Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN QUỐC TOÀN





BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƢỜI ĐANG BỊ
TRUY NÃ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2008


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT




TRẦN QUỐC TOÀN




BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƢỜI ĐANG BỊ
TRUY NÃ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số: 60 38 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Võ Khánh Vinh






HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC



trang
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
BẮT NGƢỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
5
1.1. Khái niệm bắt ngƣời đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc bắt người đang bị truy nã trong tố tụng
hình sự
5
1.1.2. Yêu cầu của việc bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
9
1.2. Nguyên tắc bắt ngƣời đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
11
1.3. Cơ sở pháp lý của công tác bắt ngƣời đang bị truy nã trong pháp luật
tố tụng hình sự
15
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
19
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƢỜI
ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
21
2.1. Thực trạng các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời đang bị
truy nã trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
21
2.1.1. Vài nét lịch sử các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị
truy nã trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trước khi có Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003)
21
2.1.2. Các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã theo
pháp luật tố tụng hình sự hiện hành (sau khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003)
31
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời
50

2
đang bị truy nã trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nƣớc ta
2.2.1. Những kết quả đã đạt được
50
2.2.2. Nhận xét về những hạn chế, bất cập
57
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
64
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƢỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
65
3.1. Yêu cầu và định hƣớng công tác bắt ngƣời đang bị truy nã ở nƣớc ta
hiện nay
65
3.1.1. Yêu cầu của công tác bắt người đang bị truy nã trong giai đoạn hiện nay
65
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả về công tác bắt người đang bị truy nã
trong giai đoạn hiện nay
67

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bắt ngƣời đang bị truy
nã trong giai đoạn hiện nay
69
3.2.1. Tổ chức tốt lực lượng trong công tác bắt người đang bị truy nã
69
3.2.2. Hoàn chỉnh cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong công tác bắt người
đang bị truy nã
71
3.2.3. Tăng cường kinh phí cho công tác bắt người đang bị truy nã
74
3.2.4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về công tác bắt người đang bị truy

75
3.2.5. Tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong thực hiện công tác bắt người
đang bị truy nã
80
3.2.6. Thực hiện tốt công tác phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh
Tổ quốc
81

3
KẾT LUẬN
83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85


4
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN




BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CAND: Công an nhân dân
CQĐT: Cơ quan điều tra
CSND: Cảnh sát nhân dân
CSĐT: Cảnh sát điều tra
PLTCĐTHS: Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
TAND: Toà án nhân dân
TANDTC: Toà án nhân dân tối cao
TTHS: Tố tụng hình sự
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa











5
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Bắt người đang bị truy nã là một trong những biện pháp ngăn chặn được
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và là một công tác nghiệp
vụ quan trọng của lực lượng Công an nhân dân (CAND) nhằm truy bắt những
đối tượng phạm tội bỏ trốn để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự.
Trong những năm gần đây, các đơn vị nghiệp vụ của lực lượng CAND
đã có nhiều cố gắng, bởi vậy công tác bắt người đang bị truy nã đã đạt được
nhiều kết quả đáng khích lệ, đã bắt và vận động được nhiều đối tượng bị truy
nã ra tự thú, góp phần tích cực phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Tuy nhiên, hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, vẫn còn rất
nhiều đối tượng bị truy nã đang lẩn trốn, trong đó có nhiều đối tượng truy nã
nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm đã ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội,
gây ra nhiều mối lo ngại trong các tầng lớp nhân dân và các cơ quan bảo vệ
pháp luật.
Để đảm bảo trật tự, an toàn xã hội và phục vụ tốt công tác điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự; đảm bảo kỷ cương pháp luật, xử lý kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn, đánh giá thực trạng từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả của
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã là yêu cầu mang
tính cấp thiết. Mặt khác, nhìn nhận từ bình diện lý luận cho thấy, tuy đã được
quan tâm nghiên cứu và đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về truy
nã người phạm tội bỏ trốn; các công trình này có ý nghĩa quan trọng góp phần
hoàn thiện lý luận về các biện pháp ngăn chặn và cùng đó là từng bước chuẩn
hoá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) về biện pháp bắt
người đang bị truy nã. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu về biện pháp bắt người đang bị truy nã với tính chất là một

6
trong những biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Từ những lý do nêu trên, việc
chọn vấn đề "Biện pháp ngặn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng

hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn cao.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về công tác bắt người đang bị truy nã, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả công tác bắt người đang bị truy nã trong thời gian tới.
- Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết những
nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu dưới góc độ lý luận và pháp lý để làm rõ khái niệm, các
đặc điểm, yêu cầu, nguyên tắc và cơ sở pháp lý của công tác bắt người đang
bị truy nã;
+ Phân tích thực trạng các quy định và thực trạng áp dụng biện pháp
ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong TTHS qua đó đưa ra các nhận xét
về ưu điểm và những hạn chế của công tác bắt người đang bị truy nã ở nước
ta trong thời gian qua;
+ Tổng hợp kết quả nghiên cứu, dự báo tình hình và đề xuất một số giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác bắt người đang bị truy nã trong
thời gian tới.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy
nã theo pháp luật TTHS Việt Nam;
+ Cơ sở pháp lý của biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong
TTHS;
+ Thực trạng các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy
nã trong pháp luật TTHS Việt Nam ;

