Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.28 KB, 10 trang )

Sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Như chúng ta đã biết, cho đến nay trong văn kiện của Đảng đã chính thức sử dụng
thuật ngữ sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước hàm ý thay thế cho sở hữu toàn dân
và kinh tế quốc doanh. Việc dùng thuật ngữ sở hữu nhà nước hàm ý thay thế sở
hữu toàn dân xuất phát từ 3 lập luận: Một là, trong suốt chặng đường xây dựng
CNXH ở Việt Nam các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, không những không
được quản lý chặt chẽ để bảo toàn mà, thậm chí còn bị hao tổn và thất thoát.
Nguyên nhân của tình trạng trên được quy về là do thuật ngữ sở hữu toàn dân dẫn
đến hậu quả là không có ai sở hữu, tức là vô chủ. Hai là, nhà nước của Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước “ của dân, do dân, vì dân”, do đó nói
sở hữu nhà nước, đã tất yếu bao hàm nghĩa toàn dân, đồng thời lại góp phần làm
sáng tỏ hơn chủ thể sở hữu. Ba là, khi xác định chủ thế sở hữu là nhà nước, thì nhà
nước ấy không có nghĩa chỉ có Chính phủ, mà nhà nước trong trường hợp này bao
hàm cả Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội và Đảng. Cho nên, khái niệm nhà nước
trong trường hợp này không hề chỉ là một chủ thể đại diện cho một nhóm người,
hay cho một giai cấp, mà cho nhân dân lao động nói chung.
Thế nhưng, trên thực tế việc thay thế như trên chưa phải đã đạt được sự đồng
thuận tuyệt đối, nhất là trong bối cảnh, các đối tượng vốn thuộc sở hữu toàn dân,
nay quy về cho sở hữu nhà nước vẫn tiếp tục bị quản lý lỏng lẻo, bị lãng phí,
chiếm đoạt làm của riêng của cá nhân hoặc của nhóm người. Chính vì thế trong
giới khoa học cho đến nay vẫn tiếp tục tranh luận về chủ đề này và theo sự tổng
kết của đề tài KX.01.02 “ Sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ( Giai đoạn 2001
2005)” thì hiện vẫn tồn tại 4 loại ý kiến khác nhau:
• Ý kiến thứ nhất, cho rằng, đây là hai khái niệm mặc dù tên gọi khác nhau
nhưng thống nhất và đồng quy với nhau. Cơ sở của lập luận này, thực ra
vẫn khẳng định rằng sở hữu XHCN là sở hữu toàn dân, nhưng hình thức để
thực hiện chủ thể sở hữu phải thông qua chủ thể đại diện là Nhà nước, nên
gọi sở hữu nhà nước về thực chất vẫn là sở hữu toàn dân thông qua Nhà
nước mới có thể thực hiện được quyền quản lý và quyền định đoạt được.


