Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

bạo lực gia đình một hình thức thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.24 KB, 52 trang )

Lời mở đầu
Ngày nay, mặc dù sống trong một xã hội hiện đại, văn minh, một môi
trường hoà bình, yên ổn… nhưng đối mỗi người trong chúng ta, thuật ngữ “bạo
lực” lại không phải là xa lạ! Điều này tưởng chừng như vô lý bởi theo lẽ thường:
sự phát triển, tiến bộ của xã hội nói chung sẽ tỷ lệ nghịch với những hiện tượng
tiêu cực mà một trong số đó là hiện tượng bạo lực. Thế nhưng, với sự phức tạp
và biến chuyển không ngừng của xã hội, hiện tượng bạo lực vẫn xảy ra từng
ngày, ở nhiều nơi, với nhiều đối tượng, trong các lĩnh vực khác nhau… Có thể
thấy, bạo lực không chỉ diễn ra ở bên ngoài xã hội - nơi các chủ thể không có
mối quan hệ gắn bó về hôn nhân, huyết thống hay nuôi dưỡng - mà bạo lực còn
len lỏi trong mỗi gia đình - nơi có mối quan hệ tình cảm thân thiết giữa các
thành viên. Chính điều đó đã khiến bạo lực gia đình trở thành mối quan tâm, sự
lo lắng cho toàn xã hội. Bởi mỗi chúng ta, ai cũng mong muốn có một mái ấm
cho riêng mình để được trao và nhận những yêu thương, để động viên, giúp đỡ
nhau trong cuộc sống…
Dưới góc độ Luật học, vấn đề bạo lực gia đình đã dành được sự quan
tâm thích đáng của các nhà làm Luật. Điều này thể hiện qua việc ghi nhận những
nội dung liên quan tới vấn đề bạo lực gia đình trong các ngành luật như Luật
Hiến pháp, Luật hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình… Đặc biệt, với sự ra đời
của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, chúng ta có thể hy vọng và
tin tưởng về một tương lai mà ở đó bạo lực gia đình đã bị đẩy lùi. Dựa trên cơ sở
pháp lý này, chúng ta sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về bạo lực gia đình cũng
như có một sự bảo đảm chắc chắn hơn để bảo vệ các nạn nhân của hiện tượng
bạo lực. Điều đó sẽ góp phần không nhỏ vào sự bình ổn môi trường xã hội trong
giai đoạn hiện nay.
Bạo lực gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như:
Luật học, Xã hội học… Chúng ta có thể thấy điều này qua các bài viết trên các
tạp chí chuyên ngành (Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí
Khoa học về phụ nữ…) và các các hội thảo khoa học về bạo lực gia đình… Vấn
đề này cũng được sinh viên chuyên ngành luật chọn làm đề tài khoá luận tốt
nghiệp đại học trong những năm gần đây. Như vậy, có thể thấy bạo lực gia đình


nhận được sự quan tâm của nhiều chủ thể nghiên cứu và ngày càng có nhiều đối
tượng tham gia tìm hiểu, làm rõ.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài: “Bạo lực gia đình - một hình
thức thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng” khoá luận đi sâu phân tích
hành vi bạo lực giữa vợ và chồng. Từ đó đi đến khẳng định bạo lực giữa vợ và
chồng là một biểu hiện của sự bất bình đẳng giữa hai chủ thể của quan hệ hôn
nhân - hạt nhân của gia đình. Thông qua việc nghiên cứu hiện tượng bạo lực
giữa vợ và chồng, mối quan hệ giữa hành vi bạo lực đó và sự bất bình đẳng giữa
vợ và chồng, khoá luận chỉ ra một thực tế: nạn nhân chủ yếu của bạo lực gia
đình là người vợ. Từ việc tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của hiện
tượng bạo lực giữa vợ và chồng cùng việc đưa ra một số kiến nghị, khoá luận hy
vọng có thể góp phần vào công tác phòng, chống và dần xoá bỏ hiện tượng này
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về bạo lực gia đình và bình đẳng giới.
Chương 2: Bạo lực gia đình - một hình thức thể hiện sự bất bình đẳng
giữa vợ và chồng.
Chương 3: Thực trạng bạo lực giữa vợ và chồng và một số kiến nghị
nhằm xoá bỏ bạo lực gia đình ở Việt Nam.
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH VÀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1 KHÁI NIỆM “BẠO LỰC GIA ĐÌNH” VÀ “BÌNH ĐẲNG GIỚI”
1.1.1 Khái niệm bạo lực gia đình
Trong Tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “ sức mạnh dùng để cưỡng bức,
trấn áp hoặc lật đổ” [29, tr.41]. Với giải thích này, bạo lực thường được hiểu
theo nghĩa là phương thức thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ chính quyền và
thiên về sử dụng sức mạnh vật chất. Cũng theo nghĩa này, bạo lực được giải
thích là “sức mạnh dùng để trấn áp, chống lại lực lượng đối lập hay lật đổ chính

quyền” [30, tr.113]. Trên thực tế, bên cạnh thuật ngữ bạo lực, người ta còn sử
dụng thuật ngữ “bạo hành” như một từ đồng nghĩa. Bạo hành được giải thích là
“hành động bạo lực tàn ác” [29, tr.41]. Như vậy, thuật ngữ bạo hành chỉ mức độ
tàn ác của hành vi hơn so với “bạo lực” và không giới hạn phạm vi hiểu trong
một lĩnh vực nào. Tuy nhiên, hiện nay với cách nhìn nhận mới về bạo lực gia
đình, thuật ngữ “bạo lực” đã được “luật hoá” và được sử dụng rộng rãi thay cho
thuật ngữ bạo hành.
Trong Luật học, “bạo lực” được định nghĩa gắn liền với thuật ngữ “gia
đình”. Theo đó, bạo lực gia đình được hiểu là “hành vi cố ý của thành viên gia
đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về vật chất, tinh thần, kinh tế đối
với thành viên khác trong gia đình” (Khoản 2, Điều 1, Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình năm 2007). Như vậy, hành vi bạo lực gia đình được giới hạn bởi các
chủ thể là thành viên của gia đình - những người có quan hệ hôn nhân, huyết
thống, hoặc nuôi dưỡng - khi họ thực hiện hành vi với lỗi cố ý gây tổn hại hay
đe doạ gây tổn hại về mọi mặt trong đời sống của nạn nhân. Khái niệm đã đưa ra
một cách đầy đủ các yếu tố để nhận diện hành vi bạo lực gia đình (như chủ thể,
lỗi, đối tượng tác động). Từ đó, nhà làm luật đã phá bỏ những quan niệm “cổ
điển” về bạo lực trong gia đình như: vài cái bạt tai, vài cái roi, quát mắng…
không phải bạo lực. Những quan niệm này hiện nay vẫn còn tồn tại trong một bộ
phận nhân dân - những người chưa có sự hiểu biết đầy đủ về bạo lực gia đình.
Qua định nghĩa bạo lực gia đình tại Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm
2007, có thể thấy quan niệm của pháp luật nước ta có sự tương đồng với quan
niệm của Liên hợp quốc về hành vi bạo lực mà ở đây là bạo lực đối với phụ nữ:
“Bất kỳ hành động bạo lực nào dựa trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể
gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục,
hay tâm lý, kể cả những lời đe doạ hay độc đoán tước quyền tự do, dù xảy ra ở
nơi công cộng hay đời sống riêng tư” (Điều 1, Tuyên bố của Liên hợp quốc về
việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ). Từ hai định nghĩa trên đây, có thể thấy,
một hành vi cố ý gây ra hoặc có khả năng gây ra những tổn thất về vật chất, tinh
thần hoặc kinh tế…đều bị coi là bạo lực.

