Đề tài triết học
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH
NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM
LÊ ĐĂNG DOANH (*)
Trong bài viết này, sau khi nói về trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, tác giả tập trung luận giải vấn
đề xây dựng xã hội dân sự và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam
trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường. Theo tác giả, trách nhiệm xã hội ở
Việt Nam đã được nhận thức và bước đầu được thực hiện và đó chính là cơ sở
để chúng ta tin rằng, cùng với quá trình phát triển đất nước, trách nhiệm đó sẽ
được đề cao cùng với sự hoàn thiện của khung pháp luật, bộ máy nhà nước, thể
chế kinh tế thị trường và các thể chế của xã hội dân sự.
1. Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp
Hội thảo của chúng ta diễn ra trong khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu ngày
càng lan rộng và trở nên nghiêm trọng hơn. Nhân loại đang đứng trước những
nguy cơ lớn về khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực, trái đất ấm
lên do hiệu ứng khí thải. Tất cả các hiện tượng này có nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân về trách nhiệm xã hội của chính phủ, của doanh nghiệp, của
người dân và xã hội dân sự. Cuộc khủng hoảng toàn cầu - khởi đầu từ nước Mỹ
và nhanh chóng lan rộng ra các nước khác trên thế giới, từ khủng hoảng tài
chính - tiền tệ lan sang khủng hoảng “nền kinh tế thực” (real economy), dẫn đến
khủng hoảng việc làm và khủng hoảng xã hội. Ở một số nước đã và sẽ diễn ra
khủng hoảng chính trị như ở Băng Đảo (Iceland). Câu hỏi được đặt ra là, hệ
thống kinh tế thị trường hiện nay với các biến thể của nó từ kinh tế thị trường
tân tự do (Neoliberalism) ở Hoa Kỳ đến nền kinh tế thị trường xã hội (Social
market economy) như ở Đức, nền kinh tế phúc lợi xã hội (Wealthfare economy)
như ở Bắc Âu, trách nhiệm của nhà nước, trách nhiệm của thị trường và doanh
nhân, trách nhiệm và quyền giám sát của người dân có những thiếu sót gì để dẫn
đến một thảm hoạ như vậy. Mới đây, vụ sữa nhiễm độc melamine của công ty
Tam Lộc (San Lu) ở Trung Quốc đã gây ra biết bao đau khổ cho các gia đình,
trẻ nhỏ thì trách nhiệm của nhà nước, của doanh nghiệp như thế nào.
Trách nhiệm (responsibility) là một khái niệm rất rộng và được nhiều khoa học
cùng nghiên cứu. Luật học xác định các khái niệm trách nhiệm khác nhau, như
trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm
kinh tế, trách nhiệm tài chính và trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể, v.v.,
kèm theo đó là nhưng quy định chặt chẽ về trách nhiệm bồi thường, các mức
phạt cao thấp khác nhau nếu vi phạm.
Xã hội học coi trách nhiệm xã hội như là một sự cam kết về tinh thần, đạo đức,
văn hoá đối với gia đình, cộng đồng địa phương và toàn xã hội, nhân viên, môi
trường. Trong nền kinh tế thị trường, mọi cá nhân và doanh nghiệp đều hành xử
sao cho có lợi nhất cho mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Kinh tế thị
trường được mô tả trong Tư bản của C.Mác không có trách nhiệm xã hội, ở đó
người ta thấy người chủ tư bản được mô tả là một kẻ bóc lột tàn bạo, mù quáng,
mất nhân tính, vô văn hoá đến kiệt sức người lao động nhằm tối đa hoá lợi
nhuận ngắn hạn. Sự mô tả chính xác đó đã giúp kinh tế thị trường tự hoàn thiện
trong quá trình đấu tranh của nhân dân cùng với tiến bộ trong nhận thức của
khoa học kinh tế. (Chẳng hạn như kinh tế học về thông tin đã chỉ rõ bản chất
của sự lừa đảo là bất đối xứng thông tin, giải pháp là công khai, minh bạch,
giám sát nhằm giảm bớt sự bất đối xứng thông tin đó chứ không phải gán ghép
lừa đảo như một bản chất của kinh tế thị trường). Kinh tế kế hoạch hoá tập trung
dưới chế độ toàn trị một đảng đã không đem lại giải pháp thực chất và bền vững
cho tăng trưởng, không đem lại hệ thống động lực cho người lao động, không
phát huy sức sáng tạo, sáng kiến của mỗi một cá nhân, nên nó đã không vượt
qua được thử thách của lịch sử. Trong một chế độ như vậy, khái niệm trách
nhiệm xã hội chỉ thuộc về những người có quyền quyết định, người dân chỉ biết
tuân thủ các quy định và được thụ hưởng trong phần họ được cho phép. Các
hiện tượng lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường, ém nhẹm các tai hoạ là
những ví dụ về thiếu trách nhiệm xã hội trong quá trình quyết định và điều hành
nền kinh tế theo mô hình này. Kinh tế thị trường ngày nay đã hình thành một hệ
thống các quy định pháp luật chi tiết nhằm chế định hành vi của các bên tham
gia và bảo vệ lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Các quy định đó đã giảm bớt
đáng kể những hành vi vô trách nhiệm một cách thái quá của những người có
quyền lực trong hệ thống chính trị và doanh nghiệp. Chính trị gia không được
lòng dân sẽ bị hệ thống bầu cử dân chủ thay thế (như việc bầu cử tổng thống
Obama thay thế tổng thống Bush vừa qua). Doanh nhân hành xử tư lợi, thiếu
hiệu quả, thiếu trách nhiệm sẽ bị thay thế khi doanh nghiệp thua lỗ hay phá sản.