• Ý kiến thứ hai, cho rằng, có sự khác nhau giữa sở hữu toàn dân và sở hữu
nhà nước, nhưng trong thời kỳ phát triển hiện nay của nước ta,chỉ nên sử
dụng khái niệm sở hữu nhà nước là đủ, còn sở hữu toàn dân chưa có điiều
kiện thực hiện. Cơ sở sâu xa của lập luận này bắt nguồn từ chỗ cho rằng,
chắc chắn tồn tại phạm trù sở hữu toàn dân, nhưng phạm trù đó chỉ xuất
hiện hay đúng hơn chỉ đầy đủ các tiền đề để xuất hiện khi xây dựng xong
CNXH.
• Ý kiến thứ ba, cho rằng, sở hữu toàn dân hoàn toàn khác với sở hữu nhà
nước. Ở đây tác giả ( Nguyễn Quốc Tuấn- trích dẫn từ cuốn sách” Sở hữu
nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trương định
hướng XHCN của các tác giả Nguyễn Cúc và Kim Văn Chính”) lập luận “
chiếm hữu công cộng có hai hình thức cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu
nhà nước. Toàn dân và nhà nước là hai khái niệm khác nhau nên sở hữu
toàn dân và sở hữu nhà nước cũng là hai khái niệm có nội hàm và ngoại
diên khác nhau, chúng có sự thống nhất chứ không đồng nhất…Nó thay
mặt cho nhân dân nhưng không phải nhân dân. Nó quản lý xã hội nhưng
không phải xã hội. Nhà nước nhân danh toàn dân chứ không phải toàn
dân”. Theo chúng tôi, ý kiến này đã đồng nhất khái niệm chiếm hữu với sở
hữu, trong khi lý luận khoa học kinh tế khẳng định chiếm hữu là một khía
cạnh của sở hữu. Hơn thế nữa, ý kiến này lại đem chia nhỏ thuật ngữ ra
nhằm hàm ý thay cho thuật ngữ để vạch ra sự khác nhau giữa chúng. Sở
hữu toàn dân và toàn dân là khác nhau. Sở hữu nhà nước và nhà nước
đương nhiên không phải là một, tương tự như vậy, thay mặt nhân dân
đương nhiên là khác nhân dân, quản lý xã hội đương nhiên không phải là xã
hội…
• Ý kiến thứ tư, theo như các tác giả của cuốn sách đã trích dẫn, vừa muốn
phân biệt sở hữu toàn dân với sở hữu nhà nước, nhưng lại vừa muốn đồng
nhất chúng. Từ đó, các tác giả của cuốn sách đã đi đến khẳng định: đây là
loại ý kiến hàm chứa mâu thuẫn nội tại. Để tăng tính thuyết phục của phê
phán này các tác giả của cuốn sách đã đưa ra hàng loạt trích dẫn liên quan

đến loại ý kiến này:” Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà chủ thể sở
hữu là nhà nước và đối tượng sở hữu là toàn bộ của cải vật chất thuộc chủ
quyền của một quốc gia của một nước”. Về mặt lý luận, sở hữu toàn dân là
một loại hình sở hữu cơ bản của xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa…”.” Nhà nước ta là nhà nước của dân, vì dân và do dân lập nên, do
bản chất ấy nhà nước ta đủ tư cách đại diện cho toàn dân và trở thành chủ
sở hữu quan trọng của quốc gia. Nói sở hữu toàn dân cũng có nghĩa là đối
tượng sở hữu ( tài sản, vật dụng, tư liệu sản xuất…) là của chung, trừu
tượng không thuộc về ai cả, ai cũng có quyền, ai cũng có thể chiếm hữu, sử
dụng, cũng tức là vô chủ”. Thực ra, loại ý kiến thứ tư này không phải hàm
chứa mâu thuẫn nội tại như cách hiểu của các tác giả cuốn sách đã trích
dẫn. Theo chúng tôi, ý kiến thứ tư này trùng với loại ý kiến thứ hai, tức là:
ý kiến này cho rằng sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu phù hợp với giai
đoạn phát triển cao của xã hội loài người- giai đoạn xã hội chủ nghĩa đã
chin muồi và xuất hiện tiền đề của chế độ cộng sản chủ nghĩa. Dùng hình
thức sở hữu này đối với “ toàn bộ của cải vật chất thuộc chủ quyền của một
quốc gia, của một nước” hay đối với “ tài sản, vật dụng, tư liệu sản xuất…”
trong giai đoạn đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
như Việt Nam hiện nay và thậm chí như ở các nước thuộc hệ thống XHCN
cũ trước đây là nguyên nhân của tình trạng vô chủ và lãng phí tài sản quốc
gia. Từ đó, các đai biểu của loại ý kiến này đi đến đề xuất: dùng khái niệm
sở hữu nhà nước thay cho khái niệm sở hữu toàn dân là sự lựa chọn phù
hợp cho Việt Nam hiện nay. Chúng tôi cho rằng, đây cũng chính là quan
điểm chính thống của Đảng ta hiện nay. Chỉ có điều trong loại ý kiến này
việc xác định đối tượng sở hữu là chưa đủ rõ và cơ chế thực hiện quyền sở
hữu của chủ thể sở hữu là chưa được đề cập đến.
Lâu nay khi bàn về bản chất của sở hữu chúng ta thường đề cặp đến: khái niệm sở
hữu, xác định chủ thể sở hữu và đối tượng sở hữu, phân biệt sở hữu kinh tế và sở
hữu về mặt pháp lý, nội dung của sở hữu ( trong đó có, phân biệt quyền sở hữu và
quyền sử dụng), hình thức, loại hình và chế độ sở hữu,…Dưới đây chúng tôi muốn