7
+ Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã
trong thời gian qua;

+ Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt
người đang bị truy nã trong thời gian tới.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+ Phạm vi nghiên cứu trên toàn quốc, thời gian từ năm 2004 đến năm
2007, đối tượng truy nã chỉ giới hạn trong phạm vi của lực lượng CAND;
+ Tình hình thực tế và số liệu thực tế của luận văn lấy từ các tài liệu, báo
cáo thực tế của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện kiểm
sát nhân dân tối cao (VKSNDTC)
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về đấu tranh phòng, chống tội phạm cùng với phương pháp nghiên cứu của
chuyên ngành Luật hình sự, TTHS và các phương pháp nghiên cứu cụ thể
khác như: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích thuần tuý quy
phạm pháp luật
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và
đánh giá thực tiễn của công tác bắt người đang bị truy nã để đưa ra dự báo về
tình hình bắt người đang bị truy nã trong thời gian tới; đồng thời, làm rõ các
đặc điểm, yêu cầu, phương hướng và nhiệm vụ của công tác bắt người đang bị
truy nã trong thời gian tới, từ đó, đề xuất các giải pháp để góp phần nâng cao
hiệu quả công tác bắt người đang bị truy nã, phục vụ tốt hơn cho công cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay nên kết quả rút ra
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa lý luận thể hiện ở chỗ, luận văn góp
phần làm phong phú và từng bước hoàn thiện lý luận chuyên ngành; ở phần
thực tiễn, luận văn cung cấp các luận cứ để cán bộ thực tế tham khảo vận
dụng vào công tác truy nã người phạm tội bỏ trốn để nâng cao hiệu quả công

8
tác này. Với ý nghĩa như vậy, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo khi học tập, nghiên cứu về chuyên ngành Luật hình sự, TTHS trong các
cơ sở đào tạo của ngành Công an và cơ sở đào tạo khác.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chƣơng 1. Những vấn đề chung về biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời
đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
Chƣơng 2. Thực trạng các quy định và thực trạng áp dụng các quy
định về biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời đang bị truy nã trong tố tụng
hình sự
Chƣơng 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn
chặn bắt ngƣời đang bị truy nã







9

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
BẮT NGƢỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm bắt ngƣời đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc bắt người đang bị truy nã trong tố
tụng hình sự
a) Khái niệm bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
Bắt người đang bị truy nã là một trong những biện pháp ngăn chặn được
quy định trong BLTTHS và là một công tác nghiệp vụ quan trọng của lực

lượng CAND, có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều tra, xử lý tội
phạm nhằm truy bắt những đối tượng phạm tội bỏ trốn để phục vụ cho công
tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; đồng thời ngăn chặn các vụ
vi phạm pháp luật khác do những đối tượng phạm tội bỏ trốn đó có thể gây ra.
Bắt người đang bị truy nã là trường hợp bắt người đã thực hiện hành vi
phạm tội rồi bỏ trốn hoặc trốn khỏi nơi giam giữ, nơi thi hành án và cơ quan
có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã. Theo quy định của pháp luật TTHS
thì: đối tượng truy nã bao gồm những người sau đây: bị can (người đã bị khởi
tố về hình sự) bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; bị cáo (người đã bị Toà án
quyết định đưa ra xét xử) bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; người bị kết án
(người đã bị Toà án kết án tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình đang
chờ thi hành án - có thể đang bị tạm giam hoặc cho tại ngoại) bỏ trốn; phạm
nhân (người đang chấp hành bản án trong các trại giam, phân trại quản lý
phạm nhân, trong trại tạm giam và nhà tạm giữ) trốn trại.
Xét về hành vi thì người đang bị truy nã chỉ có thể thực hiện hành vi trốn
tránh pháp luật chứ không phải là đang thực hiện tội phạm hoặc là ngay sau
khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt nên người đang bị truy
nã không phải là người phạm tội quả tang. Song do yêu cầu cấp bách cần