Bên cạnh đó, bạo lực gia đình còn là hành vi xâm phạm tới nhân quyền
bao gồm quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng. Chúng ta có
thể nhận thấy, mỗi khi bạo lực gia đình xảy ra đều xâm hại tới một trong các
quyền vốn có của mỗi người. Đó là: quyền tự do, bình đẳng, quyền sống, quyền
an toàn về thân thể, quyền được tôn trọng về tư tưởng, nhân cách… Điều này
trái với khát vọng của nhân loại, bởi: “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do
và bình đẳng về nhân phẩm và nhân quyền. Mọi người đều được tạo hoá ban cho
lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau bằng tình bằng hữu” (Điều 1,
Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948). Những nội dung này
cũng đã được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam và nhiều văn bản pháp luật
quốc tế. Bởi vậy, việc xâm phạm nhân quyền thông qua hành vi bạo lực gia đình
là sự vi phạm pháp luật và bị pháp luật, cộng đồng lên án.
Như vậy, bạo lực gia đình mà cụ thể là bạo lực giữa vợ và chồng là hành
vi cố ý của một hoặc hai bên vợ chồng gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại
về vật chất, tinh thần, kinh tế cho bên đối phương là vợ hoặc chồng của mình. Ở
đây, phạm vi chủ thể của hành vi bạo lực là giữa vợ và chồng, về bản chất hành
vi bạo lực được hiểu như thuật ngữ bạo lực giữa các thành viên trong gia đình.
Quan niệm về bạo lực gia đình của đa số người dân Việt Nam là hành vi
dùng sức mạnh vật chất với đối phương và để lại những hậu quả nghiêm trọng.
Do đó, nhiều hành vi bạo lực gia đình chưa được nhận thức và xử lý kịp thời.
Các hành vi như: đánh vợ không để lại thương tích, đánh vợ khi vợ làm điều sai
trái, ép vợ quan hệ tình dục, không cho phép vợ về thăm bố mẹ đẻ… thường
không được coi là bạo lực và những nạn nhân đó vẫn thường xuyên nhẫn nhịn,
cam chịu cách đối xử này mà một trong những nguyên nhân bắt nguồn từ sự hạn
chế trong nhận thức về pháp luật của cả hai phía (người thực hiện bạo lực và nạn
nhân). Chính sự hạn chế trong nhận thức đã đưa đến cách hiểu, những quan
niệm không đúng về bạo lực gia đình. Bởi thế mà có nhiều hậu quả đáng tiếc đã
xảy ra… Đã đến lúc phải thay đổi quan niệm của mỗi người về bạo lực gia đình
để có thể bảo vệ, giúp đỡ hiệu quả những nạn nhân của vấn nạn này.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về bạo lực gia đình như

sau: bạo lực gia đình là một chế định pháp luật gồm tổng hợp các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm ngăn ngừa, xử lý và đi đến xoá bỏ hành
vi bạo lực giữa các thành viên trong gia đình để hướng tới xây dựng một môi
trường ổn định, hạnh phúc.
1.1.2 Khái niệm bình đẳng giới
Nếu như thuật ngữ bạo lực gia đình được sử dụng rộng rãi và trong
những năm gần đây - đặc biệt là sau sự xuất hiện của Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình năm 2007 - thì thuật ngữ “bình đẳng giới” xuất hiện sớm hơn. Trước
khi được chính thức ghi nhận trong pháp luật, vấn đề bình đẳng giới được mọi
người biết đến và hiểu với ý nghĩa đơn thuần là sự bình đẳng giữa nam và nữ.
Nhưng với sự ra đời của Luật Bình đẳng giới năm 2006, thuật ngữ này chính
thức được làm rõ và mở rộng hơn. Theo đó, bình đẳng giới không chỉ được hiểu
như là sự bình đẳng giữa hai giới nam và nữ về mặt quyền lợi, nghĩa vụ mà còn
được hiểu là sự bình đẳng về “đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả
các mối quan hệ xã hội” (Khoản 1, Điều 5, Luật Bình đẳng giới năm 2006). Như
vậy, có thể thấy nhờ sự mở rộng ý nghĩa của khái niệm bình đẳng giới đã đem
lại sự công bằng cho các thành viên trong xã hội. Đối với mỗi gia đình, sự bình
đẳng giới được hiểu theo nghĩa rộng sẽ tạo điều kiện để cả vợ và chồng có thể
phát huy tối đa năng lực, trách nhiệm của mình với gia đình. Đây cũng chính là
một cách thức xây dựng nên những gia đình hạnh phúc, ấm no, bình ổn. Đó
không chỉ là mong muốn của riêng một quốc gia nào mà chính là ước vọng
chung của những nước đang nỗ lực cho sự bình đẳng giới để mang tới một môi
trường yên bình, một cuộc sống an lành, hạnh phúc, để không còn bạo lực ngoài
xã hội và trong mỗi gia đình.
Bình đẳng giới là khát vọng của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc trên thế giới.
Ở nước ta, vấn đề này chưa thực sự được hiểu đúng. Có nhiều người cho rằng,
bình đẳng giới là sự “cào bằng” trong mọi lĩnh vực giữa hai giới. Điều này đòi
hỏi phụ nữ và nam giới phải bỏ ra công sức, thời gian… ngang bằng nhau trong
các lĩnh vực của đời sống. Trên thực tế, điều đó không phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của mỗi giới. Bởi như chúng ta đã biết, với những đặc điểm khác

nam giới về mặt sinh học, người phụ nữ cần được tạo điều kiện để vừa có thể
thực hiện tốt thiên chức làm mẹ vừa có thể hoàn thành công việc ngoài xã hội
mà vẫn phù hợp với sức khoẻ của họ. Do đó, khi xác định sự bình đẳng, cần có
sự quan tâm đúng mức với những đặc điểm này để sự bình đẳng có ý nghĩa và
khả thi trên thực tế.
Dưới góc độ Luật học, khái niệm bình đẳng giới có thể được hiểu như
sau: bình đẳng giới là một chế định gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các giới (theo nghĩa rộng) trong những
lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm tiến tới bình đẳng thực chất giữa nam và nữ,
tạo cơ hội phát triển cho tất cả thành viên trong xã hội.
1.1.3 Mối quan hệ giữa vấn đề bình đẳng giới với bạo lực gia đình
Qua hai thuật ngữ “bạo lực gia đình” và “bình đẳng giới” chúng ta thấy
được phần nào mối quan hệ giữa hai thuật ngữ này. Bạo lực gia đình là hình
thức thể hiện sự bất bình đẳng giới, trong khi đó, sự bình đẳng giới là một mục
tiêu của việc xoá bỏ bạo lực trong gia đình. Sự bất bình đẳng giới được biểu
hiện thông qua hành vi bạo lực với các hình thức khác nhau và ở các mức độ
khác nhau. Mối quan hệ giữa hai vấn đề này cũng được thể hiện trong Tuyên bố
của Liên hợp quốc về việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ. Tại Điều 3 của Tuyên
bố đã khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong các lĩnh vực
khác nhau trong đó có lĩnh vực gia đình. Như vậy, có thể thấy, việc xoá bỏ sự
bất bình đẳng giữa nam và nữ, giúp phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng của mình
với nam giới cũng chính là một cách thức nhằm xoá bỏ bạo lực với phụ nữ trong
gia đình và xã hội. Những biểu hiện của bạo lực và hậu quả của chúng đã thể
hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình. Bạo lực gia đình hạn chế
vai trò, cơ hội phát triển, khả năng thụ hưởng thành quả của cá nhân là nạn nhân
của bạo lực gia đình. Điều này xảy ra đối với cả vợ và chồng khi họ là nạn nhân
trực tiếp của nạn bạo lực chứ không chỉ giới hạn trong một giới tính nào. Từ hai
khái niệm bạo lực gia đình và bình đẳng giới, chúng ta có một cái nhìn khái
quát, sơ lược để từ đó đi vào tìm hiểu những nội dung cụ thể của đề tài.
1.2 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ

BẠO LỰC GIA ĐÌNH VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Bạo lực gia đình và bình đẳng giới là một trong những nội dung được sự
quan tâm của nhiều nhóm đối tượng; và được luật hoá trong nhiều ngành luật
như Luật Hiến pháp, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình,
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới Điều đó một mặt thể
hiện sự lo lắng, trăn trở từ phía cộng đồng về hiện tượng này, mặt khác còn thể
hiện nhận thức đúng đắn từ phía các cơ quan chức năng và nhà làm luật về ảnh
hưởng của bạo lực gia đình và sự bình đẳng giới đối với đời sống của mỗi công
dân cũng như của toàn xã hội.
Nội dung cơ bản của pháp luật Việt nam về bạo lực gia đình và bình
đẳng giới được thể hiện tập trung và cụ thể qua hai văn bản: Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình năm 2007 và Luật Bình đẳng giới năm 2006.
Trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, các nhà làm luật
đã đưa ra các nội dung chủ yếu xung quanh vấn đề bạo lực gia đình như các
hành vi bạo lực gia đình, nguyên tắc phòng chống bạo lực gia đình, nghĩa vụ của
người có hành vi bạo lực, quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình, hợp
tác quốc tế về phòng chống bạo lực gia đình… Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình còn nhấn mạnh việc phòng ngừa bạo lực gia đình với các biện pháp: thông
tin, tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình; tư vấn pháp lý, tư vấn tâm lý,
tư vấn ứng xử; hoà giải mâu thuẫn; xử lý vi phạm phạm pháp luật về phòng
chống bạo lực gia đình - đây là một biện pháp vừa mang tính đấu tranh vừa
mang tính phòng ngừa hiệu quả. Với việc phân định cụ thể trách nhiệm của cá
nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng chống bạo lực gia đình, pháp luật
về bạo lực gia đình mang ý nghĩa xã hội rộng lớn đó là đã huy động được sự
tham gia rộng rãi của cộng đồng vào công cuộc đấu tranh bền bỉ, quyết liệt này.
Có thể nhận thấy, giống như tên gọi của nó, Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình ra đời với mục tiêu trước hết là ngăn ngừa hành vi bạo lực gia đình.
Thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta sẽ giữ được môi trường gia đình, xã hội
bình ổn không chỉ ở hiện tại mà còn trong tương lai. Bên cạnh đó, Luật Phòng
chống bạo lực gia đình còn là cơ sở pháp lý góp phần giải quyết các trường hợp

bạo lực đã xảy ra. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các nạn nhân của bạo lực gia
đình khi họ được tư vấn, chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ nơi tạm lánh, các điều kiện
cần thiết khác sau khi bạo lực đã xảy ra.
Những quy định của pháp luật về bạo lực gia đình là cơ sở pháp lý để vợ,
chồng cũng như các thành viên khác của gia đình thực hiện nghĩa vụ pháp lý của
mình và là cơ sở để bảo vệ các thành viên gia đình. Với vai trò là những người
xây dựng nên gia đình, hai vợ chồng đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong
việc phòng, chống bạo lực gia đình.
Trong Luật bình đẳng giới năm 2006, với mục tiêu “xoá bỏ phân biệt đối
xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế- xã hội và
phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình” (Điều 4), Luật đã cụ thể nhiều nội dung tạo
thuận lợi cho quá trình bình đẳng giới như: các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng
giới, quản lý Nhà nước về bình đẳng giới, các lĩnh vực và biện pháp bảo đảm
bình đẳng giới… Luật Bình đẳng giới còn quy định cụ thể trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới
cũng như trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc thanh tra, giám sát
xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.
Có thể thấy vấn đề bình đẳng giới được đề cập trong Luật Bình đẳng giới
ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm đạt được mục tiêu pháp luật đã đề ra. Trong đó
không thể không nhắc tới vấn đề bình đẳng giới trong phạm vi gia đình- một
không gian nhỏ nhưng thường xuyên có sự hiện diện của cả hai giới nam và nữ.
Pháp luật bình đẳng giới chỉ ra các hành vi nghiêm cấm trong đó có cấm bạo lực
trên cơ sở giới (Điều 10); đồng thời xác định các quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng trong gia đình (Điều 18); cùng với đó là các hành vi vi phạm về bình đẳng
giới trong gia đình như cản trở thành viên trong gia đình tham gia định đoạt tài
sản chung vì lý do giới tính, đối xử bất bình đẳng với các thành viên trong gia
đình vì lý do giới tính, áp đặt việc thực hiện lao động gia đình (Điều 41) Các
quy định đó đã chỉ ra quyền và nghĩa vụ tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng ở
các lĩnh vực: thể chất, tinh thần, kinh tế… Đây cũng chính là cơ sở để hạn chế

các hành vi bạo lực giữa vợ và chồng trong gia đình ở các lĩnh vực nêu trên.
Những quy định trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Luật Bình
đẳng giới chính là sự cụ thể hoá của pháp luật hôn nhân và gia đình. Ở Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000, những quy định về nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh
của luật (Điều 1), những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình
(Điều 2), bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình (Điều 4), tình nghĩa vợ chồng
(Điều 18), quyền và nghĩa vụ của vợ chồng (Điều 19)… đều được làm rõ trong
Luật Phòng, chống bạo lực năm 2007 và Luật Bình đẳng giới năm 2006 . Việc
vi phạm một trong hai Luật này cũng chính là vi phạm pháp luật hôn nhân gia
đình. Sự quan tâm từ phía các chủ thể có thẩm quyền qua việc xây dựng một
hành lang pháp lý trong vấn đề bạo lực gia đình và bình đẳng giới một lần nữa
khẳng định vị trí của gia đình đối với cuộc sống của mỗi người và với sự phát
triển chung của đất nước. Bởi thế, tuân thủ pháp luật hôn nhân gia đình cũng
như pháp luật về bạo lực gia đình và bình đẳng giới trong thời gian tới là góp
phần thực hiện thành công chiến lược xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc, bền vững của Nhà nước ta.
Khái quát các văn bản kể trên, có thể thấy pháp luật về bạo lực gia đình
và bình đẳng giới tập trung vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, pháp luật về bạo lực gia đình và bình đẳng giới đảm bảo và
tôn trọng quyền con người, đặc biệt là quyền của người phụ nữ, người vợ trong
gia đình. Đây là mục tiêu của nhiều quốc gia trong một thời gian dài nhằm thực
hiện chính sách xã hội của mình. Bởi vậy, thực hiện nội dung này của pháp luật
nước ta là một sự phù hợp với xu hướng thế giới hiện nay.
Thứ hai, nội dung của pháp luật về bạo lực gia đình và bình đẳng giới cụ
thể hoá chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng gia đình
bình đẳng, hạnh phúc, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh. Có thể nói, xây dựng
gia đình hạnh phúc là một chiến lược quan trọng của nước ta qua nhiều thời kỳ.
Điều này được khẳng định qua Quyết định số 106/2005/QĐ-TTg ngày
16/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược xây dựng gia
đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010. Trong đó, Thủ tướng đã khẳng định: “Gia

đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững
của xã hội, sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và xây dựng Chủ nghĩa xã hội”. Một chỉ tiêu được đặt ra trong Quyết định là đến
năm 2010 “giảm tỷ lệ bạo lực trong gia đình, bình quân hàng năm 10-15%”.
Đồng thời, Quyết định còn xác định các đề án của chiến lược xây dựng gia đình,
trong đó có “Đề án phòng chống bạo lực trong gia đình”. Như vậy, việc đưa ra
một chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010 đã định
hướng, dẫn dắt các gia đình và toàn xã hội cùng bắt tay thực hiện thành công
mục tiêu quan trọng: xây dựng gia đình hạnh phúc.
Thứ ba, để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của pháp luật về bạo lực
gia đình và bình đẳng giới, cơ quan có thẩm quyền bên cạnh việc phân định rõ
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân… còn phải thực hiện phương châm phối hợp
giữa các đơn vị cũng như kết hợp đồng bộ nhiều biện pháp phòng ngừa, xử lý
hành vi bạo lực. Những nội dung đó đã được ghi nhận trong các văn bản pháp
luật về bạo lực gia đình và bình đẳng giới.
Như vậy, qua các văn bản pháp luật điều chỉnh về bạo lực gia đình và
bình đẳng giới, ta thấy được sự quan tâm của Nhà nước trong việc xây dựng một
gia đình hạnh phúc và sự công bằng giữa các giới. Nhờ sự quan tâm ấy đã tạo ra
một làn sóng thu hút sự ủng hộ của đông đảo các thành phần trong xã hội. Xã
hội hoá công tác phòng, chống bạo lực gia đình và thực hiện bình đẳng giới
chúng ta mới có thể đạt được hiệu quả, bởi đây là một công việc khó khăn, phức
tạp đòi hỏi có sự tham gia của cả cộng đồng.
1.3 PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.3.1 Luật mẫu của Liên Hợp Quốc về bạo lực gia đình (02/02/1996)
Nhằm định hướng cho các quốc gia thành viên khi xây dựng pháp luật
cho quốc gia mình, Liên hợp quốc đã đưa ra Luật mẫu về bạo lực gia đình với
các nội dung khái quát. Trong đó, bên cạnh việc định nghĩa về “bạo lực gia
đình”, “các hành vi bạo lực gia đình”, Luật mẫu còn chỉ ra mục đích của pháp
luật về bạo lực gia đình, cơ chế giải quyết tố cáo, trách nhiệm của cán bộ tư
pháp, các thủ tục tố tụng dân sự và hình sự, các quy định về dịch vụ trợ giúp nạn

nhân…
Qua việc trình bày mục đích của Luật mẫu, có thể thấy, Luật mẫu rất
quan tâm tới các nạn nhân của bạo lực gia đình – đặc biệt đối với các nạn nhân
là phụ nữ. Đồng thời, Luật mẫu “kêu gọi các quốc gia ban hành một luật toàn
diện về bạo lực gia đình, trong đó lồng ghép cả những quy định về hình sự, dân
sự chứ không nên chỉ sửa đổi, bổ sung luật pháp hiện hành về hình sự, dân sự”
[32, tr.10]. Lời kêu gọi này của Uỷ ban về nhân quyền của Liên hợp quốc yêu
cầu phải có sự nỗ lực toàn diện và sự phối hợp ăn ý giữa các nhà làm luật trong
những ngành luật để mỗi quốc gia xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng
bộ, hoàn thiện hơn.
Từ những định nghĩa mà Luật mẫu đưa ra, chúng ta thấy sự chú ý đặc
biệt của Liên hợp quốc tới những nạn nhân là phụ nữ. Điều này thể hiện qua xác
định các mối quan hệ cần điều chỉnh:
“Luật về bạo lực gia đình cần điều chỉnh các mối quan hệ sau:
vợ, tình nhân sống cùng, vợ cũ hoặc tình nhân cũ; bạn gái (kể cả
không sống cùng); người phụ nữ là họ hàng (như chị, em gái,
con gái, mẹ) và người giúp việc gia đình” [32, tr.10].
Với cách xác định trên, phạm vi những người phụ nữ được pháp luật bạo
lực gia đình bảo vệ là rất rộng bao gồm cả những người không sống cùng hay
không có quan hệ gia đình. Điều này nhằm mang đến cuộc sống an lành cho
những người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy nhiên, thiết nghĩ Luật
mẫu cũng cần có sự quan tâm tới những nạn nhân của bạo lực là nam giới
(chồng, con trai…) để đảm bảo vấn đề bình đẳng giữa hai giới, đảm bảo hạnh
phúc gia đình. Có như thế, pháp luật mới góp phần hạn chế tối đa được bạo lực
giữa các thành viên trong gia đình, trong đó có bạo lực giữa vợ và chồng.
Qua quy định về các hành vi bạo lực trong Luật mẫu, chúng ta có thể xếp
hành vi bạo lực theo các nhóm: bạo lực về thể chất, bạo lực về tinh thần, bạo lực
về tình dục và bạo lực về kinh tế. Đây là những hình thức bạo lực cơ bản trong
gia đình được nhiều nước ghi nhận trong pháp luật của quốc gia mình. Từ đây,
có thể thấy Luật mẫu đưa ra một cách toàn diện các hình thức bạo lực gia đình,

làm cơ sở để các nước tham khảo, học tập và hoàn thiện pháp luật về bạo lực gia
đình của quốc gia mình.
Bên cạnh đó, Luật mẫu còn quy định trách nhiệm của nhân viên cảnh sát,
cán bộ tư pháp, cộng đồng đối với hiện tượng bạo lực gia đình và nạn nhân của
hiện tượng này. Theo những quy định trong Luật mẫu, cảnh sát có trách nhiệm
thông báo cho các nạn nhân được biết các quyền của họ, làm báo cáo về công
tác phòng chống bạo lực gia đình, tham gia các lớp tập huấn để nâng cao trình
độ chuyên môn. Cán bộ tư pháp có nhiệm vụ phải tuân thủ các quy định về
quyền của nạn nhân như quyền yêu cầu lệnh bảo vệ, lệnh kiềm chế… Bất kỳ ai
khi được nạn nhân đề nghị trợ giúp đều có quyền tố cáo các vụ bạo lực gia đình
cho cảnh sát. Những quy định trên đây, cùng các quy định về thủ tục tố tụng dân
sự, hình sự, quy định về các dịch vụ trợ giúp… được ghi nhận trong Luật mẫu sẽ
góp phần giúp các nạn nhân tháo gỡ được khó khăn cho mình. Công việc cuối
cùng thuộc về các quốc gia, đó là ghi nhận, phát triển, hoàn chỉnh những gợi ý
này để có sự hoà hợp giữa pháp luật về bạo lực gia đình và hệ thống pháp luật
trong nước.
Nhờ Luật mẫu của Liên hợp quốc về bạo lực gia đình, các quốc gia sẽ có
động lực và những gợi ý cho việc hoàn thành một văn bản pháp luật. Để từ đó,
mỗi quốc gia trong vai trò của mình sẽ tham gia tích cực vào công cuộc bảo vệ,
giải phóng phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng giới trên toàn cầu.
1.3.2 Pháp luật một số nước về bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình là một vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Tìm hiểu pháp luật bạo lực gia đình của các nước, chúng
ta sẽ có cơ hội học hỏi để phát triển pháp luật nước nhà về bạo lực gia đình.
Dưới đây là những nội dung cơ bản của pháp luật bạo lực gia đình của một số
nước có quan hệ gần gũi với nước ta về mặt địa lý, ngoại giao…
Ở Cam-pu-chia, pháp luật bạo lực gia đình được phản ánh trong “Luật
Phòng ngừa bạo lực gia đình và bảo vệ nạn nhân” (2005). Theo những quy định
trong Luật, những nạn nhân của nạn bạo lực được bảo đảm an toàn cả về thể
chất và tinh thần. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, chủ thể được bảo vệ của vấn nạn