đề cập đến hai khía cạnh đã được bàn đến ở trên là chủ thể sở hữu và đối tượng sở
hữu, đồng thời đưa thêm chủ đề về cơ chế thực hiện quyền sở hữu. Theo chúng
tôi, đây là những khía cạnh có liên quan trực tiếp đến việc xác định phạm vi hay
đối tượng của sở hữu nhà nước.
Chúng tôi cho rằng, khi nói đến sở hữu toàn dân thì đối tượng sở hữu phải là tất cả
những thứ, những cái có giá trị do tự nhiên tạo ra thuộc về nhân dân của một quốc
gia. Đối với Việt Nam đối tượng thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: đất đai, rừng, tài
nguyên, khoáng sản, vùng trời ,vùng biển ( thuộc phạm vi chi phối của Luật biển
Quốc tế). Cơ chế định đoạt đối với những đối tượng trên phải thuộc về toàn bộ
nhân dân, được thừa nhận trong hiến pháp và được thể chế hóa bằng hệ thống luật
pháp của quốc gia và luật pháp quốc tế, tùy từng đối tượng. Đối với những đối
tượng thuộc sở hữu toàn dân, cơ chế thực hiện quyền sở hữu- quyền định đoạt đối
với chúng, về nguyên tắc phải thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền đó có
thể bằng cơ chế trực tiếp hoặc cơ chế đại diện hoặc kết hợp cả hai, quyền này thì
bằng cơ chế trực tiếp, quyền kia bằng cơ chế đại diện. Tất nhiên, dù dùng cơ chế
nào thì cũng phải thông qua việc thực thi quyền lực của nhà nước. Với cơ chế trực
tiếp thì trước khi sử dụng quyền lực nhà nước để thi hành mệnh lệnh của nhân
dân, thì nhân dân phải có quyền bàn bạc kỹ lưỡng để thông qua quyết định định
đoạt tài sản- đối tượng sở hữu của mình. Còn khi đã dùng cơ chế đại diện thì chắc
chắn phải đảm bảo thay mặt nhân dân thực sự chứ không phải hình thức. Nhưng
nói chung, đối với Việt Nam không nên dùng cơ chế đại diện. Nhân đây chúng tôi
cũng cho rằng, không thể chỉ dựa vào câu chữ để tuyên bố rằng, nhà nước của
chúng ta là “ nhà nước của dân, do dân và vì dân”, thì trên thực tế nhà nước ấy đã
đủ thẩm quyền, uy tín, năng lực và phẩm chất đại diện cho toàn dân trong mọi tình
huống, nhất là trong bối cảnh khi chúng ta chưa có nhà nước pháp quyền, chưa
phải là nhà nước tam quyền phân lập, chưa có đủ hệ thống luật pháp đầy đủ, rõ
ràng, có quy chế dân chủ cơ sở nhưng việc thực thi còn yếu kém… Đây mới chính
là những nguyên nhân sâu sa làm cho những thứ, những cái thuộc về nhân dân
được quản lý, bảo vệ, khai thác kém hiệu quả, chứ hoàn toàn không phải do chúng
thuộc sở hữu toàn dân. Tuy nhiên, tùy vào từng quốc gia và từng giai đoạn phát

