một mô hình đã
có sẵn nào đó (“mô hình Liên Xô” hoặc “mô hình Thuỵ Điển”) làm hệ tham
chiếu để xét đoán chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc.
Những đánh giá không đầy đủ về tính kế thừa của chủ nghĩa xã hội mang đặc
sắc Trung Quốc sẽ dễ tách khỏi lịch sử và rơi vào con đường “Tây hoá” sai lầm.
Cùng với quá trình kiên trì lấy hiện đại hoá làm trung tâm, coi phát triển là ý
nghĩa quan trọng hàng đầu của việc bảo vệ chính quyền và xây dựng đất nước,
chúng ta buộc phải nhận thức sâu sắc rằng cơ sở lý luận của nó là chủ nghĩa
Mác, chứ không phải “quan điểm lịch sử của chủ nghĩa phát triển”(4). Sự khác
biệt cơ bản của hai bên là ở chỗ: quan điểm của chủ nghĩa phát triển quy “phát
triển” thành tăng trưởng kinh tế và sự vận dụng khoa học kỹ thuật, phủ định vai
trò của chế độ xã hội và lựa chọn con đường phát triển. Trên thực tế, nó coi chủ
nghĩa tư bản và con đường của một số nước tư bản chủ nghĩa (như nước Mỹ) là
con đường chung của toàn nhân loại, thông qua “phát triển” và hiện đại hoá để
duy trì sự bá chủ của chủ nghĩa tư bản. Ngược lại, cải cách mở cửa của Trung

Quốc, về bản chất, là con đường phát triển của hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa,
tuyệt đối không coi sự tiến bộ xã hội là kết quả tự nhiên của tăng trưởng kinh tế
và sáng tạo kỹ thuật. Quan điểm “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” là kết
quả của việc suy nghĩ và quan sát vấn đề từ góc độ chính trị, nếu không có một
chính đảng giỏi trong việc xác định và giải quyết vấn đề từ góc độ chính trị thì
sẽ không thể đối diện và giải quyết vô số mâu thuẫn xã hội của các quốc gia
“phát triển sau”. Đồng thời, sự tăng trưởng kinh tế dài lâu và tiến bộ khoa học
kỹ thuật cũng khó mà thực hiện, tự do toàn diện của con người và sự tiến bộ
toàn diện của xã hội lại càng không có chỗ để bàn đến”. Đặng Tiểu Bình đã chỉ
rõ rằng, những vấn đề cải cách mở cửa, chiến lược phát triển “ba bước đi” v.v.
mà ông đưa ra đều là kết quả của sự suy tư từ góc độ chính trị. “Với những vấn
đề kinh tế, tôi là người không chuyên, dẫu có nói ra điều gì, đều là nói từ góc
độ chính trị. Ví dụ, chính sách cải cách mở cửa kinh tế Trung Quốc là do tôi
đưa ra, nhưng mở cửa ra sao, những vấn đề cụ thể cần phải suy tư về một số chi
tiết, một số đòi hỏi thì tôi không hiểu sâu. Hôm nay bàn tới vấn đề này, tôi cũng
chỉ bàn tới từ góc độ chính trị”(5).
4. Cải cách mở cửa là cuộc đại điều chỉnh về cục diện lợi ích, trước sau
luôn là sự lựa chọn hữu hiệu đại biểu cho lợi ích nhân dân
Trong điều kiện lịch sử mới, nhà nước xã hội chủ nghĩa được dựng nên bằng
con đường cách mạng và chế độ cơ bản của nó gặp phải thách thức của sự phân
tầng lợi ích xã hội ngày càng rõ rệt. Tính phức tạp của thách thức này đến từ sự
giao thoa của hai loại mâu thuẫn, sự đan xen của hai xu thế: một là, một bộ
phận những người đương quyền độc đoán lợi ích, khiến cho lý tưởng của họ
ngày một mai một đi, và mang một thái độ bất mãn đối với chế độ xã hội chủ
nghĩa, David Kotz gọi đó là “sự đứt gãy do ràng buộc của lợi ích vật chất”(6).
Mặt khác, quảng đại quần chúng tuy vẫn muốn giữ trạng thái tinh thần của thời
kỳ cách mạng, nhưng đối với đòi hỏi lợi ích vật chất ngày càng gay gắt, mối
liên hệ nội tại ngày càng rõ giữa đời sống không ngừng được cải thiện với tính
tích cực chủ động, sự tự giác điều chỉnh của cục diện lợi ích và cơ chế lợi ích là
điều khó tránh. Rõ ràng, đòi hỏi lợi ích thứ nhất là phi pháp, bởi vì nó quay

lưng lại với nhu cầu phát triển của sức sản xuất và lịch sử; còn nhu cầu lợi ích
sau là chính đáng, bởi nó thể hiện nhu cầu tiên tiến của sức sản xuất và xã hội;
cái thứ nhất là vấn đề xây dựng tự thân của Đảng cầm quyền, là vấn đề Đảng
cầm quyền làm thế nào để phòng ngừa sự hủ bại, phòng ngừa sự hình thành

×