bạo lực gia đình chỉ giới hạn đối với các thành viên nhất định:
“Điều 2:
Bạo lực gia đình là những hành vi bạo lực xảy ra hoặc có thể
xảy ra đối với:
1. Chồng hoặc vợ;
2. Con cái còn sống phụ thuộc;
3. Những người sống chung một nhà và những người
sống phụ thuộc trong hộ gia đình.” [32, tr.43]
Như vậy, theo quy định tại điều luật trên đây, đối với những người con
sống tách biệt, không còn phụ thuộc vào cha mẹ thì sẽ không được pháp luật bạo
lực gia đình bảo vệ. Đây có lẽ là một thiếu sót, bởi “Luật Phòng ngừa bạo lực
gia đình và bảo vệ nạn nhân” của Cam-pu-chia ra đời nhằm bảo vệ gia đình
cũng như các thành viên trong gia đình mà không phụ thuộc vào hoàn cảnh sống
của họ. Thiếu sót này có thể hoàn thiện trong các văn bản pháp luật sau đó bằng
cách ghi nhận sự bảo vệ của pháp luật đối với tất cả các con trong gia đình thay
vì dừng lại ở việc chỉ bảo vệ “con cái còn sống phụ thuộc”. Trong Luật Phòng
ngừa bạo lực gia đình và bảo vệ nạn nhân, các nhà lập pháp Cam-pu-chia còn
xác định:
“Bạo lực bao gồm:
-Những hành vi ảnh hưởng tới tính mạng;
-Những hành vi gây ra thương tích cơ thể;
-Tra tấn hay những hành vi ác độc;
-Gây hấn tình dục.” [32, tr.43]
Qua các hành vi được xác định, có thể thấy pháp luật về bạo lực gia đình
của Cam-pu-chia đã đưa ra ba hình thức bạo lực: bạo lực về thể chất, bạo lực về
tinh thần, bạo lực về tình dục. Sự vắng mặt của hình thức bạo lực về kinh tế có
thể được lý giải bởi hình thức bạo lực này thường khó nhận diện. Mặt khác,
quan niệm phổ biến về các hành vi trong hình thức bạo lực về kinh tế: đó là
những hoạt động bình thường trong tổ chức đời sống sinh hoạt của gia đình.
Một nội dung mang nhiều ý nghĩa trong pháp luật về bạo lực gia đình

của Cam-pu-chia là những quy định tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phòng
ngừa bạo lực gia đình như: thời hạn khởi tố không bị hạn chế (Điều 19), chủ thể
có quyền đề nghị ban hành lệnh bảo vệ rất rộng (không chỉ có nạn nhân mà có
thể là bất kỳ ai trong trường hợp nạn nhân là trẻ em, người thiểu năng trí tuệ -
Điều 22). Những quy định đó đã đặc biệt chú ý tới sự ảnh hưởng lâu dài do hậu
quả của hành vi bạo lực gia đình gây ra; đồng thời còn thể hiện sự quan tâm tới
nạn nhân là những người không có hoặc khó có khả năng tự bảo vệ mình. Từ đó
có thể thấy, nhà lập pháp Cam-pu-chia đã có một cái nhìn thấu đáo và đầy cảm
thông đối với những nạn nhân của bạo lực gia đình. Những cố gắng không
ngừng của họ và của cả cộng đồng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác
phòng ngừa bạo lực và bảo vệ nạn nhân của bạo lực gia đình ở quốc gia này.
Ở Nhật Bản, những quy định của pháp luật về bạo lực gia đình được ghi
nhận trong “Luật Phòng ngừa bạo lực hôn nhân và bảo vệ nạn nhân” (2004).
Trong Luật, nhà lập pháp đã đặc biệt nhấn mạnh đến nạn nhân chủ yếu và những
ảnh hưởng của bạo lực gia đình tới người trong cuộc:
“Đa số các nạn nhân của bạo lực hôn nhân là phụ nữ. Phụ nữ
vốn rất khó khăn có được sự tự chủ về tài chính, thường lại là
đối tượng của bạo hành từ đối tác của mình, điều đó ảnh hưởng
tiêu cực tới nhân phẩm của mỗi cá nhân và đe doạ sự bình đẳng
thực sự giữa nữ giới và nam giới” [32, tr.157].
Nhờ nhận thức được điều đó mà Luật Phòng ngừa bạo lực hôn nhân và
bảo vệ nạn nhân của Nhật đã được xây dựng nhằm hướng tới việc khắc phục sự
bất bình đẳng giới, loại trừ bạo lực đối với phụ nữ, bảo vệ gia đình… Từ đó,
Luật đưa ra cách hiểu về bạo lực hôn nhân:
“Thuật ngữ “bạo lực hôn nhân” dùng trong Luật này là bạo lực
của một người nhằm vào thân thể người bạn đời của mình (tấn
công bất hợp pháp thân thể, đe doạ tính mạng hay gây ra thương
tích thân thể đối với người bạn đời) hay bạo lực thông qua lời
nói hoặc các hành vi khác gây tổn hại về tinh thần cũng như sức
khoẻ cho bạn đời (từ đây gọi chung là bạo lực) và bao gồm cả

trường hợp do bị bạo lực, người bạn đời đã phải ly hôn hay cuộc
nhân bị huỷ bỏ, nhưng vẫn tiếp tục bị bạo lực từ bạn đời cũ” [32,
tr.158].
Như vậy, có thể thấy, trong luật về bạo lực gia đình của Nhật Bản và
Cam-pu-chia đều quy định phạm vi đối tượng được bảo vệ tương đối rộng.
Trong cả hai Luật này, những đối tượng được bảo vệ không bị giới hạn về mặt
giới tính như ở Luật mẫu của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, có thể thấy nếu như
trong pháp luật của Cam-pu-chia hạn chế sự bảo vệ đối với người con sống độc
lập và không phụ thuộc vào gia đình thì ở pháp luật Nhật Bản nạn nhân của bạo
lực gia đình là những người con sẽ không được bảo vệ mà chỉ giới hạn trong
những “người bạn đời”. Thuật ngữ bạo lực hôn nhân còn cho thấy hành vi được
coi là bạo lực chỉ gồm các hình thức bạo lực về thể chất và bạo lực về tinh thần
mà không đề cập tới hình thức bạo lực về kinh tế và bạo lực về tình dục. Điều
này đã hạn chế sự bảo vệ của pháp luật cũng như của xã hội đối với các nạn
nhân của bạo lực gia đình. Vì vậy, việc thống nhất, hoàn thiện pháp luật về bạo
lực gia đình theo định hướng của Luật mẫu về bạo lực gia đình của Liên hợp
quốc là thực sự cần thiết để xoá bỏ vấn nạn này trên toàn cầu như lời kêu gọi
của Tổng thư ký Liên hợp quốc trong ngày 8/3/2009 vừa qua nhân dịp khai
trương website về chống bạo lực với phụ nữ.
Ở Bungari, những nội dung của pháp luật về bạo lực gia đình được thể
hiện trong “Luật Bảo vệ chống bạo lực gia đình” (2005). Luật này giới hạn
phạm vi điều chỉnh gồm “quyền của những người bị bạo lực gia đình, các biện
pháp bảo vệ và các thủ tục áp dụng” [32, tr.29]. Luật Bảo vệ chống bạo lực gia
đình cũng chỉ ra các hành vi được coi là bạo lực gia đình, bao gồm các hành vi
tác động tới thể chất, tinh thần, tình dục mà không quan tâm tới hậu quả do các
hành vi đó gây ra:
“Điều 2
Bạo lực gia đình là bất kỳ hành vi bạo lực về thể chất, tinh thần
hay tình dục nào, kể cả những hành vi trên trong giai đoạn chưa
đạt, cũng như việc áp đặt hạn chế tự do và sự riêng tư cá nhân,