triển của mỗi quốc gia mà phạm vi các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân bị thu hẹp
hay mở rộng trong số các đối tượng kể trên.
Khi nói đến sở hữu nhà nước thì đối tượng sở hữu phải là những thứ, những cái có
giá trị do lao động của những con người của một quốc gia hoặc sinh sống ở quốc
gia đó đã và đang tạo ra được tích lũy trong suốt quá trình tồn tại của đất nước do
nhà nước quản lý, toàn quyền định đoạt và được thừa nhận bởi hệ thống luật pháp
của quốc gia. Đối với Việt Nam hiện nay những thứ đó, theo chúng tôi, bao gồm:
Các tài sản công ( cả hữu hình và vô hình hay vật thể và phi vật thể), Ngân sách
quốc gia ( cả của Trung ương và địa phương), dự trữ quốc gia, tài chính-tín dụng
nhà nước, hệ thống doanh nghiệp nhà nước, hình ảnh quốc gia. Cơ chế thực hiện
quyền định đoạt đối với những thứ, những cái thuộc quyền sở hữu của nhà nước
cũng có thể thông qua hai con đường: trực tiếp và đại diện. Khi thực hiện cơ chế
trực tiếp thì nhà nước, theo chúng tôi trong tình huống của Việt Nam đó là Chính
phủ, có toàn quyền định đoạt đối với các đối tượng thuộc quyền sở hữu của mình,
nhưng vẫn phải đặt dưới sự giám sát của Quốc hội, của Chủ tịch nước, của bộ máy
nhà nước . Còn đối với những đối tượng mà Chính phủ thông qua chủ thể đại diện
để thực hiện quyền sở hữu của mình thì Chính phủ có toàn quyền xây dựng cơ chế
đại diện chủ sở hữu, nhưng điều đó không có nghĩa là đại diện chủ sở hữu chịu
trách nhiệm trực tiếp trước Quốc hội, Chủ tịch nước và Đảng về việc bảo tồn, khai
thác và sử dụng hiệu quả các đối tượng sở hữu mà người chịu trách nhiệm cuối
cùng vẫn là Chính phủ. Với những phân tích như trên có thể rút ra một số kết luận
sau:
• Một là, không nên dùng thuật ngữ sở hữu nhà nước thay thế và làm đồng
nghĩa với sở hữu toàn dân. Ở Việt Nam luôn luôn song song tồn tại cả sở
hữu toàn dân và sở hữu nhà nước. Về điều này chúng ta có thể tham khảo
kinh nghiệm của Trung Quốc. Trung Quốc, hình như, dùng thuật ngữ quốc
hữu để phản ánh các đối tượng thuộc sở hữu của toàn dân và sở hữu của
nhà nước. Theo kinh nghiệm đó Việt Nam nên dùng thuật ngữ sở hữu quốc
gia để chỉ các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước. Chúng
tôi cho rằng, sở hữu quốc gia và sở hữu nhà nước là khác nhau. Sở hữu

quốc gia bao hàm cả sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước, nhưng sở hữu
nhà nước thì không thể bao gồm cả sở hữu toàn dân. Chủ thể của sở hữu
quốc gia suy cho cùng là toàn thể nhân dân, còn chủ thể của sở hữu nhà
nước là hệ thống nhà nước. Nhân dân có thể trao cho nhà nước làm chủ thể
sở hữu đại diện một bộ phận hay một số đối tượng thuộc sở hữu quốc gia.
Cái gì nhân dân không giao nhà nước không được tùy tiện định đoạt.
• Hai là, cũng cần phải xem lại, có nên dùng khái niệm kinh tế nhà nước hay
không? Ở nhiều nước họ dùng khái niệm kinh tế nhà nước trong điều kiện,
hình như, phần lớn các đối tượng do tự nhiên tạo ra đều thuộc sở hữu tư
nhân. Còn ở Trung Quốc cũng không tồn tại khái niệm kinh tế nhà nước,
mà họ dùng khái niệm kinh tế quốc hữu. Đây là khu vực hay bộ phận kinh
tế được xây dựng trên nền tảng của tài sản quốc hữu. Việt Nam nên dùng
khái niệm kinh tế thuộc sở hữu quốc gia chứ không nên dùng khái niệm
kinh tế nhà nước. Khái niệm kinh tế nhà nước được dùng ở nước ta hiện
nay và được giải thích bao gồm cả bộ phận doanh nghiệp và bộ phận phi
doanh nghiệp. Trong bộ phận phi doanh nghiệp lại bao gồm cả những yếu
tố, những đối tượng chưa hoặc không huy động vào sản xuất kinh doanh là
phi lý. Những đối tượng như thế, theo chúng tôi, chúng thuộc sở hữu quốc
gia nhưng chưa tham gia vào vận hành kinh tế, thì chưa thể gọi là “ kinh tế”
được. Nhưng nếu chúng được dùng để cho thuê hoặc khai thác kinh doanh
dưới các hình thức khác nhau thì khi đó chúng đã là yếu tố tham gia vào bộ
phận kinh tế thuộc sở hữu quốc gia. Các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân
chỉ tạo ra tiềm năng về kinh tế, chứ không hoặc chưa tạo ra sức mạnh về
kinh tế, thậm chí có những đối tượng mà sự tồn tại của nó còn tiềm ẩn cả
những tổn thất kinh tế.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN - một đột phá chiến
lược
Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết nhiệm kỳ 2006-2010, Đại hội XI của
Đảng khẳng định: “Thể chế kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ
tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển”. Đó chính là những “điểm