Song, cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã cho thấy mô hình hiện thời của
kinh tế thị trường và vai trò của nhà nước không những không hoàn hảo mà còn
có những khiếm khuyết nghiêm trọng, rất cần được phát hiện và chỉnh sửa. Việc
đóng gói (packaging) những món nợ hay thế chấp (debt and mortgages) thành
những sản phẩm phái sinh điên loạn (derivates) đem bán trên thị trường chứng
khoán, việc nới lỏng trần tín dụng để đẩy việc xây nhà và tiêu dùng lên cao, việc
đồng loã giữa các công ty đánh giá và xếp hạng (rating company) với ngân hàng
được xếp hạng (như Lehman Brothers), che dấu và lừa dối khách hàng, việc cho
phép lòng tham vô hạn độ của những người điều hành hệ thống tài chính ngân
hàng hoành hành, v.v. đều cần phải điều chỉnh và xem xét trách nhiệm của từng
bên tham gia và có quy định pháp luật chặt chẽ để khắc phục.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility CSR) có
thể được định nghĩa ngắn gọn như một sự cam kết của công ty trong ứng xử phù
hợp với lợi ích của xã hội trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của khách
hàng, nhà cung ứng, nhân viên, cổ đông, cộng đồng, môi trường. Theo đó, trách
nhiệm xã hội được coi là một phạm trù của đạo đức kinh doanh (Business
Ethics), có liên quan đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ở thế kỷ
thứ XXI, trong nền kinh tế toàn cầu hoá, khi ý thức của loài người về các nguy
cơ đối với môi trường sống ngày càng cao thì các đòi hỏi về trách nhiệm xã hội
cũng ngày càng tăng lên, như đòi hỏi phải kiểm soát khí thải của xe hơi lưu
hành trên đường phố, kiểm soát mức độ khói bụi trong các khu dân cư, v.v
Như vậy, có thể thấy, ít nhất đã có bốn nhóm đối tượng mà doanh nghiệp phải
có trách nhiệm trong ứng xử đối với các đối tượng sau đây:
- Thị trường và người tiêu dùng, bao gồm cả nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung
ứng và hợp tác;
- Người lao động;
- Cộng đồng trong khu vực và trong xã hội trong nước và thế giới (như vụ sữa
nhiễm độc melamine của công ty Tam Lộc ở Trung Quốc);
- Môi trường sống.