nhằm vào các cá nhân đang hay đã có quan hệ gia đình hoặc họ
hàng hoặc sống chung như vợ chồng hoặc sống chung một nhà”
[32, tr.29]
Quy định trên đây một mặt thể hiện sự bảo vệ tương đối chặt chẽ đối với
nạn nhân của bạo lực gia đình, mặt khác cũng giống “Luật Phòng ngừa bạo lực
gia đình và bảo vệ nạn nhân” của Cam-pu-chia, nhà làm luật Bungari vẫn chưa
ghi nhận hình thức bạo lực về kinh tế, lao động. Cùng với những thay đổi trong
quan niệm về bạo lực hiện nay và sự biến chuyển của xã hội, trong thời gian tới,
để bảo vệ toàn diện những nạn nhân của bạo lực gia đình, pháp luật Bungari
cũng như các quốc gia khác nên hoàn thiện pháp luật nước mình bằng cách bổ
sung hình thức bạo lực về kinh tế - lao động vào pháp luật của quốc gia mình.
Như vậy, qua pháp luật về bạo lực gia đình của một số nước trên thế
giới, ta thấy, mặc dù với những tên gọi khác nhau, những chế định khác nhau…
nhưng tất cả các quốc gia đều hướng tới mục đích: nhằm xoá bỏ bạo lực trong
mỗi gia đình, bảo vệ những nạn nhân của bạo lực gia đình, thúc đẩy sự bình
đẳng giới, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Chương 2
BẠO LỰC GIA ĐÌNH - MỘT HÌNH THỨC THỂ HIỆN
SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
2.1 SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG - MỘT TRONG
NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Khi nhắc tới bạo lực gia đình, chúng ta thường hình dung tới các quan hệ
diễn ra bạo lực như quan hệ giữa vợ và chồng, giữa bố mẹ và con, giữa ông bà
và cháu, giữa anh - chị - em… Theo những quan hệ gia đình này, chúng ta có
thể thấy bạo lực không chỉ xảy ra giữa các giới (nam và nữ) mà con diễn ra giữa
các thế hệ (bố mẹ - con, ông bà - cháu…). Những hành vi bạo lực này là nguy
cơ làm lung lay sự tồn tại và hạnh phúc của mỗi gia đình. Một trong những mối
quan hệ trung tâm, tạo dựng và duy trì sự tồn tại của mỗi gia đình là quan hệ
giữa vợ và chồng. Bạo lực gia đình giữa vợ và chồng đang ngày một gia tăng và
để lại nhiều hậu quả đáng tiếc cho gia đình và xã hội. Để hiểu được những

nguyên nhân của bạo lực giữa vợ và chồng, trước hết cần tìm hiểu những
nguyên nhân chung của hiện tượng bạo lực trong gia đình.
Theo các nhà nghiên cứu, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia
đình và có thể tập hợp thành bốn nhóm: do suy thoái đạo đức; có rắc rối trong
chuyện tình cảm; bất bình đẳng giới; hạn chế nhận thức về pháp luật, xã hội.
Trên thực tế, bạo lực gia đình là sự kết hợp của các nhóm nguyên nhân khác
nhau hoặc có thể từ tất cả những nguyên nhân trên đây.
Hiện nay, mặc dù chúng ta sống trong xã hội với nhiều tiến bộ, nhiều
thành tựu nhưng không vì thế mà những hiện tượng suy thoái đạo đức và lối
sống tiêu cực như nghiện ngập rượu chè, cờ bạc, ma tuý… không diễn ra. Trái
lại, khi điều kiện vật chất không còn thiếu thốn như trước kia thì nhiều người đã
cho phép mình có lối sống buông thả, dễ dãi hơn và do đó đã mắc vào nhiều tệ
nạn xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới bạo lực khi họ trong
tình trạng không làm chủ được hành vi của mình (say rượu) hoặc trong trường
hợp không được đáp ứng tiền bạc để thoả mãn thói cờ bạc, tật hút sách. Điều
này đã ảnh hưởng không tốt tới cuộc sống của bản thân người đó, tới gia đình họ
cũng như tới môi trường xã hội. Từ sự suy thoái đạo đức và những biểu hiện của
nó thường kéo theo tình trạng kinh tế gia đình khó khăn, kiệt quệ. Đây lại là một
nguyên nhân khác mà trong nhiều trường hợp đã kéo theo bạo lực gia đình. Như
vậy, xuất phát từ nguyên nhân này đã dẫn tới một nguyên nhân khác tạo thành
chuỗi nguyên nhân mà ở bất cứ mắt xích nào, bạo lực cũng có thể xảy ra. Do đó,
để hạn chế bạo lực, giữ gìn hạnh phúc gia đình cần có sự phối hợp giữa nhiều
hoạt động để không một mắt xích nào bị lỏng lẻo làm ảnh hưởng tới nền tảng
hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh nhóm nguyên nhân về đạo đức, một nhóm nguyên nhân tế nhị,
kín đáo ảnh hưởng không nhỏ tới hạnh phúc gia đình đó là nhóm nguyên nhân
liên quan tới các vấn đề tình cảm của một hoặc cả hai vợ chồng như tính hay
ghen, đa nghi, sự ngoại tình, không đáp ứng nhu cầu tình dục của đối phương…
Những hành vi này thường được che giấu bởi nó không phù hợp với quan niệm
hay tâm tư của người Việt Nam. Mặc dù là những nguyên nhân tế nhị, nhưng

chúng thường dẫn tới bạo lực gia đình và trong nhiều trường hợp theo sau đó là
việc ly hôn. Khắc phục bạo lực gia đình từ nguyên nhân này là điều không dễ
dàng nhưng hơn hết cần có sự tăng cường giáo dục về lối sống, về cách ứng xử
xã hội để xây dựng, gìn giữ mái ấm gia đình.
Một nguyên nhân được các nhà nghiên cứu coi là gốc rễ của bạo lực gia
đình là do sự bất bình đẳng giới. Ở thời kỳ Phong kiến, sự bất bình đẳng giới là
sự thể hiện quyền uy của người đàn ông trong gia đình. Điều này đã ăn sâu vào
tư tưởng của bao thế hệ và làm mờ nhạt nhận thức của mỗi người về vị trí, vai
trò của người phụ nữ ngay cả khi chế độ xã hội đã thay đổi. Bởi vậy, trong một
thời gian dài, hành vi bạo lực do người đàn ông thực hiện đã bị xem nhẹ, bị coi
là chuyện nhỏ mà không chú ý tới những hậu quả do chúng để lại đối với người
phụ nữ, người vợ - nạn nhân thường xuyên, chủ yếu của vấn nạn bạo lực gia
đình.
Đằng sau những nhóm nguyên nhân trên đây, là một nguyên nhân phổ
biến của nhiều hiện tượng xã hội tiêu cực. Đó là sự hạn chế trong nhận thức của
cá nhân, cộng đồng về pháp luật và các kiến thức xã hội. Nguyên nhân này xuất
phát từ điều kiện kinh tế - xã hội, từ công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật và
khả năng tiếp thu của mỗi người. Nhìn chung, khi hiện tượng bạo lực gia đình
chưa ảnh hưởng trực tiếp tới mỗi người thì sự tham gia học tập, tìm hiểu, tiếp
thu của mỗi cá nhân về vấn đề này rất hạn chế. Để khắc phục được tình trạng
này cần một chương trình sinh động, thu hút để nâng cao hiệu quả trong việc
truyền tải thông tin và giáo dục pháp luật cho cộng đồng.
Như vậy, có thể thấy, các nhóm nguyên nhân trên đây đã dẫn tới hiện
tượng bạo lực giữa các thành viên của gia đình mà phần lớn xảy ra giữa vợ và
chồng. Trong các nhóm nguyên nhân đó, sự bất bình đẳng giới là nguyên nhân
sâu xa nhất của bạo lực gia đình. Điều này đồng nghĩa: bất bình đẳng giới không
chỉ là một trong những nguyên nhân mà còn là nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn
tới bạo lực giữa vợ và chồng. Quan điểm bất bình đẳng giới là nguyên nhân cội
nguồn của bạo lực gia đình nói chung và bạo lực giữa vợ và chồng nói riêng
trong thực tế không được người trong cuộc và những người xung quanh thừa