nghẽn” cản trở quá trình hấp thụ vốn đầu tư và sự vận hành trôi chảy nền
kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Để khắc
phục những hạn chế đó, Đại hội XI của Đảng đã chủ trương thực hiện 3 đột
phá chiến lược: Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN; phát triển
nhanh nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một
số công trình hiện đại. Trong đó, Đảng ta xác định: Việc hoàn thiện thể chế
KTTT định hướng XHCN được đặt lên hàng đầu. Bởi đó là khâu đột phá
mang lại hiệu quả cao nhất, có tác dụng thúc đẩy hai đột phá còn lại.
Thực tiễn sau 25 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cho thấy: Chỉ với việc
chuyển đổi thể chế kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang thể
chế kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước XHCN, các nguồn lực nền kinh tế nước ta đã được phát huy
có hiệu quả hơn. Từ một nước thiếu ăn, phải nhập khẩu lương thực, đời sống nhân
dân vô cùng khó khăn, nay nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển với GDP
bình quân đầu người đạt 1.200USD; trở thành nước xuất khẩu gạo có vị trí thứ hai
trên thế giới. Điều đó khẳng định rằng, một thể chế kinh tế phù hợp sẽ là động lực
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Trải qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã làm được nhiều việc để
xây dựng và từng bước hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN trên cả ba
phương diện: “Luật chơi”; “Sân chơi” và “Người chơi”. Theo đó, hệ thống pháp
luật tạo khung khổ pháp lý cho nền KTTT định hướng XHCN đã được bổ sung,
hoàn thiện, đáp ứng điều kiện để nước ta trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
Các loại thị trường bước đầu được hình thành đồng bộ bao gồm cả thị trường công
nghệ và thị trường lao động; trong đó thị trường chứng khoán-thành tựu cao nhất
của nền KTTT trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Các
loại hình doanh nghiệp dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau đều được khuyến
khích phát triển không giới hạn về quy mô và trình độ, trong những lĩnh vực mà
pháp luật không cấm.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tiễn, thể chế KTTT định hướng XHCN cũng còn
bộc lộ không ít vấn đề bất cập. Những hạn chế nảy sinh trong thực tế đời sống trở

thành “rào cản” của sự phát triển và được Đại hội XI của Đảng nhìn nhận: “Kinh
tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sự cạnh
tranh của nền kinh tế thấp; các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc”. Vì vậy, đột
phá vào hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn,
nhằm tạo tiền đề “thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô”-Đúng như Đại hội XI xác định: Đây cũng là
cách làm ít tốn kém nhất trong quá trình thực hiện ba đột phá chiến lược.
Để hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, Đại hội XI chủ trương thực hiện
nhiều giải pháp đồng bộ, bao quát cả ba yếu tố tạo thành thể chế kinh tế với trọng
tâm hướng vào “tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính”.
Để làm tốt vấn đề trọng tâm nêu trên, điều quan trọng hàng đầu là phải nhận thức
đúng đắn về tính phổ biến và đặc thù của nền KTTT định hướng XHCN; trên cơ
sở đó, hoàn thiện khung khổ pháp lý, nhằm bảo đảm cho mọi hoạt động kinh tế
phù hợp với quy luật vận hành của nền KTTT, cũng như để giữ vững định hướng
XHCN trong quá trình phát triển. Theo đó, mặc dù nền KTTT định hướng XHCN
ở nước ta được nhận thức là một hình thái KTTT đặc biệt, có nét đặc thù là “được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”; nhưng tính phổ biến
của KTTT luôn đòi hỏi sự vận hành của nền KTTT định hướng XHCN phải chịu
sự chi phối trước hết của các quy luật kinh tế khách quan. Do vậy, quá trình vận
hành, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ để phát triển mạnh mẽ và có
hiệu quả mọi nguồn lực; còn sự can thiệp của Nhà nước XHCN vào nền KTTT để
thực hiện quyết tâm chính trị nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH cũng
không thể tùy tiện, duy ý chí, mà phải dựa trên cơ sở tôn trọng các quy luật của thị
trường. Bỏ qua hay vi phạm các quy luật của thị trường, thì sự can thiệp của Nhà
nước XHCN chẳng những sẽ làm méo mó các quan hệ thị trường, mà các mục tiêu
của CNXH cũng sẽ khó thực hiện được như mong muốn và nảy sinh thêm nhiều
tiêu cực. Đây là vấn đề được Đại hội XI nhấn mạnh cả trong Báo cáo Chính trị
cũng như trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020; phản ánh bước tiến
mới trong nhận thức và hành động của Đảng ta về phát triển nền KTTT định
hướng XHCN; thể hiện sự đoạn tuyệt triệt để với “tàn dư” của cơ chế kinh tế cũ và