10
ngăn chặn ngay người bị truy nã trốn tránh pháp luật, nên thủ tục, thẩm quyền
bắt người đang bị truy nã cũng được áp dụng như trường hợp bắt người phạm
tội quả tang. Người đang bị truy nã phải là người mà các cơ quan có thẩm
quyền đã ra quyết định truy nã, trong đó ghi rõ tên, tuổi, quê quán, đặc điểm
để nhận dạng, có ảnh kèm theo và tội danh. Quyết định truy nã được thông
báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và gửi tới các cơ quan có trách
nhiệm, được niêm yết ở những nơi công cộng để mọi người phát hiện và bắt
giữ người đang bị truy nã.
Bắt người đang bị truy nã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm
pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, về mặt lý luận, cho đến nay chưa có khái

niệm thống nhất về bắt người đang bị truy nã mà còn có nhiều quan niệm
khác nhau về vấn đề này. Trong đó có thể phải nhắc đến các quan niệm sau:
Theo Giáo trình truy nã - truy tìm, trường đại học Cảnh sát nhân dân, Hà
Nội, năm 1988, thì: "Truy nã tội phạm là một công tác nghiệp vụ của cơ quan
Công an được tiến hành bằng mọi biện pháp cần thiết nhằm bắt lại những
người đang trốn tránh pháp luật theo quyết định của cơ quan có thẩm
quyền"[43].
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm
1992 thì truy nã được hiểu là: "Lùng bắt ráo riết người phạm tội đang lẩn
trốn theo lệnh truy nã của cơ quan có thẩm quyền"[45].
Theo Từ điển bách khoa CAND Việt Nam, Nhà xuất bản CAND, 2005
thì: "Truy nã tội phạm là truy bắt người phạm tội đang lẩn trốn theo quyết
định truy nã của cơ quan có thẩm quyền. Truy nã tội phạm là một hoạt động
điều tra trong TTHS, được thực hiện bằng cách áp dụng tổng hợp các biện
pháp công tác, nhằm phát hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù
hoặc tử hình, phạm nhân đang lẩn trốn phục vụ cho công tác điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án"[44].
Từ những khái niệm này có thể thấy rằng, mỗi một khái niệm được nêu
trên đây, dù được tiếp cận ở những góc độ khác nhau, nhưng mỗi khái niệm

11
đều đã phản ánh rõ nét những đặc trưng cơ bản nhất về nội dung, bản chất của
biện pháp bắt người đang bị truy nã, đó là: truy tìm, phát hiện, bắt giữ bị can,
bị cáo, người có án phạt tù có hiệu lực, án tử hình trốn tránh pháp luật để phục
vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; bắt người đang
bị truy nã là hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an được tiến hành theo
quyết định của cơ quan có thẩm quyền…
Từ những quan niệm nêu trên, qua nghiên cứu của chúng tôi, có thể đi
đến hình thành khái niệm về truy nã người đang phạm tội lẩn trốn như sau:
Truy nã người phạm tội lẩn trốn là một trong những hoạt động đấu tranh

phòng, chống tội phạm của lực lượng CAND được thực hiện bằng cách áp
dụng tổng hợp các biện pháp mà pháp luật cho phép và các biện pháp nghiệp
vụ của ngành Công an nhằm phát hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án
phạt tù hoặc tử hình, phạm nhân đang lẩn trốn, phục vụ cho công tác điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự an toàn xã hội.
b) Đặc điểm của việc bắt người đang bị truy nã trong TTHS
Bắt người bị truy nã có nhiều nét đặc thù so với bắt các đối tượng khác
trong TTHS, nhưng nhìn chung có các đặc điểm sau:
- Mọi công dân đều có quyền bắt giữ đối tượng có quyết định, lệnh truy

Bắt giữ người đang bị truy nã được quy định tại Điều 82 BLTTHS năm
2003, theo đó, khi phát hiện được đối tượng có Quyết định truy nã thì mọi
công dân đều có quyền bắt giữ và tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. Đây
là quy định thể hiện tính xã hội hoá hoạt động đấu tranh phòng, chống tội
phạm; thể hiện quyết tâm đấu tranh phòng, chống tội phạm của Nhà nước ta
là phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực để truy bắt đến cùng những đối tượng
phạm tội bỏ trốn. Với ý nghĩa như vậy, lực lượng CAND cần làm tốt công tác
xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc rộng khắp trong
nhân dân, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân

12
giúp đỡ lực lượng CAND trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung,
phát hiện, bắt giữ người đang bị truy nã nói riêng. Cần tiến hành các hình thức
tuyên truyền phong phú để nhân dân hiểu về quyền, nghĩa vụ của mình, từ đó
có ý thức tự giác, tích cực tham gia giúp đỡ lực lượng Công an trong công tác
bắt người đang bị truy nã. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định truy nã cần tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về bắt người đang
bị truy nã để ra quyết định truy nã được đầy đủ, chi tiết, chính xác và thông
báo rộng rãi để mọi công dân có thể dễ dàng phát hiện và bắt giữ đúng đối