nhận do bị ảnh hưởng từ tư tưởng phong kiến nhưng theo các nhà xã hội học,
tâm lý học… nhận định trên đã được thừa nhận.
Lý giải bất bình đẳng giới là nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình
nói chung và bạo lực giữa vợ và chồng nói riêng không thể phủ nhận sự ảnh
hưởng của tư tưởng phong kiến trong một thời gian dài. Những tư tưởng “gia
trưởng”, “trọng nam khinh nữ”, “tam tòng”… đã ăn sâu vào tâm thức của bao
thế hệ người dân Việt Nam. Vì thế, trong một thời gian dài, chúng ta đã cho
phép người đàn ông được quyền “dạy” vợ, “dạy” con bằng vũ lực, được mắng
mỏ, lăng mạ khi vợ con làm điều sai trái, được cấm đoán các thành viên trong
gia đình làm công việc gì đó, được yêu cầu vợ sinh con trai hoặc phá thai theo ý
của mình… Tất cả những hành vi ấy vô tình đã xâm phạm tới cuộc sống của
những thành viên khác trong gia đình - nhất là người phụ nữ - làm ảnh hưởng
tiêu cực tới thể chất, tâm lý, tình hình tài chính của họ. Theo pháp luật hiện
hành, những hành vi đó là vi phạm nhân quyền và cần được xử lý thích đáng.
Qua những sự kiện trên đây, có thể thấy cùng là một hành vi nhưng ở những thời
điểm khác nhau, do những quan niệm khác nhau mà thái độ của Nhà nước, xã
hội với chúng là khác nhau. Vẫn biết pháp luật hiện nay đã lên tiếng bảo vệ sự
bình đẳng giới, bảo vệ gia đình nhưng để thay đổi được tư tưởng, quan niệm đã
ăn sâu vào tư tưởng của người dân trong một thời gian dài thật không đơn giản.
Điều đó đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì và chung tay của cả cộng đồng vào công tác
phòng chống bạo lực gia đình. Mặt khác, sự bất bình đẳng giới còn là một chất
xúc tác cho các nguyên nhân khác để dẫn tới bạo lực gia đình một cách nhanh và
dữ dội. Ở đâu có sự bất bình đẳng giới thì ở đó dễ dàng xuất hiện bạo lực hơn
bởi khi đó, không còn sự bênh vực cho các nạn nhân mà chỉ có sự bao biện cho
những hành vi ứng xử thô bạo của người thực hiện bạo lực. Sự bất bình đẳng
giữa vợ và chồng cần được hiểu sao cho không thiên lệch, không quá quan tâm
tới người phụ nữ mà bỏ qua những nạn nhân là nam giới. Trong Luật Bình đẳng
giới năm 2006, theo nghĩa rộng, bình đẳng giới là sự đảm bảo công bằng cho
mọi công dân trong xã hội. Do đó, bình đẳng giới được triển khai trên thực tế là
một cách thức để xoá bỏ một trong những nguyên nhân của bạo lực gia đình,

trong đó có bạo lực giữa vợ và chồng.
2.2 SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG THỂ HIỆN QUA CÁC
HÌNH THỨC BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Qua tìm hiểu về vấn nạn bạo lực gia đình, các nhà nghiên cứu đã nhóm
các hành vi bạo lực gia đình (tại Điều 2, Luật phòng, chống bạo lực năm 2007)
thành các hình thức bạo lực: bạo lực về thể chất, bạo lực về tinh thần, bạo lực về
tình dục và bạo lực về kinh tế. Với mỗi hình thức bạo lực, do những đặc điểm
khác nhau của các hành vi bạo lực nên có sự khác biệt trong quan niệm và xu
hướng thực hiện bạo lực giữa vợ và chồng.
Bạo lực về thể chất là hình thức xâm phạm tới sức khoẻ, tính mạng của
đối phương. Hình thức bạo lực này dễ nhận biết bởi hành vi và hậu quả thường
hay bộc lộ ra bên ngoài với các hành động như: đánh đập, ngược đãi, hành hạ về
mặt thể xác… Hậu quả là làm nạn nhân đau đớn, để lại tật nguyền hoặc có thể
gây tử vong; đồng thời nó còn để lại những tổn thương về mặt tinh thần đối với
các nạn nhân. Trong quan hệ vợ chồng, hình thức bạo lực này thường do người
chồng thực hiện. Nói cách khác, nạn nhân chính của hình thức bạo lực về thể
chất là những người vợ trong gia đình. Theo nghiên cứu của Viện Khoa học xã
hội Việt Nam năm 2005 tại 13 tỉnh và thành phố về bạo lực gia đình với 4175
người (trong đó 53,3% là phụ nữ) cho thấy: gần 6% phụ nữ trả lời họ đã bị
chồng đánh, trong khi đó chỉ có 0,5% phụ nữ thừa nhận họ đã từng đánh chồng;
số nam giới được phỏng vấn trả lời đã từng đánh vợ là 4,6% và 0,7% thú nhận
họ đã từng bị vợ đánh [11]. Qua những số liệu trên đây, một lần nữa cho thấy
trong hình thức bạo lực về thể chất, người vợ là nạn nhân chủ yếu. Điều này
xuất phát từ thực tế: nam giới có sức mạnh thể chất chiếm ưu thế hơn phái nữ.
Phụ nữ với thể lực hạn chế cùng tâm lý nhẫn nhịn nên thường gánh chịu hậu quả
của bạo lực do chính chồng mình gây ra. Có trường hợp, người vợ phản ứng lại
một cách yếu ớt như bỏ trốn, im lặng… cá biệt có người phụ nữ phản ứng bằng
cách đánh trả - đây thông thường là những hành động tự vệ mà chúng có thể để
lại hậu quả nghiêm trọng cho người chồng mặc dù trên thực tế chúng chiếm một
tỷ lệ không lớn (trong các vụ bạo lực do người vợ thực hiện). Những vụ việc