Đối với thị trường và người tiêu dùng, doanh nghiệp phải bảo đảm chữ “tín”,
bảo đảm chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thực hiện đúng các tiêu chuẩn chất
lượng của sản phẩm, dịch vụ, thực hiện các cam kết dịch vụ sau khi bán như đã
bảo đảm với khách hàng, không quảng cáo quá sự thật. Pháp luật không thể quy
định và tiết chế tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Chính doanh nghiệp phải
bảo đảm thương hiệu của mình bằng cách duy trì chất lượng, tính ổn định của
chất lượng sản phẩm, dịch vụ không vượt ra khỏi các quy định của pháp luật.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp có quan hệ không chỉ với khách hàng, mà còn
quan hệ với các nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung ứng các sản phẩm, dịch vụ trợ
giúp, các viện khoa học, trường đại học thực hiện các dịch vụ nghiên cứu, giảng
dạy, thiết kế, v.v Trong tất cả các mối quan hệ đó, doanh nghiệp không chỉ
thực hiện đúng các cam kết theo Luật Dân sự, Luật Hợp đồng, mà còn phải từ
bỏ tham vọng làm “giàu nhanh” một cách bất chính bằng cách lừa đảo khách
hàng và đối tác. Việc làm giàu của doanh nghiệp không những phải phù hợp với
pháp luật, mà còn phải bảo đảm và tôn trọng lợi ích chính đáng và hợp pháp của
khách hàng và đối tác. Như vậy, cách làm giàu “chụp dật” là hoàn toàn xa lạ với
trách nhiệm xã hội. Không thể chỉ trông đợi vào sự tự nguyện hay kêu gọi đạo
đức, luật pháp, người tiêu dùng, xã hội phải phát hiện, ngăn chặn và trừng phạt
các hành động gian trá, lừa đảo, đồng thời khuyến khích, ủng hộ các doanh
nghiệp làm ăn chính đáng.
Đối với người lao động, doanh nghiệp phải coi người lao động là tài sản lớn
nhất của mình, chăm lo cuộc sống vật chất và tinh thần cho người lao động, bảo
đảm cho người lao động không chỉ tái sản xuất sức lao động, mà còn được nâng
cao trình độ chuyên môn, chăm lo sức khoẻ cho người lao động. Về phía người
lao động cũng phải tôn trọng các cam kết trong hợp đồng lao động, làm việc tại
doanh nghiệp phù hợp với những cam kết khi được bồi dưỡng, nâng cao trình độ.
Luật pháp phải bảo đảm sự cân bằng lợi ích giữa người sử dụng lao động và
người lao động, giữa hai bên phải thường xuyên trao đổi thông tin để thông cảm
lẫn nhau, tránh sự hiểu lầm không cần thiết hay sự ưu đãi thái quá cho một bên.
Doanh nghiệp cũng cần phải tôn trọng và bảo vệ môi trường vì lợi ích của các
thế hệ mai sau.
Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều tiêu chuẩn, định mức quy định chế độ
hạch toán xã hội (social accounting), kiểm toán xã hội (social auditing) và báo
cáo cho xã hội (social reporting) biết kết quả thực hiện. Hiện nay, các nước
nhập khẩu đã đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu từ các nước đang phát triển như
Việt Nam phải tuân thủ hàng loạt quy định (guidelines) hay tiêu chuẩn
(standards), như SA 8000, AA1000, ISO 14000, v.v Vì lợi ích kinh doanh,
doanh nghiệp phải bảo đảm sự tuân thủ các quy định được đòi hỏi để có thể tiếp
tục duy trì quan hệ kinh doanh.
Vấn đề ở đây là có thể trông cậy đến đâu vào sự tự nguyện của doanh nghiệp,
nếu thiếu khung pháp luật, thiếu chế tài và sự giám sát cần thiết của xã hội dân
sự và công chúng. Kinh nghiệm cho thấy, mãnh lực của lợi nhuận có thể làm
cho doanh nhân trở nên mù quáng, vô trách nhiệm bằng cách che dấu các hành
vi phạm pháp của mình và sự tự nguyện của doanh nghiệp là rất mỏng manh.
Ngay cả sau khi phải cầu cứu chính phủ trợ giúp bằng tiền đóng thuế của người
dân, họ vẫn chia nhau cả 18 tỷ USD tiền thưởng (CNN, ngày 30.1.2009) làm
cho tổng thống Obama phải thốt lên là “đáng hổ thẹn”; song vấn đề không phải
là quở mắng, mà là làm cho họ có trách nhiệm hơn và ngăn chặn những hành vi
như vậy trong tương lai. Như vậy, có thể thấy vai trò then chốt của hệ thống luật
pháp, các tiêu chuẩn về đạo đức được quy định thành tiêu chuẩn pháp luật để
thực hiện trách nhiệm xã hội của cá nhân và doanh nghiệp nhằm chế ngự lòng
tham và kiểm soát các hành vi làm giàu vô đạo đức, gây nguy hại cho cộng
đồng.