tượng đang bị truy nã.
- Trách nhiệm thực hiện Quyết định truy nã là của cán bộ, chiến sĩ
CAND
Quyết định truy nã của các cơ quan có thẩm quyền là cơ sở pháp lý để
tiến hành bắt giữ kịp thời người có hành vi phạm tội lẩn trốn, đảm bảo thi
hành pháp luật, đồng thời phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực
lượng và các biện pháp được áp dụng để bắt người đang bị truy nã đạt kết quả
cao. Theo quy định của Bộ Công an, quyết định truy nã là mệnh lệnh chiến
đấu đối với mọi tập thể và cá nhân cán bộ chiến sĩ CAND [21], theo đó, tất cả
các lực lượng, các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ CAND khi nhận được quyết định
truy nã đều phải nghiêm chỉnh chấp hành và tạo những điều kiện cần thiết để
truy bắt đối tượng lẩn trốn. Điều này thể hiện rõ nét tính kỷ luật của CAND
và tính đảm bảo thực hiện quyết định truy nã bằng quyền lực nhà nước.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, ở những mức
độ nhất định, các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ CAND đều phải xác định trách
nhiệm của mình trong việc tổ chức thực hiện và phối hợp, tham gia công tác
truy nã tội phạm. Việc lẩn tránh, đùn đẩy trách nhiệm thực hiện công tác truy
nã tội phạm có ảnh hướng rất lớn tới hiệu quả của việc tổ chức thực hiện bắt
người đang bị truy nã và trái với các quy định của pháp luật hiện hành.

13
- Cơ quan có quyền ra Quyết định truy nã khi bắt được đối tượng hoặc
đối tượng đã chết, đã đầu thú, đã được thanh loại, cơ quan đó phải ra Quyết
định đình nã và gửi tới những nơi đã gửi Quyết định truy nã
Theo quy định của pháp luật TTHS thì Quyết định truy nã được coi là
văn bản khởi đầu và Quyết định đình nã là văn bản kết thúc quá trình truy nã
đối với một người nào đó có hành vi phạm tội bỏ trốn. Việc tuân thủ nguyên
tắc này có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo được tính thống nhất trong quá
trình tiến hành TTHS và thi hành pháp luật, đồng thời tạo thuận lợi trong việc
theo dõi, kiểm tra và đánh giá hiệu quả của công tác bắt truy nã tội phạm.

Trong suốt quá trình truy nã tội phạm, những đơn vị, cá nhân có trách
nhiệm phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật khi ra Quyết
định truy nã và Quyết định đình nã; phải thường xuyên theo dõi và có tinh
thần trách nhiệm đến cùng khi tiến hành xác minh, truy nã một đối tượng cụ
thể. Khi xác định đối tượng truy nã đã bị bắt hoặc tự thú hay đã được thanh
loại ở bất kỳ Công an đơn vị, địa phương nào thì cơ quan đã ra Quyết định
truy nã phải kịp thời ra Quyết định đình nã để kết thúc việc truy nã một đối
tượng, tránh được những lãng phí về nhân lực, vật lực trong việc tổ chức thực
hiện Quyết định truy nã đã được phát hành. Để những cơ quan có chức năng
biết và kết thúc việc truy nã đối với đối tượng truy nã đã bị bắt, Quyết định
đình nã phải được gửi tới những nơi đã gửi Quyết định truy nã.
1.1.2. Yêu cầu của việc bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
Yêu cầu của công cuộc đấu tranh ngăn ngừa, phòng, chống tội phạm nói
chung là chủ động ngăn ngừa các hành vi phạm tội xảy ra, kịp thời phát hiện,
xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật với các hành vi phạm tội; đồng thời, tìm
ra những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm và đưa ra các giải pháp để
hạn chế, triệt tiêu những nguyên nhân đó.
Công tác bắt người đang bị truy nã trong TTHS cũng phải dựa trên
những yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung;

14
theo đó, công tác bắt người đang bị truy nã trong TTHS cần phải đáp ứng các
yêu cầu sau:
a) Tổ chức lực lượng để xác minh, tìm kiếm, bắt giữ bị can, bị cáo, người
bị kết án tù, án tử hình, phạm nhân đang lẩn trốn theo quyết định của cơ quan
có thẩm quyền nhằm phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án hình sự
Mục đích của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta là bên
cạnh việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và xử lý nghiêm minh
các hành vi phạm tội, còn phải bảo đảm yêu cầu cải tạo, giáo dục người phạm