khẳng định quyết tâm đổi mới toàn diện hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế,
phù hợp với yêu cầu của nền KTTT.
Nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, Đại hội XI chủ trương: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật và chính sách kinh tế trên cơ sở tôn trọng quyền tự do kinh doanh theo
pháp luật của mọi công dân; Nhà nước bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp; cùng
với việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách về sở hữu toàn dân, sẽ
xây dựng, hoàn thiện pháp luật về sở hữu đối với các loại tài sản mới như sở hữu
trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước…; đồng thời, quy định rõ trách nhiệm
của các chủ sở hữu đối với xã hội. Bên cạnh đó, Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh cải
cách hành chính theo hướng giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây
phiền hà cho tổ chức và công dân; đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công phù
hợp với cơ chế KTTT định hướng XHCN. Khi các thủ tục hành chính phiền hà
được xóa bỏ, thì môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh
nghiệp sẽ được đảm bảo.
Tiếp tục thể chế hóa các quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức
sở hữu, các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; bảo đảm mọi thành
phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, hợp tác, cạnh
tranh bình đẳng, lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Với
việc tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong quá trình phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần là kết quả của quá trình tổng kết lý luận và thực
tiễn đổi mới 25 năm qua của Đảng ta; phản ánh nét đặc thù của nền KTTT định
hướng XHCN so với nền KTTT định hướng tư bản chủ nghĩa. Theo đó, Đại hội XI
khẳng định: Thực hiện đổi mới, hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách về sở hữu
toàn dân đối với đất đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công khác, nhằm bảo
đảm quyền sở hữu vẫn thuộc về Nhà nước, nhưng quyền sử dụng được giao cho
các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế theo nguyên tắc hiệu quả thông qua cơ
chế thị trường; đồng thời đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp Nhà nước theo hướng: Cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh

của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty Nhà nước, tập trung vào một số
ngành và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, phân định rõ quyền sở hữu Nhà nước
và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, xác định cụ thể quyền và trách nhiệm của
hội đồng quản trị và giám đốc doanh nghiệp, nhằm khắc phục tình trạng vô chủ và
sử dụng vốn Nhà nước đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, gây tổn thất, lãng phí.
Cùng với vấn đề nêu trên, Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ con đường phát triển
của kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, cũng
như các loại hình thị trường. Đặc biệt, đối với việc nâng cao vai trò và hiệu lực
quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền KTTT định hướng XHCN, Đại hội XI
khẳng định sự cần thiết phải “giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và
thị trường”. Theo đó, Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế, nhằm hiện thực
hóa các mục tiêu của CNXH bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ
điều tiết khác, nhưng “trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy
luật và cơ chế vận hành của nền KTTT”; Nhà nước tập trung duy trì ổn định kinh
tế vĩ mô, định hướng phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh, bền
vững, vừa không phó mặc cho thị trường, vừa không tùy tiện can thiệp làm sai
lệch các quan hệ thị trường; không lẫn lộn chức năng quản lý kinh tế Nhà nước
với chức năng kinh doanh của doanh nghiệp. Năng lực và hiệu lực quản lý Nhà
nước được nâng cao theo đúng những định hướng mà Đại hội XI xác định, sẽ là
nhân tố vừa bảo đảm cho nền kinh tế được vận hành trôi chảy theo yêu cầu của các
quy luật kinh tế khác nhau, vừa bảo đảm hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH
một cách bền vững.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 nêu rõ: “Hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa (XHCN); bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực”. Góp ý vào vấn đề
này, nhiều ý kiến cho rằng cần làm rõ khái niệm “kinh tế thị trường định hướng
XHCN”.
Theo Tiến sĩ kinh tế Lê Quốc Hội, Phó Tổng biên tập Tạp chí Kinh tế và Phát
triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân, thực tế thị trường tự do theo nghĩa hoàn