Bên cạnh vai trò của nhà nước, rõ ràng là cần phải có vai trò bổ sung của xã hội
dân sự nhằm phát huy các mặt tích cực của nhà nước, đồng thời bổ sung cho
nhà nước, giám sát và hạn chế các hành vi tư lợi, lạm dụng chức quyền của nhà
nước.
2. Kinh tế thị trường, xã hội dân sự và trách nhiệm xã hội ở Việt Nam
Chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong đó nhà nước có vai
trò tuyệt đối trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, sang kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang từng bước hình thành các tổ chức
của xã hội dân sự. Các tổ chức xã hội đông đảo của Việt Nam được hình thành
và có thói quen hoạt động theo mô hình kinh tế chỉ huy trước đây đang từng
bước thay đổi để hoạt động có hiệu quả hơn trong kinh tế thị trường. Các tổ
chức đó đang từng bước chuyển sang cách hoạt động tự chịu trách nhiệm, phản
ứng kịp thời trước các biến động của kinh tế thị trường, như ô nhiễm môi
trường, đình công, v.v Hiện nay, Việt Nam chưa có Luật về các hội, khái niệm
xã hội dân sự chưa được chính thức chấp nhận, các cơ quan nhà nước đang đảm
nhận một khối lượng ngày càng lớn các công việc và bị quá tải. Bộ máy nhà
nước ngày càng được mở rộng hơn; mặc dù đã có sự kêu gọi giảm biên chế,
nhưng cấp xã hiện nay vẫn được giao (theo thống kê chưa đầy đủ) đến 320 việc
(từ cấm đốt pháo đến hạn chế sinh con thứ ba, xoá đói giảm nghèo, đăng ký hộ
khẩu đến chuẩn bị hồ sơ để trình cấp huyện cấp sổ đỏ sở hữu đất đai, v.v.) với
bộ máy đầy đủ lên đến hơn 100 người. Bộ máy nhà nước không thể thực hiện có
hiệu quả các nhiệm vụ, như bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm, chất lượng
dịch vụ massage, cắt tóc, v.v
Hệ thống luật pháp đã được đổi mới và xây dựng lại một cách sâu rộng, từ Hiến
pháp đến hệ thống luật, nghị định, song còn thiếu đồng bộ, giữa các luật được
chuẩn bị bởi các Bộ khác nhau, được ban hành vào những thời điểm khác nhau
còn không ít chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Việc thực thi luật pháp còn có
nhiều vấn đề phải đổi mới, khoảng cách giữa luật trên văn bản và luật trong thực
tế còn lớn.
Do cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý còn chưa được thể chế hoá đầy đủ
và cụ thể, cơ quan đảng có quyền quyết định cao nhất, trong khi Nhà nước, cụ
thể là Chính phủ chịu trách nhiệm trước pháp luật và Quốc hội về việc tổ chức
thực hiện làm cho quá trình quyết định và tổ chức thực hiện khá phức tạp, như
sơ đồ sau đây cho thấy.
Hệ quả là hiệu lực của pháp luật chưa cao, trách nhiệm của doanh nghiệp trong
thực thi pháp luật chưa cao. Đã xuất hiện nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư
luận, như vụ công ty Vedan làm ô nhiễm sông Thị Vải nhưng không được xử lý
nghiêm minh; có tới bốn Bộ chịu trách nhiệm về chất lượng thực phẩm (Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công
nghệ, Bộ Y tế), nhưng trách nhiệm chưa rõ ràng và tình trạng vệ sinh an toàn
thực phẩm còn nhiều thiếu sót kéo dài.
Về các doanh nghiệp tham gia thị trường, bên cạnh khoảng 350.000 doanh
nghiệp có đăng ký có đến 3 triệu hộ kinh doanh gia đình, 5 triệu hộ nông dân có
quy mô rất nhỏ. Nhiều doanh nghiệp chưa có thương hiệu, chưa đăng ký chất
lượng sản phẩm, số nông sản được sản xuất theo quy trình hiện đại (GAP Good
Agricultural Practice), có đăng ký nhãn hiệu vùng sản xuất, như thanh long,
xoài, cà phê, bưởi, v.v. tuy đã tăng lên nhiều, nhưng vẫn còn ít so với tổng sản
lượng các sản phẩm gieo trồng và chăn nuôi. Việc các doanh nghiệp lớn như
Metro đã ký kết hợp đồng và hướng dẫn sản xuất, thu mua nhiều mặt hàng nông
sản bảo đảm chất lượng đã đem lại nhiều tiến bộ trong cung ứng nông sản, kể cả
cho xuất khẩu. Trình độ hiểu biết về pháp luật và tuân thủ pháp luật của doanh
nghiệp nhỏ còn nhiều hạn chế, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp lớn đã được
đề cao và có nhiều tiến bộ, song tại các doanh nghiệp nhỏ, các hộ gia đình và hộ
nông dân, việc tuân thủ luật lao động, các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm còn
nhiều hạn chế.