tội để đưa họ tái hoà nhập cộng đồng, trở thành người lương thiện, có ích cho
xã hội. Vì vậy, khi người phạm tội còn lẩn trốn ở ngoài xã hội, trước hết sẽ
gây ra những cản trở cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình
sự; người phạm tội còn lẩn trốn ngoài vòng pháp luật càng lâu, càng có điều
kiện để tiếp tục thực hiện những hành vi phạm tội, gây ra những hậu quả xấu
cho xã hội và có điều kiện để cản trở việc tìm kiếm, bắt giữ của các cơ quan
thi hành pháp luật… Vì vậy, khi phát hiện người phạm tội lẩn trốn, các cơ
quan có thẩm quyền phải khẩn trương tổ chức lực lượng, áp dụng các biện
pháp để xác minh, truy tìm, truy bắt; việc tổ chức truy bắt phải được tiến hành
kịp thời, liên tục, huy động mọi lực lượng, phương tiện, sử dụng mọi biện
pháp được pháp luật cho phép để truy bắt đến cùng đối tượng phạm tội bỏ
trốn trong thời gian ngắn nhất.
b) Kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi phạm tội và sự câu kết, móc nối
đồng bọn của các đối tượng truy nã, không để những đối tượng này hình
thành tổ chức, băng, nhóm tội phạm
Vì luôn có ý thức trốn tránh pháp luật, người phạm tội bỏ trốn thường có
ý thức đối phó sự truy tìm, truy bắt của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Để tiếp
tục lẩn trốn, chúng thường tìm cách câu kết, móc nối, tụ tập thành những tổ
chức, băng, nhóm tội phạm và những tổ chức, băng, nhóm tội phạm này
thường rất nguy hiểm, thực hiện các hành vi phạm tội nghiêm trọng, tâm lý

15
manh động, sẵn sàng chống trả quyết liệt khi bị phát hiện, truy bắt. Vì vậy,
khi tiến hành truy nã đối tượng phạm tội bỏ trốn, cần phải tăng cường công
tác nắm tình hình địa bàn và các đối tượng phạm tội để kịp thời phát hiện sự
câu kết, móc nối của các nhóm tội phạm; kịp thời triệt phá, tấn công các nhóm
tội phạm, tổ chức truy quét theo tuyến địa bàn, đặc biệt là các địa bàn trọng
điểm phức tạp về trật tự, an toàn xã hội. Đây cũng là một đặc điểm của người
phạm tội bỏ trốn bị truy nã, vì vậy, các cơ quan có chức năng khi thực hiện
công tác truy tìm, truy nã người phạm tội bỏ trốn cần chú ý đến đặc điểm này

để tổ chức thực hiện công tác truy nã người phạm tội bỏ trốn đạt hiệu quả cao.
c) Phát hiện những nguyên nhân, thủ đoạn lẩn trốn của người phạm tội
để tìm ra các giải pháp khắc phục, hạn chế những nguyên nhân đó và nâng
cao hiệu quả truy bắt đối tượng truy nã
Cùng với việc tổ chức truy nã người phạm tội lẩn trốn, các cơ quan bảo
vệ pháp luật cần tìm ra nguyên nhân tội phạm lẩn trốn để đưa ra các giải pháp
khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý đối tượng. Bên cạnh
đó, qua công tác truy nã người phạm tội lẩn trốn để phát hiện những thủ đoạn
lẩn trốn, phương thức đối phó với lực lượng truy bắt của người phạm tội bỏ
trốn bị truy nã, từ đó rút ra những kinh nghiệm trong công tác quản lý, giam
giữ, dẫn giải, thi hành án và công tác tổ chức xác minh, truy tìm, truy bắt đối
tượng bỏ trốn để nâng cao hiệu quả công tác bắt người đang bị truy nã và hạn
chế số lượng đối tượng bỏ trốn.
1.2. Nguyên tắc bắt ngƣời đang bị truy nã trong tố tụng hình sự
Bắt người đang bị truy nã là công việc liên quan đến pháp luật và bảo
đảm an toàn tuyệt đối cho người bị bắt cũng như người bắt, lực lượng bắt nên
đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
a) Không được ra Quyết định truy nã, Quyết định đình nã và sử dụng các
quyết định đó trái với quy định của pháp luật và của Bộ Công an
BLTTHS đã quy định cụ thể về các trường hợp bắt người khác nhau,
như: bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt người trong

16
trường hợp khẩn cấp, bắt bị can, bị cáo để tạm giam… Trong từng trường hợp
bắt cụ thể, pháp luật TTHS đã quy định căn cứ, thủ tục, trình tự, thẩm quyền
bắt đối với từng trường hợp bắt cụ thể. Đối với trường hợp bắt người phạm tội
quả tang và người đang bị truy nã thì mọi công dân đều có quyền bắt và tước
vũ khí của người bị bắt; trong các trường hợp bắt khác, việc bắt người chỉ
được tiến hành do cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, việc cơ quan, cá
nhân lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao để ra Quyết định truy nã thay