toàn tự điều tiết đã gây hệ lụy với cuộc khủng hoảng tiền tệ nói riêng và khủng
hoảng kinh tế toàn cầu nói chung. Việc phục hồi nền kinh tế đã phải dùng liệu
pháp can thiệp mang tính định hướng của Nhà nước tại các quốc gia có nền kinh tế
thị trường vốn tự do. Tiến sĩ Lê Quốc Hội cho rằng, vấn đề ở đây là xác định rõ
định hướng XHCN với nền kinh tế là định hướng như thế nào?
“Trước hết phải khắng định, với một nước có nền kinh tế còn thấp như Việt Nam
thì việc lựa chọn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
phương thức thích hợp và hiệu quả. Theo tôi, ở đây có hai vấn đề chúng ta cần đề
cập: thứ nhất là nền kinh tế thị trường, thứ hai là tính định hướng XHCN. Và nội
hàm định hướng XHCN ở đây được hiểu là nền kinh tế thị trường nhưng được
quản lý bởi Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân, vì nhân dân, cho nên nó
nhằm mục tiêu là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”-
TS Lê Quốc hội nói.
Về vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, Dự thảo Chiến lược khẳng định: “Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và
điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”.
Ở nước ta, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là xuất phát từ lợi ích của đất nước
trong thời kỳ quá độ lên XHCN, là "hòn đá thử vàng" để xem xét sự đúng hướng
hay chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình phát triển kinh tế. Kinh tế nhà
nước càng phát huy tốt vai trò chủ đạo bao nhiêu thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển
nhanh, góp phần thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh" nhanh và vững chắc bấy nhiêu.
Tuy nhiên, Tiến sĩ Lê Quốc Hội cho rằng, phải thừa nhận hiện nay trong thành
phần kinh tế nhà nước các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí cơ bản và rất to lớn
nhưng không ít đơn vị chưa xứng đáng với vai trò mà nó đang nắm giữ.
Dự thảo văn kiện khẳng định, vai trò của kinh tế tư nhân đã có đóng góp lớn vào
sự phát triển kinh tế của đất nước. Trên thực tế, khu vực kinh tế tư nhân tỏ ra hết
sức năng động, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP và tạo ra 90% việc
làm cho người lao động. Trong Dự thảo chiến lược cũng nêu: “Tiếp tục đổi mới

việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”.
Theo chuyên gia kinh tế Trần Tô Tử, nếu chỉ nhìn vào chính sách đối với các Tập
đoàn, Tổng công ty lớn của Nhà nước mà cho rằng các doanh nghiệp tư nhân đang
bị đối xử bất bình đẳng là không thỏa đáng.
Chuyên gia kinh tế Trần Tô Tử cho rằng, môi trường kinh doanh bình đẳng cần
được thể hiện rõ ràng, sòng phẳng, để mọi thành phần kinh tế phát huy sức sáng
tạo, vươn lên đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Hiện nay, trong tổng số 500 doanh nghiệp lớn nhất nước ta, số lượng doanh
nghiệp tư nhân lớn chiếm 30% trong năm 2009. Một số doanh nghiệp tư nhân đã
phát triển thành tập đoàn kinh tế, đầu tư ra nước ngoài, với sản phẩm ngày càng
phong phú, đa dạng, có uy tín và có thương hiệu. Tỷ trọng thu ngân sách Nhà
nước từ khu vực kinh tế tư nhân tăng từ 6% trong năm 2002 đến trên 11% trong
năm 2008./.

×