Các doanh nghiệp lớn, có thương hiệu, có nhãn hiệu đăng ký, hoạt động trên
lĩnh vực xuất khẩu đạt trình độ về trách nhiệm xã hội được các nhà nhập khẩu
chấp nhận được. Các doanh nghiệp này thực hiện nghiêm túc các tiêu chuẩn SA
8000, ISPO 14000, bảo đảm trình độ vệ sinh và an toàn thực phẩm tốt. Các
doanh nghiệp này đã có chiến lược dài hạn để thực hiện ngày càng đầy đủ hơn
trách nhiệm xã hội cả về bảo vệ môi trường, hạn chế lượng khí thải v.v
Một hiện tượng khá phổ biến ở Việt Nam là các doanh nghiệp tích cực tham gia
vào các hoạt động từ thiện, như giúp đỡ nạn nhân của bão lụt, thiên tai hay tai
nạn, đóng góp vào Quỹ xoá đói giảm nghèo của các tổ chức quần chúng khác
nhau. Bên cạnh mặt tích cực của sự đóng góp, do thiếu quy định pháp luật chặt
chẽ về việc khấu trừ số tiền đóng góp vào chi phí trước thuế, v.v., nên còn có
không ít ý kiến khác nhau về động cơ lành mạnh của sự đóng góp này và liệu có
thể đồng nhất sự đóng góp với trách nhiệm xã hội hay không. Bên cạnh ý kiến
hoan nghênh, có không ít ý kiến cho rằng, một số doanh nghiệp có động cơ
“đánh bóng hình ảnh” và có mục đích vụ lợi.
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có khung pháp luật và hướng dẫn về việc các doanh
nghiệp phải có báo cáo về hạch toán xã hội, kiểm toán xã hội và báo cáo xã hội
để cộng đồng biết và giám sát.
Về luật pháp chế định các thể chế kinh tế thị trường, Việt Nam đã ban hành
Luật Cạnh tranh, nhưng chưa có Luật Kiểm soát độc quyền và việc thực hiện
Luật Cạnh tranh còn có nhiều hạn chế. Các luật pháp về kế toán, kiểm toán, các
chuẩn mực đã được ban hành, nhưng việc thực hiện trong thực tế còn nhiều hạn
chế. Việt Nam đang chuẩn bị Luật về Quyền tiếp cận thông tin, song chưa có
Luật về Hiệp hội và chưa chuẩn bị Luật về Vận động hành lang. Thông tin kinh
tế còn nhiều hạn chế, nhiều số liệu chưa được công bố công khai và kịp thời.
Các hoạt động giám sát đối với ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường
bất động sản còn sơ khai và cần được nhanh chóng hoàn thiện.
Các tổ chức thuộc xã hội dân sự Việt Nam đã được hình thành và hoạt động, có
đóng góp thiết thực, như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các
Hiệp hội ngành nghề, như Dệt may, Xuất khẩu Thuỷ sản, Hiệp hội các nhà đầu
tư tài chính, v.v Nhiều tổ chức đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn, vận động thực
hiện các tiêu chuẩn và quy định của trách nhiệm xã hội, nhất là đối với người
lao động và người tiêu dùng. Song, do thiếu cơ sở pháp lý cần thiết, nên sự đóng
góp đó còn hạn chế. Bản thân các hiệp hội đó còn cần phải nâng cao tính chuyên
nghiệp và hiệu quả thiết thực đối với hội viên.
Tóm lại, trách nhiệm xã hội ở Việt Nam đã được nhận thức và bước đầu được
thực hiện. Chắc chắn rằng, cùng với quá trình phát triển của đất nước, trách
nhiệm đó sẽ được đề cao hơn cùng với sự hoàn thiện của khung pháp luật, bộ
máy nhà nước, thể chế kinh tế thị trường và các thể chế của xã hội dân sự. r
(*) Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu phát triển.
02 - Sơ đồ minh họa cho bài viết xin xem Tạp chí Triết học bản in