lệnh bắt người là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định trong công
tác của Bộ Công an; việc ra quyết định và sử dụng Quyết định truy nã trái
pháp luật có thể gây ra những hậu quả khác như làm oan người vô tội, bỏ sót
tội phạm, vi phạm quyền tự do của công dân, làm giảm uy tín của lực lượng
Công an
b) Truy nã phải đúng người, đúng hành vi phạm tội mà đối tượng đã gây
ra, đảm bảo tính khách quan, chính xác và quyền tự do, dân chủ của công
dân
Công tác truy nã người phạm tội là một trong những hoạt động của cơ
quan bảo vệ pháp luật thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật TTHS.
Việc thực hiện đúng quy định của pháp luật trong hoạt động truy nã người
phạm tội lẩn trốn là một nguyên tắc quan trọng, xuyên suốt trong công tác
truy nã. Thực hiện nguyên tắc này là thực hiện sự bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa (XHCN) trong hoạt động truy nã người phạm tội lẩn trốn, các cơ
quan có thẩm quyền chỉ được ban hành Quyết định truy nã đối với những
người là bị can, bị cáo, bị án, phạm nhân đang lẩn trốn sau khi đã xác định
được chính xác tên, tuổi, nơi cư trú, đặc điểm để nhận dạng, ảnh và những
thông tin cơ bản khác theo quy định của pháp luật. Những thông tin về đối
tượng truy nã cần đảm bảo chính xác, dễ xác định, để nhờ đó mà các cơ quan
chức năng và quần chúng nhân dân có thể phát hiện ra manh mối của đối
tượng truy nã đang lẩn trốn và xác định đúng đối tượng đang bị truy nã để tiến

17
hành bắt giữ kịp thời. Đây là yếu tố rất quan trọng, giúp cho việc tổ chức truy
nã được thuận lợi, chính xác, tránh oan sai.
c) Phải có kế hoạch, phương án truy bắt và tiến hành khẩn trương,
nhanh chóng, kịp thời, thận trọng; đảm bảo tuyệt đối an toàn tính mạng, sức
khoẻ cho lực lượng tham gia truy bắt và quần chúng nhân dân; đảm bảo an
toàn tài sản của Nhà nước, tập thể và công dân
Trong công tác truy nã người phạm tội bỏ trốn, đặc điểm rõ nét nhất là

người bị truy nã luôn luôn tìm mọi cách để nhanh chóng lẩn trốn, che dấu
hành vi phạm tội của mình để lẩn tránh sự trừng trị của pháp luật. Vì vậy, khi
phát hiện người phạm tội bỏ trốn, các cơ quan chức năng cần khẩn trương xây
dựng kế hoạch, phương án truy bắt và tổ chức lực lượng tiến hành xác minh,
truy bắt nhanh chóng, kịp thời, thận trọng. Bên cạnh đó, người phạm tội đang
bị truy nã luôn sử dụng mọi cách để có thể đối phó với các cơ quan bảo vệ
pháp luật, phần lớn những đối tượng bị truy nã thường là những đối tượng có
tiền án, tiền sự, côn đồ, hung hãn; khi lẩn trốn thường rất ngoan cố và manh
động. Từ đặc điểm đó, việc tổ chức bắt người đang bị truy nã là một công
việc rất khó khăn, nguy hiểm, đòi hỏi phải được xây dựng kế hoạch chặt chẽ,
chi tiết, phải tính toán hết những khả năng có thể xảy ra trong việc xác minh,
truy tìm, truy bắt người đang bị truy nã để đảm bảo tuyệt đối an toàn tính
mạng, sức khoẻ cho lực lượng tham gia truy bắt và quần chúng nhân dân; đảm
bảo an toàn tài sản của Nhà nước, tập thể và công dân, hạn chế đến mức thấp
nhất những hậu quả xấu có thể xảy ra; đồng thời, đảm bảo cho công tác bắt
người đang bị truy nã được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả.
d) Sử dụng tổng hợp các biện pháp mà pháp luật cho phép và các biện
pháp nghiệp vụ của ngành Công an, các phương tiện nghiệp vụ để phát hiện,
truy bắt và vận động đầu thú các đối tượng truy nã có hiệu quả
Truy nã tội phạm là hoạt động TTHS được tiến hành công khai, tuy
nhiên việc tổ chức thực hiện bắt người đang bị truy nã phải sử dụng đồng thời
các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an.

18
Truy nã tội phạm là hoạt động TTHS được tiến hành công khai thể hiện
ở chỗ, hoạt động này được quy định rõ ràng trong BLTTHS. Điều 161
BLTTHS năm 2003 quy định: "Quyết định truy nã được thông báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng để mọi người phát hiện, bắt, giữ người bị
truy nã"; Điều 82 BLTTHS năm 2003 quy định: "Đối với người đang thực
hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị

đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền
bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS) hoặc Uỷ ban
nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay
người bị bắt đến Cơ quan điều tra (CQĐT) có thẩm quyền"[4]. Tuy nhiên,
trên thực tế, để tổ chức bắt được người đang bị truy nã là một công việc hết
sức khó khăn, mất nhiều công sức, đòi hỏi phải áp dụng nhiều biện pháp công
tác nghiệp vụ của lực lượng CAND mới bắt được những đối tượng bỏ trốn.
Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an, các
cơ quan có chức năng cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các
tổ chức, các cấp, các ngành và mọi công dân trong công tác truy nã tội phạm.
Sự phối hợp giữa các lực lượng trong CAND và các cơ quan bảo vệ pháp luật
khác với công dân trong việc truy bắt đối tượng truy nã vừa là trách nhiệm và
xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi thực tiễn của công tác bắt người đang bị truy nã.
Phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm nói chung, tổ chức thực hiện công tác truy nã tội phạm nói riêng, lực
lượng CAND phải huy động và phát huy, sử dụng sức mạnh tổng hợp của các
lực lượng, các tổ chức, các cấp, các ngành và mọi cá nhân công dân trong
công tác truy nã tội phạm. Trên cơ sở phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng,
các tổ chức, các cấp, các ngành và mọi cá nhân công dân sẽ đảm bảo cho
công tác truy nã tội phạm được thông suốt, nhịp nhàng, thuận lợi trong tất các
các bước, các hoạt động cụ thể; đảm bảo cho công tác truy nã tội phạm đạt
hiệu quả cao, đồng thời góp phần cho việc xây dựng được thế trận an ninh
nhân dân vững chắc trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm.

19
d) Việc sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ, vũ khí để trấn áp đối tượng truy
nã trong khi bắt giữ phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật
Trong khi tiến hành công tác bắt người phạm tội đang lẩn trốn bị truy nã,
pháp luật cho phép lực lượng CAND được sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ, vũ
khí để trấn áp đối tượng truy nã khi tổ chức bắt giữ. Tuy nhiên, khi xây dựng

kế hoạch bắt giữ đối tượng bị truy nã, các cơ quan chức năng cần phải nghiên
cứu kỹ lưỡng về nhân thân, đặc điểm tâm lý, địa bàn ẩn náu… của đối tượng
để bố trí lực lượng và phương tiện nghiệp vụ cho phù hợp. Đối với những đối
tượng côn đồ, hung hãn, manh động, ngoan cố thì phải sử dụng các biện pháp
mạnh để trấn áp; đối với những đối tượng khác thì phải tính toán kỹ lưỡng
trong việc sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ, vũ khí. Việc sử dụng vũ khí và
công cụ hỗ trợ phải tuân thủ các quy định của pháp luật, nghiêm cấm việc lạm
dụng sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ khi tiến hành bắt giữ đối tượng phạm tội
lẩn trốn; việc sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ, vũ khi khi tiến hành bắt giữ đối
tượng phạm tội lẩn trốn phải được tiến hành thận trọng, hạn chế tối đa những
nguy hiểm, những ảnh hưởng đối với lực lượng truy bắt và quần chúng nhân
dân.
1.3. Cơ sở pháp lý của công tác bắt ngƣời đang bị truy nã trong pháp
luật tố tụng hình sự
Cơ sở pháp lý của công tác bắt người đang bị truy nã là những quy định
của pháp luật TTHS mà dựa vào đó, các cơ quan có thẩm quyền và những lực
lượng có chức năng tiến hành các hoạt động tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội
đang lẩn trốn theo quyết định truy nã, lệnh truy nã của cơ quan có thẩm
quyền. Như vậy, cơ sở pháp lý của việc bắt người đang bị truy nã là hệ thống
các quy định của pháp luật về truy nã người phạm tội lẩn trốn, là tổng thể các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ
chức và thực hiện hoạt động tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội lẩn trốn theo
quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

20
Cơ sở pháp lý của việc bắt người đang bị truy nã gồm những quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, của liên ngành và của
Bộ Công an qua các giai đoạn, trong đó có thể kể đến các văn bản sau:
- Ngay sau khi giành được chính quyền năm 1945, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 23-SL ngày 21-2-1946 về việc

thành lập Việt Nam Công an vụ, trong đó quy định rõ về nhiệm vụ của Việt
Nam Công an vụ: "… Truy tìm người, can phạm để giúp Toà án trong sự
trừng trị." [23]; Sắc luật số 002/SL ngày 18-6-1957, quy định người đang có
lệnh truy nã, người đang bị giam giữ mà lẩn trốn được coi là phạm pháp quả
tang, người công dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Uỷ ban hành
chính, TAND hoặc đồn Công an nơi gần nhất [24].
- BLHS năm 1985 quy định về truy nã người phạm tội lẩn trốn tại các
điều 45, 46.
- BLTTHS năm 1988, vấn đề truy nã tội phạm được quy định rải rác
trong các điều: 64, 65, 68, 94, 115, 135, 136, 141, 143b, 162.
- Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự (PLTCĐTHS) năm 1989, truy nã
người phạm tội lẩn trốn được quy định tại Điều 22.
- Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992, Điều 71 đã quy
định: "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo
hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê
chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ
người phải đúng pháp luật…" [9].
- BLHS năm 1999 quy định về truy nã người phạm tội lẩn trốn tại các
điều 23, 55.
- BLTTHS năm 2003, truy nã người phạm tội lẩn trốn được quy định tại
các điều 34, 36, 38, 49, 50, 80, 82, 83, 86, 88, 112, 140, 160, 161, 169, 187,
256, 260.