được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng như vợ đánh chồng gây
thương tích, vợ giết chồng vì uất ức tột cùng… là minh chứng cho những hậu
quả nghiêm trong mà người vợ có thể gây ra khi phản ứng lại hành vi bạo lực từ
phía chồng. Như vậy, có thể thấy trong hình thức bạo lực về thể chất, sự bất bình
đẳng giữa vợ và chồng được thể hiện trước hết là do quan niệm của mỗi bên. Do
ảnh hưởng của thuyết “tam tòng”, tư tưởng “gia trưởng” nên trong quan niệm
của người chồng họ tự cho mình cái quyền “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” như
một lẽ thường. Trong khi đó, người vợ do hạn chế về nhận thức cùng tính cam
chịu, hy sinh nên đã trở thành nạn nhân thường xuyên của hiện tượng bạo lực từ
phía người chồng. Từ đó có thể thấy, bạo lực về thể chất mang tới những tác
động tiêu cực hơn cả cho những người phụ nữ - những người vợ trong gia đình.
Dù bạo lực thể chất xảy ra đối với người vợ hay người chồng thì cũng đều thể
hiện sự bất bình đẳng bởi quyền an toàn về thân thể là bình đẳng không phân
biệt giới tính, địa vị trong gia đình hay xã hội. Vì vậy, xoá bỏ bạo lực về thể chất
nói riêng và bạo lực giữa vợ và chồng nói chung là mục tiêu để đem tới sự bình
đẳng giới thực sự giữa vợ và chồng.
Từ kết quả của một số cuộc khảo sát, ta có thể thấy hình thức bạo lực về
tinh thần xảy ra tương đối phổ biến ở các gia đình:
“Theo kết quả khảo sát do Công ty Tâm lý Hồn Việt thực hiện đối
với 702 khách hàng đến Hồn Việt trong 6 tháng đầu năm 2007
cho thấy: 75,1% phụ nữ được hỏi cho rằng đã bị bạo lực tại gia
đình họ, trong đó có 80,6% là bạo lực về tinh thần” [15]
“Theo bà Nguyễn Thị Minh Hạnh, chuyên viên tại Viện Chiến
lược và Chính sách y tế: ở Việt Nam trong số phụ nữ bị bạo lực
gia đình thì có đến 80% là bị bạo lực về tinh thần” [15]
Kết quả hoạt động của dự án “Cải thiện chăm sóc y tế đối với
nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới” (từ tháng 3/2003 đến
tháng 5/2008) cũng cho thấy: 80,32% các vụ bạo lực có hình
thức bạo lực tinh thần [13]…
Trong thực tế, hình thức bạo lực về tinh thần thường không được biểu

hiện rõ nét ra bên ngoài nên không dễ nhận biết như hình thức bạo lực về thể
chất. Với các hành vi như: lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, đe doạ, bỏ
rơi, không quan tâm… hình thức về tinh thần tuy không để lại những vết thương
dễ nhận biết trên thân thể nhưng những gì nó để lại trong tâm hồn nạn nhân thật
khó lành! Trước đây, do chưa nhận thức được hậu quả do những hành vi này
gây ra nên đa số người dân không thừa nhận chúng là biểu hiện của một hình
thức bạo lực. Thực tế cho thấy nạn nhân khi gặp hình thức bạo lực về tinh thần
thường mang cảm giác lo âu, sợ hãi, bất an, tủi nhục… nặng nề hơn là sự ám
ảnh, u uất, trầm cảm… Những hậu quả đó ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng
tới cuộc sống thường ngày của nạn nhân. Trong nhiều gia đình, kể cả những gia
đình trí thức, hình thức bạo lực về tinh thần diễn ra khá phổ biến giữa hai vợ
chồng ở các mức độ khác nhau. Thông thường, mức độ ấy được tăng dần theo
thời gian. Ban đầu là những câu nói thể hiện sự không hài lòng, chưa để lại hậu
quả nghiêm trọng. Sau đó, có nhiều va chạm, xích mích nên xử sự ngày một
căng thẳng, để lại những hậu quả cho đối phương. Ở hình thức bạo lực về tinh
thần, hành vi bạo lực xảy ra ở cả hai phía vợ và chồng với những lý do khác
nhau. Đối với người chồng, do tâm lý không thoả mãn nên thường trách móc,
chì chiết vợ mình. Một số đàn ông có hành vi bạo lực tinh thần qua việc ngoại
tình hoặc bỏ mặc vợ tự xoay sở việc gia đình… Trong khi đó, người vợ thể hiện
bạo lực bằng việc thường xuyên cằn nhằn, ghen tuông vô cớ, đay nghiến những
sai lầm của chồng. Trong nhiều trường hợp khi bị chồng có hành vi bạo lực về
thể chất, người vợ chọn cách đáp trả bằng bạo lực về tinh thần và kết quả là
người chồng không chịu đựng được nên đã sử dụng sức mạnh thể chất… Cứ như
thế, một vòng luẩn quẩn các hành vi bạo lực giữa vợ và chồng xảy ra mà hậu
quả thuộc về những người trong cuộc. Trong hình thức bạo lực về tinh thần, sự
bất bình đẳng giữa vợ và chồng thể hiện ở sự thiếu tôn trọng tư cách, nhân
phẩm, thể diện của phía đối phương. Những giá trị tinh thần này là hoàn toàn
bình đẳng, thuộc quyền nhân thân của mỗi cá nhân và đã được ghi nhận trong
Hiến pháp, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình… Bởi thế,
tôn trọng tư cách, nhân phẩm của người khác là nghĩa vụ của mỗi người mà

không loại trừ những người có quan hệ gia đình (trong đó có quan hệ vợ chồng)
để đảm bảo nhân quyền và sự bình đẳng giới cho tất cả mọi người.
Nếu như ở hình thức bạo lực về thể chất và tinh thần những người xung
quanh có thể nhận biết được phần nào thông qua những “dấu vết” hoặc những
biểu hiện bên ngoài thì hai hình thức bạo lực về tình dục và bạo lực về kinh tế
được coi là những dạng bạo lực “không nhìn thấy được” [33, tr.30]. Hình thức
bạo lực về tình dục thường được coi là một vấn đề tế nhị, kín đáo, đặc biệt với
những người phương Đông. Bởi vậy, kể cả trường hợp bạo lực về tình dục gây
ra nhiều hậu quả đáng tiếc hay đi kèm với các hình thức bạo lực khác thì những
nạn nhân cũng ngại lên tiếng. Thông thường nạn nhân của hình thức bạo lực tình
dục là phụ nữ với các hành vi từ người chồng như: cưỡng ép quan hệ tình dục,
ép buộc mang thai, ép buộc sinh con trai… Do nhiều lý do thuộc quan niệm, tính
cách nên không mấy người mang chuyện “phòng the” ra trước công luận. Đây là
một lý do để hình thức bạo lực về tình dục cứ ngấm ngầm diễn ra trong mỗi gia
đình. Chính vì thế mà vẫn còn những người vợ, người chồng phải gánh chịu
những hậu quả mà hành vi bạo lực tình dục gây ra về cả mặt thể xác lẫn tinh
thần. Hình thức bạo lực tình dục thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng bởi
xuất phát từ những ảnh hưởng của tư tưởng cũ, người chồng luôn áp đặt ý chí
của vợ trong mọi vấn đề, bao gồm cả chuyện quan hệ tình cảm. Và người vợ
trong mối quan hệ hôn nhân thường không dám thừa nhận và chống lại hình
thức bạo lực này. Do đó mà đời sống tình cảm của người vợ vẫn thường bị xâm
phạm từ chính người chồng của mình. Vì vậy, để bảo đảm sự bình đẳng trong
gia đình giữa vợ và chồng, cần thiết có sự tôn trọng tâm tư và nhu cầu tình cảm
của nhau để hoà hợp cuộc sống của hai người trong một gia đình.
Trong thời gian gần đây, hình thức bạo lực được nhắc tới nhiều hơn
trước là hình thức bạo lực về kinh tế - lao động. Hình thức bạo lực này được thể
hiện qua các hoạt động như chiếm đoạt, huỷ hoại tài sản riêng hoặc tài sản
chung của các thành viên trong gia đình, cưỡng ép lao động quá sức, cưỡng ép
đóng góp tài chính quá khả năng của một người, kiểm soát thu nhập… Trong
quan hệ giữa vợ và chồng, các hành vi đó không dễ dàng được nhận biết là biểu

hiện của bạo lực về kinh tế - lao động vì trong nhiều trường hợp, nó trùng với
những hoạt động tổ chức đời sống sinh hoạt gia đình. Tuy nhiên, khi những đòi
hỏi về tài chính, lao động vượt quá khả năng của một bên vợ hoặc chồng thì nó

×