21
- Triển khai thực hiện các quy định trên, liên ngành TANDTC,
VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã ban hành nhiều
văn bản hướng dẫn thi hành, như: Thông tư số 02/TTLN ngày 12-01-1989
liên ngành TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công
an) hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS; Thông tư liên ngành

số 05/TTLN ngày 02-6-1990 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an),
VKSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành chính sách đối với
người phạm tội ra tự thú; Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 07-01-1995
của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn một
số quy định về truy nã bị can, bị cáo trong giai đoạn truy tố và xét xử; Thông
tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07-9-2005 của
VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa CQĐT
và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003…
- Bộ Công an cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện công
tác truy nã người phạm tội lẩn trốn trong ngành Công an như: Chỉ thị số
10/CT-BNV ngày 23-5-1986 về việc tổ chức truy bắt lại đối tượng trốn trại
cải tạo, trại tạm giam, nhà tạm giữ; Quy định số 09/QĐ/BNV(C14) ngày 30-
5-1986 về công tác truy nã tội phạm hình sự; Quy định số 207/QĐ-BNV ngày
14-12-1990 bổ sung công tác truy nã tội phạm trong lực lượng CAND; Thông
tư số 03/TT-BNV(C11) ngày 11-4-1997 hướng dẫn việc truy nã người bị phạt
tù và bị cáo đang được tại ngoại bỏ trốn; Quyết định số 465/1998/QĐ-
BCA(V22) ngày 31-7-1998 về chế độ quản lý và sử dụng kinh phí truy nã
trong lực lượng CAND; Quyết định số 437/1999/QĐ-BCA(C11) ngày 04-8-
1999 về phối hợp và trao đổi thông tin tội phạm giữa cơ quan hồ sơ nghiệp vụ
với các đơn vị nghiệp vụ trong lực lượng CSND; Thông tư số 12/2004/TT-
BCA(V19) ngày 23-9-2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của
PLTCĐTHS năm 2004 trong CAND; Quyết định số 1385/2007/QĐ-
BCA(C11) ngày 12-11-2007 ban hành Quy chế về công tác truy nã; Quyết
định số 1565/2007/QĐ-BCA(V22) ngày 10-12-2007 quy định quản lý và sử

22
dụng kinh phí truy nã trong lực lượng CAND Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công
an cũng ban hành theo thẩm quyền nhiều quy định, công văn và kế hoạch để
hướng dẫn và triển khai thực hiện công tác bắt người phạm tội đang bị truy nã
trong toàn lực lượng.


23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Nghiên cứu dưới góc độ lý luận, pháp lý, Chương 1 của luận văn đã đi
sâu nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn bắt
người đang bị truy nã trong TTHS, trong đó, đã nêu được một số quan điểm
khác nhau về khái niệm bắt người phạm tội lẩn trốn đang bị truy nã và đưa ra
một khái niệm về bắt người phạm tội lẩn trốn đang bị truy nã. Luận văn đã
nêu ra những đặc điểm, yêu cầu và nguyên tắc bắt người đang bị truy nã trong
TTHS, đây là những vấn đề rất quan trọng trong việc nghiên cứu lý luận về
bắt người đang bị truy nã trong TTHS.
Từ khái niệm, đặc điểm, yêu cầu và nguyên tắc của việc bắt người đang
bị truy nã trong TTHS, luận văn đã nêu một cách khái quát cơ sở pháp lý của
công tác bắt người đang bị truy nã trong pháp luật TTHS, đó là tổng thể
những văn bản quy phạm pháp luật quy định về truy nã người đang phạm tội
lẩn trốn, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động tìm kiếm, bắt giữ
người phạm tội lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Tuy
nhiên, qua nghiên cứu, thấy rằng, chế định truy nã được hình thành từ lâu
trong pháp luật TTHS của Nhà nước ta nhưng cho đến nay vẫn còn tản mạn,
chưa tập trung; các quy định về truy nã trong BLTTHS chỉ mang tính khái
quát; muốn tổ chức triển khai thi hành, các cơ quan chức năng phải ban hành
văn bản hướng dẫn. Theo hướng đó, liên ngành tư pháp trung ương đã ban
hành nhiều văn bản và Bộ Công an đã ban hành Quyết định số
1385/2007/QĐ-BCA(C11) ngày 12-11-2007 ban hành Quy chế về công tác
truy nã, đây là cơ sở pháp lý quan trọng, là văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn chi tiết các quy định của pháp luật TTHS và quy định cụ thể, thống
nhất về quy chế công tác truy nã từ trước đến nay để lực lượng CAND thực
hiện công tác truy nã được thống nhất, chặt chẽ, khoa học, đạt hiệu quả cao,

đặc biệt là trong tình hình hiện nay.

×